Charlie Bone 5: Charlie Bone Và Nhà Vua Ẩn Mình

Chương 19: Một con cú lâm nguy


Charlie muốn đi tìm Naren ngay lập tức, nhưng Ông cậu Paton cương quyết bảo họ phải thảo luận một cách bình tĩnh và thấu đáo đã.

Tên thầy bùa đinh ninh mình đã thắng lợi; cô Chrystal đã lộ chân tướng mình là một mụ phù thuỷ, vì vậy trước mắt cô ta sẽ ẩn mình đã rồi mới quyết định bước tiếp theo.

“Ta tin là con sẽ được an toàn một thời gian,” Ông cậu Paton nói. “Đối phương cho rằng con đã bị đánh bại. Chúng sẽ không nghi ngờ nếu con không hành động hấp tấp. Tất nhiên là phải đi tìm Naren, nhưng hãy từ từ. Con phải tỏ ra phẫn chí, thất vọng hết sức.”

“Dễ thôi,” Charlie nói.

“Và khi tìm thấy cô bé đó,” Ông cậu tiếp tục, “hãy bảo cô bé đến quán Cà Phê Thú Kiểng vào lúc bốn giờ chiều mai.”

“Sao không là hôm nay?” Charlie nôn nóng. “Chúng ta phải là gì đó ngay, càng nhanh càng tốt chứ?”

“Chưa có gi sẵn sàng cả,” Ông cậu Paton phẩy tay một cách thô bạo. Ông nhắc nhở Charlie rằng trước tiên là phải tìm ra nhà vua đã. Khu đổ nát là địa điểm tìm kiếm, nhưng nơi đó rộng bạt ngàn, và cây cối um tùm.

“Áo thụng của ngài là lá mùa thu,” Ông cậu Paton nói, “vì vậy chúng sẽ có màu đỏ và vàng.Thấy được nó sẽ không khó khi mọi cây khác đêu trụi lá. Nhưng chúng ta cần tầm nhìn của một con chim.”

“Emma!” Charlie kêu lên. “Bạn ấy sẽ tìm ra cái cây.”

“Dĩ nhiên, Emma xinh xắn, con chim.”

“Có nhiều cây to trong khu đổ nát,” Ông cậu nó nói, “và rất ít cây rừng thực sự còn sót lại.” Ông bắt đầu bước quành qua cái giường hỗn độn của mình, rãnh nhăn trên trán hằn xuông tập trung.

Ông cậu Paton thích điều binh khiển tướng, và Charlie nghĩ thật buồn là tài phép làm nổ bóng đèn đã ngăn cản ông nắm giữ những vai trò lớn lao hơn trong những công việc ngoài đời.

“Ta nghĩ ra rồi!” Ông cậu Paton quay ngoắt lại với vẻ rạng ngời chiến thắng. “Tất cả là ở trong đó.” Ông vỗ trán. “Với kế hoạch này, ta e rằng ông Onimous sẽ phải tiết lộ cánh cửa bí mật của ông ấy với những đứa trẻ khác, bởi vì đó là con đường các con sẽ cần phải đi qua để tới khu đổ nát – vào lối đi bên dưới bức tường cổ.”

“Ông Onimous sẽ không bao giờ để ai vào đó đâu,” Charlie nói. “Ông ấy rất sợ để cho những người không thích hợp biết về nó. Lỡ may có bọn anh em nhà Loom ở trong quán cà phê thì sao?”

“Sẽ cần phải thuyết phục ông bạn nhanh nhẹn của chúng ta,” Ông cậu Paton dứt khoát. “Ông ấy cũng sẽ phải nới lỏng quy tắc về thú cưng, chỉ trong một ngày thôi. Xin lỗi, nhưng ta không thể chịu nổi chuột cảnh cứ rúc rích trong túi quần của ta được.”

“Ông cũng tới à, Ông cậu Paton?”

“Chắc chắn. Và ta hy vọng tất cả những phụ huynh khác cũng có mặt ở đó. Để bảo vệ, Charlie à. Càng đông càng tốt.”

“Bọn thú ác cảm với ông Torsson,” Charlie nói, mải chìm đắm trong những ý nghĩ. “Chúng thấy ông ấy cứ như giông bão ấy.”

“Thế thì không cần thú cho ông Torsson. Ta thắc mắc liệu thẩm phán Sage có chịu hưởng ứng hay không. Chắc chắn ông ấy lúc nay là rất giá trị.”

“Lysander bảo hôm nay ông thẩm phán ở nhà.”

“Ta sẽ gọi điện cho ông ấy. Và nhà Silk nữa, ta chắc chắn họ sẽ tới. Nhà họ có rất nhiều thú,” Ông cậu Paton xoa xoa hai tay vào nhau.

“Chúng ta có thể mời cả gia đình Gunn,” Ông cậu Paton làm vài động tác nhảy.

“Còn cô Vertigo? Chú Vertigo đang ở Nam Phi để đạo diễn một bộ phim rất quan trọng.”

“Hừm. Cô ấy coi hào nhoáng điệu đàng quá,” Ông cậu Paton nói với vẻ lưỡng lự. “Dễ gây chú ý lắm.”

“Nhưng cô ấy là diễn viên,” Charlie cãi “Con biết cô ấy có thể đóng giả người ngèo xác xơ nếu Ông cậu muốn cô ấy phải như vậy.” Nó hít một hơi, và rồi ngập ngừng thêm, “và cả ông Bartholomew Bloor nữa.”

“Tuỳ con, Charlie à,” Ông cậu Paton cộc lốc. “Ta không cách chi liên lạc được với ông ấy. Con nên đi ngay đi. Và hãy nhớ có mặt ở đây trước năm giờ nhé, không thì ta sẽ tới đón con, dù có nổ bóng đèn hay không. Đèn đường bị huỷ cũng mặc.”

Khi Charlie rời nhà, nó cảm thấy lạc quan vô cùng, tí nữa thì quên phải tỏ vẻ đau khổ. Và đến lúc thằng Benjamin cùng con Hạt Đậu chạy bay tới nó, bao nhiêu nỗ lực của Charlie cũng dẹp luôn. Charlie vui mừng gặp chúng đến mức hú lên sung sướng và nắm chặt lấy cánh tay Benjamin.

“Bồ đi đâu đó?” Benjamin hỏi. “Mình đi với được không? Làm ơn đừng nói không đấy. Mẹ và ba mình không còn làm việc cho Học viện Bloor nữa, bồ biết mà.”

“Mình đoán vậy,” Charlie nói. “Mình đang đi tìm một người đặc biệt đây.”

Khi chúng băng qua thành phố, Charlie miệng nói như không ngừng nghỉ. Và mặc dù nhìn thấy Benjamin mắt tròn dẹt kinh ngạc, thỉnh thoảng nhảy lên một bước vì sợ, người đi đường không ai tưởng tượng nổi những biến cố lạ thường mà Charlie đang mô tả với cu cậu.

Bầu trời buổi chiều đang sụp tối. Những đợt mưa tuyết thổi hắt vào mặt hai đứa và đến lúc chúng mới được cây cầu sắt thì sương giá đã giăng qua vực thẳm, chẻ phủ hoàn toàn đồng hoang ở bờ bên kia. Trong lúc quày quả đi tìm Naren, Charlie quên mất cả nguy hiểm.

“Tốt hơn bồ nên ở đây,” nó bảo Benjamin, “hay là đợi mình ở quán cà phê. Mình không muốn có bất kỳ chuyện gì xảy ra với bồ.”

“Quá trễ rồi,” Benjamin nói khi Hạt Đậu chạy sượt qua chúng. “Trông bộ nó biết phải đi đâu kìa.”

“Nó biết chứ,” Charlie cười toe. “Thế thì, đi nào.”

Phải mất lâu hơn Charlie dự tính. Một lần nữa, cây cầu thật nguy hiểm với những đụn sương đóng băng. Chúng đi theo hàng một, Benjamin cẩn thận bước lên những dấu chân của Charlie và cả hai bấu chặt vào lan can gỉ sét. Khi chúng qua đến bờ bên kia, Hạt Đậu dẫn chúng đi thẳng tới ngôi nhà nhỏ trong mảng trống. Naren đang định đi vào nhà với một ôm củi to tướng thì trông thấy chúng. Cô bé thảy đống củi xuống, chạy ra đón Charlie và ôm chầm lấy nó.

“Đây là Hoa Hướng Dương,” Charlie bảo với Benjamin. “Và đây là bạn của anh, Benjamin, chủ nhân đích thực của Hạt Đậu,” Nó bảo với Naren.

Naren mời hai đứa vào nhà, nhưng cánh cửa thình lình mở ra và ông Bartholomew Bloor đứg đó, trông cực kỳ giận dữ. “Ta nhớ ta đã bảo mi đừng tới đây nữa mà,” ông mắng Charlie. “Và mi lại còn mang người khác đi cùng – thật là một điều không thể tha thứ được.”

“Cháu xin lỗi ông,” Charlie nhỏ nhẹ. “Cháu phải đến đây vì thông điệp của Naren…”

“Ta đã bảo Naren ngưng rồi,” ông Bartholomew nóng nảy nói. “Cái bóng sẽ nhận ra những cuộc trò chuyện đêm khuya của bọn bay. Ta không muốn thông điệp của Naren sẽ tiết lộ nơi ở của bọn ta.”

“Cháu cũng đã nghĩ như thế. Nhưng mà, thưa ông Bloor, cháu cần phải tới. Ông biết đấy, là do câu thần chú trong những quyển sổ nhật ký của ông.”

“Thần chú nào?”

Charlie lôi mẩu giấy da dê từ trong túi quấn ra và đưa cho nhà thám hiểm. Benjamin đến giờ cứ lò cò đổi chân và thổi phù phù vào lòng bàn tay để giữ ấm, nhưng ông Bartholomew không mời chúng vào nhà. Ông dửng dưng lắng nghe câu chuyện của Charlie, nhìn vào câu thần chú, sau đó nói, “Ta sẽ đưa Naren đi, dĩ nhiên. Ta sẽ làm bất kỳ điều gì cho cha của cháu.”

“Và ông sẽ ở lại chứ?” Charlie hỏi. “Ông cậu Paton nói nếu chúng ta có nhiều thật nhiều phụ huynh ở trong quán Cà Phê Thú Kiểng thì đó sẽ là một đội quân bảo vệ.”

Ông Bartholomew dúi câu tần chú vào tay Charlie. “Ông cậu mi lúc nào cũng có nhiều ý kiến hay ho. Đáng lý ra ông ấy phải đưa chúng vào hành động từ nhiều năm trước kia rồi kìa, được vậy thì cha mi đâu đến nỗi phải rơi vào tình cảnh như bây giờ.”

“Đừng nói thế về Ông cậu của cháu,” Charlie giận phừng phừng. “Cháu tin ông ấy hơn bất kỳ ai trên đời này. Ông là người khó chịu, khó tha thứ, ông Bloor à, hệt như những người còn lại trong gia đình ông vậy. Nếu ông không giúp chúng cháu thì tuỳ ông. Chúng cháu có thể tự lo liệu mà không có ông.”

Một chuỗi biểu hiện lạ lùng vụt hiện trên gương mặt ông Bortholomew: không tin nổi, giận dữ và sốc. Và cuối cùng là kinh hoàng.

Nhà thám hiểm chưa kịp nói lời nào khác, Charlie đã chộp lấy cánh tay Benjamin và kéo thằng bạn ra khỏi ngôi nhà quê.

“Ối, Charlie! Sao cậu dám nói những lời như thế?” Benjamin thì thào.

“Mình không biết,” Charlie thú nhận. “Ông ta quá nhỏ nhen. Mình hy vọng mình không làm hỏng chuyện.”

Khi chúng ra tới cổng, Charlie nhìn trở lại. Nhà thám hiểm đã vào nhà nhưng Naren còn đứng ngoài hiên. Cô bé vui vẻ vẫy Charlie và gọi. “Em sẽ đến đó, Charlie. Lúc bốn giờ.”

Hai thằng bé vẫy tay lại và Hạt Đậu nồng nhiệt vọt ra một tiếng sủa tạm biệt.

Chúng bị vài phen hú hồn hú vía trong lần thứ hai băng qua cầu. Hai lần Benjamin trượt khuỵu đầu gối, và rồi, khi đã gần sang đến bờ, Charlie hụt cả hai chân. Nó bám chặt lấy thành cầu bằng một tay trong khi Hạt Đậu há mõm chụp lấy ống tay áo nó và lôi nó lên trở lại.

“Phùù! May mà có Hạt Đậy đi cùng,” Charlie nói khi bò lên được bãi cỏ ướt.

Chúng ngồi lên bờ độ vài phút, nhắc lại với nhau cú may mắn thoắt chết vừa rồi. Nhưng Hạt Đậu cứ hăm hở đi tiếp. Một đứa nhắc đến quán cà Phê Thú Kiểng và nói bà Onimous thể nào cũng dành cho mình một món ngon. Chắc chắn bà sẽ phủ đầy người chúng bằng những nụ hôn, nhưng cũng đáng trả cái giá đó để được vài Que Béo Hạt Ngậy.

Trời về tối khi Hạt Đậu chạy thi với hai đứa bé trên kẻm Con Ếch. Norton người – bảo – vệ vừa mới đóng cửa quán Cà Phê Thú Kiểng, nhưng lại mở cửa ra ngay khi Charlie gọi.

“Bạn bè cậu về cả rồi,” Norton nói, vỗ Hạt Đậu một cái, “đầy đủ cả bọn. Chúng không chờ nổi cậu nữa. Đến giờ đóng cửa rồi còn gì, cậu Charlie trẻ tuổi à.”

“Cho tụi cháu vào một chút được không?” Chảlie nài nỉ.

“Nhanh nhanh lên đấy,” Norton nhăn mặt nhìn qua đầu Charlie. “Ai vậy nhỉ, trông cứ như là sứ giả của điềm gở vậy.”

Charlie quay lại thì thấy ông cậu Paton đang sải bước về phía chúng. Ông đeo kính đen và đội cái mũ nỉ đen to đùng, mắt ông dán tịt xuông đất khi đi trên con hẻm rải sỏi.

“Đó là Ông cậu của cháu,” Charlie thở ra nhẹ nhõm.

“Kẻ tăng áp ấy hả? Ối giời, mau tắt đèn đi.” Norton với tay đến công tắc điện và quán cà phê chìm lỉm trong bóng tối.

“À, ra là con, Charlie. Phải con không?” Ông cậu Paton nói, bước vào quán cà phê. “Ta chẳng thấy gì cả.”

“Tôi cũng vậy,” Norton đáp.

“Oái!” Ông cậu Paton giật thót mình. Ông đã không nhìn thấy người bảo vệ đứng đằng sau cánh cửa. “Tôi đến để gặp ông Onimous bàn việc vô cùng quan trọng,” ông nói, khi đã lấy lại được vẻ nghiêm trang.

“Tốt hơn để tôi đi báo cho ông ấy đã,” rồi tiếng Norton va vào những cái bàn khi bước đi trong quán cà phê tối hù. “Chà!” Ông ta gầm gừ khi bước vào quầy. “Ông Onimous, có khách hàng muốn gặp ông này. Ông Yewbeam, người mà ông biết rồi đấy.”

Dải ánh sáng mỏng loa loá phía trên cửa bếp lập tức phụt tắt, và vài giây sau, ông Onimous hiện ra, mang theo một giá nến cắm cao cắm hai cây nến cháy oặt ẹo.

“Tôi có thể làm gì được cho ông nào, thưa ông Paton?” Ông Onimous hỏi. Gương mặt râu ria ló ra khỏi quầy.

“Xin chào, Orliv,” Ông cậu Paton nói, tháo đôi mắt kính đen ra. “Tôi… thì à, chúng tôi,” ông liếc nhìn Charlie, “có điều cực kỳ quan trọng cần bàn với ông.”

“Thế thì tốt hơn là ông đi vào bếp,” ông Onimous giơ cao cây nến hết sức để có thể soi đường cho mọi người đi qua căn phòng.

“Cháu cũng vào được chứ ạ?” Benjamin rụt rè nói. Hạt Đậu đế thêm một tiếng tru ai oán, trong đầu hiện lên những món ngon.

“À, Benjamin Brown. Ta quên mất,” Ông cậu Paton nhìn thằng nhỏ một cái lạnh lẽo.

“Đi mà, ba mẹ cháu không còn làm gián điệp cho ông Bloor nữa, Benjamin nói gấp gáp. “Ông Ezekiel Bloor không trả tiền cho họ, và ba cháu đã cãi nhau nảy lửa với ông ta, và mẹ cháu bảo sẽ không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa, tức là với ông Ezekiel ấy ạ, chưa không phải là với ba.”

“Nếu thế thì ta rất mừng,” Ông cậu Paton nói. “Dĩ nhiên chú mày có thể tham gia với tụi ta.”

Vài phút sau cả ba người đã ngồi quanh cái bàn bếp dể dồ la liệt, uống trà và nhấm nháp bánh tạc chanh sữa đông. Hạt Đậu không phải thất vọng. Ba Onimous cho nó cả một tô thịt bò cục sô-cô-la để đền bù lại mười cái hôn mà nó phải chịu đựng.Tuy nhiên có bé Una ở đấy nên chú ta sẽ phải chán ngán nhận một cú chải lông mạnh bạo.

Ông cậu Paton đi thẳng vào vấn đề. Ông không giấu giếm gì trong lời giải thích dài dòng tại sao những đứa trẻ được ban phép thuật lại phải dùng cánh cửa bí mật vào lâu đài. Charlie thậm chí còn đưa ra mảnh giấy da dê để có sức thuyết phuc hơn.

Ông bà Onimous im lặng lắng nghe như bị ếm bùa, và khi đã nghe xong xuôi, ông Onimous lắc lắc đầu, phân vân.

“Những đứa trẻ khác, bạn của cháu ấy, cũng hay nói về nhà vua,” người đàn ông nhỏ thó bảo, “nhưng chúng tôi sao hiểu được toàn bộ câu chuyện. Mẩu giấy da dê này – câu thần chú, hay cái chi chi này – đã giải thích tất cả, đúng không nào? Từ trước tới nay tôi chưa bao giờ nới lỏng nguyên tắc, nhưng đây là một ngoại lệ. Về cánh cửa, ừm, tôi thấy mình không còn lựa chọn nào khác. Miễn là tất cả lũ trẻ phải kín miệng về nó.”

“Các bạn ấy sẽ giữ kín miệng,” Charlie sốt sắng.

“Tôi biết thể nào người ta cũng sắp phải cần tới Una bé nhỏ của chúng tôi mà,” bà Onimous nói, nắm lấy bàn tay bé gái và bóp một cái.

“Thôi ngay,” Una cười rúc rích, “Không thì con không ăn trưa đó.”

“Chao ôi,” ông Onimous nói, “Nó không nhịn được đâu.” Ông nhắm mắt lại và đếm số bạn của Charlie trên ngón tay, lần lượt lẩm bẩm tên của từng đứa, đến Una thì ông mở mắt ra và nói,” Cho dù tính cả cô bé Trung Hoa thì mới có chín đứa. Làm sao tìm được đủ mười đứa, thưa ông Paton?”

“À,” Ông cậu Paton nói.”Cái đó thì tôi không biết.”

Một quãng thinh lặng rớt xuống căn phòng. Ngay cả Una cũng thôi nhí nhéo bởi vẻ nghiêm trọng trên gương mặt tất cả mọi người.

Bất thình lình, ông Onimous chồm về phía trước và nói ” Nếu táo gan đến cùng thì tôi không phải chưa đến 20 tuổi, nhưng tôi lại nhỏ người kinh khủng. Các người nghĩ tôi có làm được không?”

Tất cả đều nhìn sững vào người đàn ông nhỏ thó lông lá, và rồi Ông cậu Paton nói, “Orvil, tôi nghĩ ông cũng nên thử. Bởi vì suốt cuộc đời, tôi cũng không thể tưởng tưởng ra chúng ta có thể tìm được đứa trẻ nào của Vua Đỏ dưới hai mươi tuổi nữa.” Ông đứng lên khỏi bàn, “Orvil, Onoria tôi cảm ơn lòng hiếu khách của ông bà. Các cậu bé, chúng ta nên về thôi.”

“Lúc nào tụi tôi cũng vui sướng khi đón tiếp, thưa ông Paton,” ông Onimous nói. “À, tôi suýt quên điều này. Cô bé người chim Emma nói tối nay cô bé ấy sẽ đi tìm con ngựa trắng.”

“Con ngựa trắng?” Charlie nhíu mày.

Ông Onimous nhún vai. “Cô bé nói con ngựa trắng sẽ biết nhà vua ở đâu.”

Charlie bật lên một tiếng như đã hiểu ra. “Ngựa trắng đó là hoàng hậu. Chắc chắn bà ở gần nhà vua.”

“Ta hy vọng cô bé thân yêu đó sẽ an toàn,” Ông cậu Paton lo lắng nói.

“Lúc này chúng ta cũng không thể làm gì được,” ông Onimous giơ cái giá cắm nến lên và dẫn những vị khách ra khỏi nhà bếp rồi đi qua quán cà phê tối mò.

Norton người-bảo-vệ đã đi về nhà, và khi Ông cậu Paton, hai thằng bé và Hạt Đậu đi hết hẻm Con Ếch, họ vẫn nghe thấy tiếng khoá cửa với chốt cửa của ông Onimous.

Có ánh đèn sáng trong phong khách nhà số 9. Tin chắc là nội Bone đang xem tivi, Charlie và Ông cậu tránh căn phòng đó. Họ đi thẳng vào nhà bếp; ở đó, họ thắp ngay vài ngọn nến lên.

“Tốt hơn không bàn gì về việc ngày mai,” Ông cậu Paton cảnh báo trong lúc chuẩn bị làm một đĩa bánh mì kẹp dăm bông.

Charlie gật đầu. Nó tự rót cho minh một ly sữa và ngồi vào bàn. Bóng người hiện ra ở ngưỡng cửa khiến nó ngạc nhiên và hét lên một tiếng, làm sóng một ít sữa ra ngoài.

“Cái quái…?” Ông cậu Paton quay ra cửa. “Cô Amy?” Ông hỏi. “Phải cô đấy không?”

Mẹ của Charlie bước vào phòng. Thậm chí trong ánh nến mà da cô cũng trắng như băng. Mái tóc không màu nhẹ như nùi bông cây kế và chỉ có một vết lờ mờ xanh da trời hiện lên trong đôi mắt to nhợt nhạt. Bộ dạng như ma của cô càng nổi bật với chiếc áo choàng trắng dài, một sợi dây bạc thò ra khỏi gấu váy.

“Mẹ,” Charlie gọi, giọng nói ngẹn tắc. “Con tưởng mẹ đi rồi chứ.”

“Hôm nay ngài Noble bận rộn suốt ngày.” Mẹ nó nở một nụ cười mơ màng. “Nhưng ngày mai ông ấy sẽ đưa mẹ tới một nơi rất tuyệt vời.”

“Cô ăn bánh mì nhé, Amy?” Ông cậu Paton sẵng giọng nói to.

“Không, cảm ơn,” cô Amy xoay xoay chiếc nhẫn ngọc lục bảo khổng lồ quanh ngón tay. “Mấy ngày nay tôi không thấy đói.”

“Xem ra như cô chưa ăn gì suốt cả tuần,” Ông cậu Paton bảo, hy vọng giọng nói cộc cằn của mình sẽ đưa cô Amy trở về với thực tế.

Nhưng mẹ Charlie chỉ mỉm cười. “Dớ dẩn,” cô cười khúc khích. “Tôi sắp sửa lấy chồng rồi. Thế thì sao nào?”

Charlie há hốc miệng, không nói được lời nào. Ngay cả Ông cậu Paton dường như cũng á khẩu. Họ nhìn cô Amy trôi đi, nghe tiếng cô lẩm bẩm ở cầu thang và lắng nghe tiếng cánh cửa đóng sầm lại ở tầng trên cùng của ngôi nhà.

“Mẹ thậm chí không thèm vào dòm ngoại Maisie lấy một cái,” Charlie đau khổ nói.

“Ráng chịu đựng con à,” Ông cậu Paton nắn vai nó. “Ngày mai sẽ là ngày của Vua Đỏ.

Không xa đường Filbert, Emma và cô Ingledew đang đứng bên ngoài tiệm sách. Nhiệt dộ đang tụt xuống rất nhanh; mặt đường sỏi đã bị phủ trùm trong sương mù. Mặt trăng nhô lên khỏi nhà thờ lớn và mọt ngôi sao sớm chiếu lấp lánh trên bầu trời xanh thẫm.

“Dì ước chi con không phải làm việc này,” cô Ingledew lùa một tay lên mớ tóc vàng của Emma. “Con phải cẩn thận đấy.”

“Vâng, thưa dì. Anh Gabriel bảo nhà vua là một cái cây. Anh ấy đã thấy ngài rồi khi anh ấy mặc tấm áo choàng vào. Giờ tất cả tuỷ thuộc vào con. Con cảm thấy thật là… con không biết nói làm sao… thật là phấn khích, con nghĩ vậy. Con biết là mình sẽ tìm được ngài.” Emma hôn lẹ dì môt cái. “Con đi đây. Đừng lo dì ạ.” Rồi nó bắt đầu chạy trên lối hẻm hẹp dẫn ra khỏi quảng trường.

Trong một góc tối, nơi có hai cái cây ốp sát vào bức tường của thư viện trên thành phố, Emma đứng im lìm và nghĩ về một con chim. Nó đã quyết định biến thành chim cú lợn, một loài chim mà nó cho là đẹp nhất trong tất cả bọn cú sống về đêm. Những ngón tay tê rần rật khi chúng từ từ biến thành lông chim và Emma không thể nào kìm được niềm vui vỡ oà khi đôi cánh mượt mịn nhấc nó lên không trung.

Bầu trời trông thật bình yên, nhưng trong khi Emma đang bay thì nó đụng phải một làn sóng chấn động. Ai đó đang phóng cơn thịnh nộ lên không. Lần ngược theo đường đi ủa cơn giận để truy ra nguồn gốc của nó, Emma thấy mình ở bên ngoài một ô cửa sổ nằm tầng trên cùng của Vương Quốc.

Cô bé đậu xuống bậu cửa sổ và thận trọng ngó vào trong. Một người đàn ông mặc áo thụng màu xanh lá cây đang quần tới quần lui trong biển lông trắng. Emma rùng mình. Người đàn ông cầm một chiếc gương tuyệt đẹp; khung bằng vàng khảm châu báu, nhưng mặt gương bị rạn do một đường nứt chạy từ đỉnh tới đáy. Người đàn ông ngừng bước và quàu quạu ngoái nhìn một bức tranh treo trên tường đằng sau ông ta. Bức tranh vẽ cảnh một dãy núi đen rất lạ với những ngọn tháp cao rủ bóng. Một nơi cho những cơn ác mộng khởi phát, Emma nghĩ. Ông ta tụng niệm bằng giọng rèn rẹt trong cổ họng. Bất thình lình ông ta nguyền rủa chiếc gương, quay ngoắt lại và ném nó tẳng vào bức tường.

Con chim cú kinh hãi kêu lên một tiếng rồi bay đi.

Liệu hắn ta có trông thấy mình không? Emma tự hỏi. Liệu hắn ta có biết mình là ai không?

Emma tiếp tục bay liệng vòng một cách nguy hiểm qua bầu trời đêm hung hãn. Cần phải vận hết sức mạnh mới giúp nó khỏi tông vào những cây cao và những nùi dây điện thoại, và cuối cùng, nó đã chao liệng bên trên khu vườn của Học Viện Bloor. Bên dưới, nó có thể thấy những bức tường của lâu đài đổ nát. rồi thì, bỗng nhiên, thét lên một tiếng thống thiết, nó thấy mình rơi xuống. Một hòn đá vừa sượt qua cái cổ bám tuyết của con cú và nó rơi phạch xuống đất, đôi cánh xoãi ra chống đất, đầu cố ngỏng lên trời.

Cách chỗ nó vài mét là Joshua Tilpin đang đứng với ai đó mặc áo choàng đen trùm đầu. Joshua đang cầm một cái giằng ná.

“Nhìn con cú đó kìa,” Joshua nói. “Tổ tiên của chúng ta hẳn là hài lòng lắm, mẹ nhỉ?”

“Rất hài lòng,” cái mũ trùm đầu của người phụ nữ lật ra.

Con mắt cú nhìn nghiêng của Emma chớp chơp khi nó nhận ra cô Chrystal.

“Nó chưa chết, nhưng nó sẽ chết ngay bây giờ,” Joshua chồm tới và Emma nhắm ngiền mắt lại.

Nhưng cú bắn mà nó nghĩ là sẽ tới đã không bao giờ tới. Thay vào đấy, nó nghe thấy một tiếng hú khản nghẹt, và một cú thịch nhẹ khi một sinh vât bốn chân đáp xuống đằng sau mình. Nó cảm thấy hơi thở nong nóng của con vật sau lưng, và tiếng hú biến thành một tiếng gừ đầy đe doạ.

“Con thú ngoan,” Cô Chrystal nói bằng giọng ra lệnh. “Đem con cú lại đây cho bọn ta.”

Con thú tiếp tục gầm gừ, và khi Joshua thử nhúc nhích lần thứ hai, con vật liền chồm qua con cú, xông thẳng tới Joshua, khiến thằng này chạy toé khỏi hiện trường, la hét thất kinh.

Khi Emma mở mắt ra trở lại, thằng bé và mụ phù thuỷ đã chạy mất. Nhưng con thú tiến sát lại gần nó, bên dưới thân cây. Đó là một sinh vật trông đáng sợ, lưng u gù và đôi mắt vàng sáng loá.

“Asa?” Emma gọi khẽ. “Asa, anh đó phải không?”

Con thú tru nhẹ lên một tiếng và chạy tọt vào lòng đất.

Hệt như mọi sinh vật sợ hết vía, Emma nằm im thít dưới đất, cho đến khi nó chắc chắn con thú đã bỏ đi hẳn. Mãi cuối cùng khi cố cựa quậy, nó mới thấy rằng mình không hề bị thương gì cả. Chính cơn hoảng sợ đã khiến nó rơi xuống. Nó đứng lên, giang đôi cánh và bay vút lên trời. Giữ cho đôi mắt quét khắp mặt đất, nó lướt trên lâu đài đổ nát, cho đến khi một chuyển động đập vào mắt nó. Một con ngựa trắng đang thả nước kiệu trong một trảng trống tròn và rộng. Emma sà xuống và đậu trên một bức tường gần con ngựa. Trông thấy con cú, con ngựa liền dừng lại và lo âu ngó chăm chăm vào con chim.

“Thưa hoàng hậu,” Emma cúi đầu. “Con cần bà giúp đỡ.”

“Đứa trẻ chim!” Hoàng hậu bước tới bên Emma. “Thật mừng khi thấy con. Ta có thể giúp gì được?”

“Con đang tìm nhà vua,” Emma đáp.

“Thế thì con tìm thấy ngài rồi,” hoàng hậu bước qua một bên và Emma trông thấy cái cây to sừng sững ngay giữa trảng trống. Thoạt đâu, cái cây như một khối lừng lững đen thui không hình thù, nhưng ngay tức khắc, màu sắc nổi bật lên. và Emma ngắm không chớp mắt một cái cây đẹp mê hồn. Lá cây màu đỏ và vàng óng, và khi lay động trong bầu không khí của đêm khuya, dường như chúng cháy rực lên như quầng lửa. Từ cái chóp ngọn cây sáng rực, cành lá xoà ra thành những làn sóng rộng dần, rộng dần; cho đến tận sát mặt đất, nơi phần dưới của thân cây to bành – một thân cây bị xoi thành những rãnh chứa đầy chất lỏng sẫm màu như rượu.

“Ngài bị thương ạ?” Emma hỏi, rùng mình trước cảnh những rãnh chất lỏng óng ánh đỏ.

“Ngài đang than khóc cho những đứa con lưu lạc của mình,´hoàng hậu nói. “Năm đứa ra đi không bao giờ quay về nữa.”

Emma giũ bộ lông cú màu nhạt của mình, ước ao tìm được giải pháp chữa lành cho nỗi u sầu của nhà vua. “Ngày mai nhà vua có ở đây không ạ?” Nó hỏi. “Một người bạn của con cần sự giúp đỡ của ngài.”

“Nhà vua sẽ ở đây,” hoàng hậu đáp.

“Cảm ơn hoàng hậu,” Emma vút lên không và lo lắng lượn bên trên hoàng hậu. “Con phải đi đây. Dì con đamg mong.”

“Đúng rồi,” hoàng hậu bước lại gần cái cây hơn. “Con về đi, đứa trẻ người chim. An toàn nhé.”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận