Tầng một là mặt tiền cửa hàng bán đàn của Thẩm Ngọc Nhữ đồng thời là phòng làm việc, tầng hai có hai phòng ngủ và phòng sách, tầng ba trước đây làm kho chứa đồ, nhưng sau sự hiện diện của một người đàn ông nó đã biến thành nơi trồng hoa. Người ấy đi rồi, nữ chủ nhân xuề xòa và mù tịt kỹ năng làm vườn để hoang lâu dần, vườn hoa lại trở về phòng kho.
Ngoài một vài nốt nhạc trong bản Beyond The Pavilion bên dưới câu thơ của Petofi, mặt tiền cửa hàng của Thẩm Ngọc Nhữ rất đơn sơ, không gian bên trong giống phòng khách của một hộ gia đình bình thường hơn là nơi chế tác nhạc cụ. Có điều chủ nhân của nó rất có gu thẩm mỹ, những món nội thất sang tay năm xưa mua lại ở chợ đồ cũ vì túng quẫn sau từng ấy năm dần dần toát lên vẻ sang trọng nhã nhặn vượt thời gian và xưa cũ đầy độc đáo.
Căn phòng sáng sủa đầy nắng, theo lời thổi phồng lố bịch của tay bán nhà hồi đó, ngôi nhà này có căn phòng bắt sáng tốt nhất cả con đường này. Ngay khi mặt trời vừa lên, tia nắng đã len lỏi đi khắp cùng ngóc ngách trong căn phòng —— Sáng sớm, nó in bóng khung cửa sổ lên sô pha, đến giữa trưa đã mấp mé đến tấm thảm mượt như nhung với mấy chiếc gối nằm chỏng chơ, chạng vạng hoàng hôn đã nằm lại chiếc ghế mây ọp ẹp.
Ngày ngôi nhà này có bóng dáng một đứa trẻ và một người đàn ông, Edwin từng cho Thẩm Gia Ánh một chiếc đồng hồ có định vị GPS. Nếu tiến hành ghi nhận trực quan hành trình đứa nhóc bắt đầu từ lúc mới ngủ dậy đi quanh quất khắp nhà tìm chỗ ngủ kế tiếp, buổi chiều thò mặt ra đường vươn vai phơi nắng, bạn sẽ ngạc nhiên khi nhận ra hành trình của đứa nhóc gần như trùng khớp với quỹ tích ghé thăm của mặt trời.
Bốn giờ chiều Budapest vẫn sáng như ban ngày, giờ này nắng chỉ vừa lang thang đến cầu thang nơi góc rẽ, ở đó có một chiếc bàn vuông nhỏ trải khăn hoa nhí, bên trên là vài chiếc khung hình. Trong số đó có một chiếc khung đặc biệt hơn đôi chút giữ tấm hình Thẩm Gia Ánh chụp một mình thời niên thiếu.
Chưa kể, Thẩm Gia Ánh tóc ngắn đó nha.
Trước lúc lên cầu thang Thẩm Thiêm đã úp khung hình xuống mặt bàn.
Thẩm Ngọc Nhữ chuyển vào căn nhà này ở vào lúc đang mang thai năm hơn hai mươi tuổi. Bốn mươi tám năm đã trôi qua, căn nhà được sửa chữa hai lần, số đồ đạc trong nhà giảm rồi tăng, rất nhiều trong số chúng đã đến tuổi thọ sử dụng, cầu thang làm bằng gỗ đã bắt đầu ọp ẹp cót két —— Vang hơn cả hồi Thẩm Thiêm vừa lên đại học chuyển khỏi nhà.
Khi bước chân lên bậc thang đầu tiên, trong ngạc nhiên, anh thoáng khựng bước, nhưng cũng chỉ trong chớp mắt ngắn ngủi Thẩm Thiêm đã chỉnh trang lại cảm xúc, bước từng bậc thang đi lên.
Hai người còn lại trong nhà thiện tâm vờ như không trông thấy anh rón rén lên cầu thang. Chỉ khi nghe thấy tiếng mèo kêu và tiếng hô hoán ngạc nhiên của Thẩm Thiêm lúc mở cửa phòng trên tầng hai, Thẩm Ngọc Nhữ mới quay đầu, nhìn đôi mắt sáng rỡ mò từ trên lầu xuống kia giải thích: “Con mèo hoang hồi đi học con hay cho ăn, nó ném con trước cửa nhà mình trước lúc đi hẳn.”
“Hành vi lưu manh thật.”
Thẩm Thiêm hùa theo lên án, bóng người ngả trên lan can thoắt cái biến mất. Theo tiếng meo meo sau đó, đoán chừng người nọ chơi với mèo vui vô cùng.
“Anh ấy thích mèo ạ?” Tần Tranh hơi ngạc nhiên.
Tuy đúng thật trước đây cả hai không có nhiều dịp tiếp xúc với mèo cạnh nhau, nhưng thỉnh thoảng tình cờ gặp được mèo trong hàng quán hay trên đường, dường như Thẩm Thiêm cũng rất ít khi nhìn chúng với ánh mắt nào khác.
Thẩm Ngọc Nhữ “Ừ” một tiếng, ánh mắt vẫn dán chặt vào chiếc kéo đang thoăn thoắt trong tay, cẩn thận chừa thời gian giải thích: “Bình thường thằng bé chỉ nhìn chứ không vuốt ve. Bà lười nuôi sinh vật sống nào khác, cộng thêm bệnh hen suyễn của bà nên Thẩm Gia Ánh cũng chưa ôm về bao giờ.”
Bệnh hen suyễn là thật nhưng không quá nghiêm trọng, miễn là để ý đồ ăn thức uống và mang theo thuốc đặc trị là được. Thậm chí Thẩm Ngọc Nhữ còn có thể ôm mèo hay rụng lông vào lòng như mọi người —— Đương nhiên, bà không làm vậy.
Quan hệ giữa bà và chú mèo này giống một đôi bạn cùng nhà hơn là chủ nhân và vật nuôi, hoặc là chủ nhà và khách trọ, một người chu cấp đồ ăn chỗ ngủ, một chu cấp… không phải các bà các mẹ luôn mua về sự dễ thương này sao?
“Phải rồi.” Thẩm Ngọc Nhữ ngẩng đầu nhìn vào cửa kính: “Bây giờ Thẩm Ngọc Ánh tên là cái gì ấy nhỉ?”
Tần Tranh ngồi vào ghế bà mới nói hắn lấy từ trong phòng làm việc của bà ra, bình thản trả lời: “Thẩm Thiêm, Thiêm là chữ Khổ thiếu nửa nét.”
“À, thằng bé này vẫn hay có mớ suy tưởng lạ kỳ.”
“Sao bà lại nói thế?”
“Đời nào không khổ ải?” Thẩm Ngọc Nhữ đi kéo đến sau tai Tần Tranh: “Nếu thiếu một nửa chữ khổ, vậy chữ Mệnh phải thiếu đến bao nhiêu?”
Giọng bà đầy hời hợt như thể chỉ đang vô tình biểu đạt suy nghĩ vừa thoáng qua trong đầu, nhưng khác nào một người đã tường tận thế gian.
Tần Tranh nhìn bà, không đáp.
Tấm gương cao từ trần đến sát đất được bao trong khung gỗ chạm trổ hoa văn, cậu trai trẻ tuổi cột một tấm vải lót cũ kỹ nhưng sạch sẽ. Hắn yên lặng ngồi ngay ngắn, người đàn bà cao tuổi đứng đằng sau, đang hết sức tập trung… cắt tóc cho Tần Tranh.
Ai cũng biết tóc con trai bao giờ cũng mọc nhanh. Cơ mà trước đây kiểu tóc của Tần Tranh đều do những nhà tạo mẫu tóc chính của những salon chuyên nghiệp tút tát riêng cho, hắn rất ít khi, thậm chí phải nói là chưa bao giờ đến nơi hoàn toàn chẳng liên quan gì đến chữ “trào lưu” và “hàng đầu”, để yên cho một bà cụ hình hình như đã vài chục năm chưa cắt tóc cho cháu ngoại mình.
Mặc dù nói người đằng sau lưng hắn là bà cụ thì hơi thiếu phép lịch sự, mà dường như không không hợp với hình tượng của Thẩm Ngọc Nhữ.
Thẩm Ngọc Nhữ rất xinh đẹp.
Nhìn quý bà từ trong gương, người luôn quá lười để chú ý đến người khác như Tần Tranh cũng không thể không thừa nhận, dường như thời gian dịu dàng hơn với bà nhiều lần.
Vẻ đẹp của Thẩm Ngọc Nhữ không phải kiểu nhẵn mịn không một nếp nhăn như hắn đã quen từ nhỏ đến lớn, đổi lấy sắc đẹp quay ngược thời gian bằng thẩm mỹ. Bà rất gầy, hoặc phải gọi là thon thả, mà lượng mỡ trong cơ thể không đủ để gây nên những nếp nhăn xuất hiện liên tục; nước da của bà không trắng hơn tuyết, đôi gò má không còn đầy đặn như thuở thiếu nữ, những ngón tay ngày xưa mảnh mướt mịn màng dần trở nên khẳng khiu, thậm chí nổi những đốm đồi mồi, trán, khóe mắt, cổ, đôi môi lúc mỉm cười, tất cả đều hiện hữu những nếp rãnh của thời gian. Nhưng sự hiện diện của chúng lại tự nhiên và vừa vặn khó tả bên cạnh đôi ngươi vẫn trong suốt như làn thu nước mùa thu, hệt như viết nên câu chuyện cổ tích xưa cũ nơi căn phòng này.
Không biết phải chăng người họ Thẩm đều mang cảm giác như thiếu đi cảm giác đang sống chân thực —— Nếu không diễn tả một cách trừu tượng thì, họ như những kiệt tác nghệ thuật được trưng bày trong viện bảo tàng còn ẩn tàng những bí mật mà nhân loại chưa bao giờ khám phá hết, dẫu có quan sát bao nhiêu vẫn luôn trong trạng thái thong dong ôn hòa.
Họ đã trải qua, hoặc dường như đã trải qua quá khứ bão giông bộn bề. Họ khác với tất cả những con người khác Tần Tranh từng gặp trong đời, như thể sống trong một quốc gia riêng, không một ai dễ dàng đoán được suy nghĩ của họ.
Thẩm Ngọc Nhữ là vậy, có khi Thẩm Thiêm cũng thế.
“Cậu đang nghĩ gì à?” Thẩm Ngọc Nhữ hỏi.
Tần Tranh thật thà: “Bà hơi có nét giống Audrey Hepburn.”
Thẩm Ngọc Nhữ cụp mắt khẽ bật cười: “Bà sẽ xem như cậu không nịnh nọt.”
Tần Tranh đáp: “Con chưa từng nịnh nọt ai bao giờ.”
“Bà thấy.” Thẩm Ngọc Nhữ thong dong nói, bà giống người Giang Thành bụng bồ dao găm hơn là những đồng hương Yến Thành bộc trực ngay dạ.
Thẩm Ngọc Nhữ nói: “Bà nghĩ, trước đây chắc cậu cũng chưa bao giờ gặp ai đi nịnh nọt người ta vì thằng bé nhỉ?”
Trên lầu bỗng có tiếng đàn vang.
Hẳn rằng lâu rồi không chỉnh dây lại và hiếm khi tập tành nên khúc piano nọ tra tấn mèo với người một lúc lâu, mãi sau mọi người mới miễn cưỡng nghe ra giai điệu Wonderland.
Vừa nãy Tần Tranh không trả lời bà, nhưng Thẩm Cảnh Nhữ coi như hắn ngầm thừa nhận. Lúc này người đàn bà thoáng nhăn nhíu mày vì tiếng piano, thật sự khó hiểu hỏi lại lần nữa: “Rốt cuộc nó thu hút cậu ở chỗ nào?”
Bản nhạc êm đềm bị cái tên phiền nhiễu kia đánh ra nhạc chiến tranh, kèm theo tiếng ré ầm chói tai của mèo béo ta vì không bỏ chạy được, đúng là làm phiền người khác mà. Nhưng Thẩm Ngọc Nhữ lại trông thấy trên khuôn miệng của cậu bạn nhỏ chẳng thích cười kia nét cong cong chẳng hề giấu giếm.
“Anh ấy đáng yêu lắm, không phải sao?” Tần Tranh hỏi ngược lại.
Đáng yêu, với nghĩa đáng được yêu. Hắn không khác gì đang hỏi một đằng trả lời một nẻo, nhưng dường như đây lại là một câu trả lời rất mực chân thành.
“Được thôi.” Thẩm Ngọc Nhữ chấp nhận câu trả lời nọ.
Được thôi.
Thẩm Ngọc Nhữ dời ánh mắt đăm đăm săm soi hắn khỏi tấm gương, tiếp tục ngắm nghía kiểu tóc dưới tay, bà vô cùng thiện chí nhắc nhở, thêm một lần nữa: “Đừng cựa quậy.”