Cô Jula Ingledew đang hớt hải nhìn chừng lão Ezekiel Bloor khi lão lật giở quyển sách quý của cô. Cô không thích cái cách lão mạnh bạo giật trang giấy ra xa khỏi người lão nhằm cố ý gây thêm thiệt hại cho sách như thế. Tuy nhiên, khi thấy ông cậu Paton, lão già cũng ngước lên.
“A ha! Paton Yewbeam!” Lão Ezekiel la ré. “Tưởng chú không ra ngoài ban ngày chứ”
“Tôi ra ngoài khi tôi thích” ông cậu Paton độp lại, giật cái phũ phớt khỏi giá treo mũ ở góc phòng.
“Hừm” lão già khịt mũi khi ông cậu Paton bước về phía cửa. “Giờ ta biết rồi, chả trách tại sao cái cửa hàng tình tang này lại tối thế. Bà phải gắn chút điện ở trong đây chứ, Bà Sách”
Ông cậu Paton dừng phắt giữa chừng, khiến Benjamin tông sầm vô ông. “Coi chừng cái lưỡi của lão đó, Ezekiel Bloor” ông cậu Paton gầm to.
“Không thì sao…?” lão Ezekiel cười khẩy. “Ta hy vọng ngươi không nghĩ đến việc cầu xin người phụ nữ tốt này cưới mi, Paton. Cô nàng sẽ chẳng bao giờ được ngươi ngỏ lời đâu, người thừa biết thế”. Lão phọt ra một tràng cười khùng khục.
Lũ trẻ len lén nhìn cô Ingledew và ông cậu Paton Yewbeam đang mặt mày đỏ lựng lên. Lão Ezekiel lơi quyển sách ra để quệt miệng và cô Ingledew nhân cơ hội đó bèn tước quyển sách hiếm khỏi tay lão. Gã Weedon giật quyển sách lại.
Đã qua khỏi cơn bối rối, ông cậu Paton nói. “Cảm phiền lão bỏ cái mũi của lão ra khỏi việc của tôi, lão Bloor”
“Thì ngươi cứ chạy việc của ngươi đi”, bàn tay ướt nhép của lão Ezekiel phẩy một cái chỏng lớn.
Ông cậu Paton chùng chình, ngó trừng trừng lão già. “Tôi hy vọng lão chưa phá hỏng một quyển sách hiếm”. Ông nhìn cô Ingledew. “Ju…cô Ingledew, cô có muốn tôi…?”
“Không, không” cô Ingledew hấp tấp, vẫn còn đỏ mặt. “Ông đi đi, Pa…ông Yewbeam. Tôi thấy việc khẩn cấp đấy”.
“Đành vậy”. Ông cậu Paton lưỡng lự trong khổ sở. Rõ ràng ông muốn ở lại để bảo vệ cô Ingledew nhưng Benjamin đã ra tới bậc thang và kéo giật ông tay áo ông.
“Em sẽ gọi cho ông” cô Ingledew cầm điện thoại di động của cô lên ” nếu có gì không hay”
“Thế nhé” ông cậu Paton nhìn cô một áci đầy ý nghĩa và bước qua khung cửa mà Benjamin đã nôn nóng mở ra sẵn.
“Ông sẽ làm gì ạ, ông Yewbeam?” Fidelio hỏi khi cả đoàn phóng nhanh trên đường.
“Còn tùy xem cái gì là cần thiết” ông cậu Paton nói.
“Ô kìa!” Benjamin chỉ xuống đường.
Đang chạy về phía họ là hai cô bé: Emma Tolly mặc áo khoác có mũ trùm đầu, mái tóc màu vàng bay lòa xòa trước mặt, đang đánh vật với một cái giỏ, trong khi bên cạnh cô bé là Olivia Vertigo cũng đang xách một cái giỏ, cái này nhỏ hơn và rõ ràng là dễ mang hơn. Olivia trông lạ mắt trong chiếc áo lạnh ngoại cỡ, chiếu ra lóa chóa những NGÔI SAO từ mảng kim sa vàng óng đính ở vạt trước. Con nhỏ còn đội thêm một chiếc mũ trắng tinh và quàng khăn cổ màu vàng rực. Tóc nó nhuộm tím rịm.
“Ông Yewbeam” Olivia í ới. “Ông phải giúp tụi con”
“Làm ơn, làm ơn, làm ơn đi ạ” Emma kêu to. “Có một việc kinh khủng vừa mới diễn ra.”
Hai đoàn gặp nhau giữa đường.
“Chúng ta đang cực bận” ông cậu Paton sượt qua chúng và tiếp tục sải bước.
“Có chuyện kinh khủng gì vậy?” Benjamin hỏi, không sao cưỡng được phải dừng lại.
“Quán cà phê Thú Kiểng bị đóng cửa” Emma hét lạc giọng. “Vĩnh viễn. Kinh khủng quá. Tụi này thấy ông Onimous ngồi bên bàn. Đầu cúi gục vô tay. Trông rất sầu thảm.”
“Chúng ta sẽ đối phó với việc đó sau Em” Fidelio bước vòng qua hai đứa con gái. “Có việc còn tệ hơn thế đã xảy ra với Charlie”.
“Và Hạt Đậu nữa” Benjamin thêm. “Cả hai biến mất. Mất tiêu. Tự dưng tan biến vô một bức tranh”.
Emma đặt cái giỏ xuống, từ trong đó phát ra một tiếng quác lớn. “Rồi các cậu định làm gì?”
“Tụi này không biết, để tới nhà Charlie rồi tính” Fidelio nói, lo lắng nhìn theo thân hình đang cắm cúi bước đi của ông cậu Paton.
“Tụi này sẽ tới ngay!” Olivia không bao giờ chịu đứng ngoài sự kiện nào. “Tụi mình về tiệm cất thú cưng đi Em”.
“Tớ không vô tiệm đâu nếu tớ là đằng ấy”. Fidelio nói ngoái qua vai. “Lão Bloor già đang ở đó đó”.
Hai thằng bé vụt đi trong khi hai đứa con gái đứng tần ngần. Cuối cùng Emma quyết định mình không thể để dì Julia một mình đối phó với lão Bloor. Cô bé đi tiếp đoạn đường cùng vịt Namcy, trong khi Olivia co giò đuổi gấp theo sau hai thằng bé cùng với con thỏ trắng tên là George của nó.
Đây là thời điểm tiến thoái lưỡng nan đối với ông cậu Paton. Ông đã tới đường Đồi Cao, nơi có đèn rực rỡ trong từng cửa sổ bày hàng. Ông cậu Paton kéo sụp vành mũ xuống che mặt, cố một cách vô ích đừng liếc nhìn cửa sổ. Nhưng hôm nay là thứ bảy và đường Đồi Cao ken đặc người đi mua sắm. Những đám mây nhè nhẹ sau trút xuống ào ạt. Những cái dù vội vã giương lên, do vóc người cao lớn nên ông cậu Paton lập tức rơi vào tầm nguy hiểm. “Coi chừng!” ông thở hốc khi suýt nữa thì bị một cây dù chọc mất một con mắt. Nghiêng người né qua bên, ông thấy mình ngó thẳng vô một cánh cửa sổ trưng đầy những ma-nơ-canh đang tạo dáng.
“BỐP” tấm kính cửa sổ vỡ vụn.
Giữa tiếng kêu thét thất kinh và cảnh nào loạn, ông cậu Paton quầy quả đi tiếp. Ông không để ý là đang có đèn đỏ nên cứ thế lướt đi, thành ra một chiếc Volvo xanh da trời lại suýt tông trúng ông. “Xin lôi, xin lỗi”, ông cậu Paton nói, liếc nhìn đèn xi nhan của một chiếc xe hơi. Lần này vụ nổ êm hơn, chỉ một tiếng phụp nhẹ. Người tài xế không để ý và ông cậu Paton lên được lề đường mà không bị phát hiện.
Rủi thay, một chiếc xe hơi khác, thắng không kịp đã tông sầm vô chiếc Volvo. Hai người tài xế nhoài người ra tuôn xối xả những lời lẽ thô thiển vào không khí ẩm ướt.
Bán tín bán nghi là ông cậu Paton có liên quan đến cánh cửa sổ vỡ, hai thằng bé chen lấn qua đám đông tới nơi vừa kịp lúc chứng kiến tai nạn mới nhất của ông. Gần về tới nhà số 9, đường Filbert thì chúng bắt kịp ông.
“Phải ông làm không ạ?” Benjamin hỏi. “Ý cháu là về cánh cửa sổ”
“E là vậy, Benjamin. Ta rất biết ơn cháu đã im lặng về sự việc”.
“Dạ vâng, ông Yewbeam”.
Họ lên những bậc cấp nhà số 9, ông cậu Paton đi đầu. Vừa mở cửa ra, ông liền đặt một ngón tay lên môi và thì thầp gấp gáp. “Không một lời, bà chị ta đang ở nhà”
“Bà ấy à” Benjamin thì thào lại.
Bỗng có tiếng ré lên từ dưới đường và Olivia chạy như bay đến chỗ họ, cái rổ đung đưa trong tay. “Chờ con với!” nó gọi.
“Suỵt!” cả hai thằng cùng nhắc.
“Xin lỗi” Olivia thở lấy hơi. “Có bà nội cuồng trí đó ở nhà không?”
Benjamin gật đầu. Olivia loáy hoáy leo lên bậc cấp và nhảy tọt vô hành lang cùng mọi người. Ông cậu Paton lặng lẽ đóng cửa lại, và Olivia đặt phịch cái rổ của nó kế bên giá mắc áo khoác.
Họ kiễng chân đi vô nhà bếp, ở đó ngoại Maisie đang chờ thấp thỏm. “Không có gì xảy ra”, bà nói liền. “Không một dấu hiệu. Tôi cứ để mắt nhìn nó luôn nhưng bức tranh thổ tả đó cứ ở nguyên đấy, dòm lại tôi. Ông biết không? Tôi có cảm tưởng là nó toát lên vẻ tự mãn vây.”
“Chúng ta cùng xem nào”. Ông cậu Paton bỏ mũ ra.
Bụng Benjamin sôi rột lên một cái, nghe thấy rõ.
“Ối trời ơi” ngoại Maisie kêu lên. “Tôi quên làm bữa trưa. Lần đầu tiên đấy. Để tôi lo liệu xong ngay trong khi mọi người xuống tầng hầm.”
Ông cậu Paton cho rằng không nhất thiết phải kéo cả đoàn xuống đó. Bảo Fidelio và Olivia đợi trong nhà bếp, ông chọn Benjamin tháp tùng mình. Dù sao Benjamin cũng đã chính mắt trông thấy Hạt Đậu biến mất, và nó có thể cho ông biết bức tranh có gì thay đổi không.
Ông cậu Paton thắp ba ngọn nến trong cái giá đặt trên tủ đựng ly chén. “Bất kể làm gì cũng không được bật đèn tầng hầm lên nghe chưa”, ông dặn Benjamin.
“Vâng ạ, ông Yewbeam”, Benjamin nói dứt khoát.
Ông cậu Paton xuống cầu thang theo kiểu giật lùi, tay phải cầm giá nến. Benjamin theo sau.
“Trời, nơi gì mà gớm ghiếc!” ông cậu Paton tuyên bố khi ánh nến run rẩy chiêus lên bề mặt bức tranh.
Benjamin rùng mình. Xứ Badlock trông ghê rợn hơn lần trước. Trong ánh nến nó càng toát ra vẻ hãi hùng. Benjamin không dám nghĩ cái gì có thể xảy đến với Hạt Đậu trong cái xứ sở khủng khiếp ghê hồn này. Bất ngờ, nó trông thấy. Ở cuối bức tranh, đang ló ra khỏi góc của một trong những tòa tháp, là một con chó. Hạt Đậu. Miệng nó há ra trong tiếng tru câm nín.
Benjamin thét lên.
“Gì thế…” ông cậu Paton suýt đánh rơi cái giá nến.
“Nhìn, nhìn kìa ông Yewbeam!” Benjamin chỉ ngón tay run rẩy vô Hạt Đậu.
Ông cậu Paton cúi sát hơn về phía cái đầu của con chó.
Tiếng thét của Benjamin khiến cho mọi người ở bên trên chạy xồ tới cánh cửa tầng hầm.
“Gì thế? Chuyện gì thế?” ngoại Maisie lo lắng.
“Cho con xuống được không?” Olivia nài nỉ. “Con không thể chịu nổi nếu không biết có gì dưới đấy”.
“Hạt Đ…ậu ở đâ…ây…” Benjamin lắp bắp.
“Ở đây?” Fidelio nói.
“Ở đây….nhưng không phải ở đây. Ở đó” Benjamin mếu máo.
“Trong bức tranh”. Giọng của ông cậu Paton đẩy bầu không khí căng thẳng lên thành mối uy hiếp. Vậy là quá đủ cho Olivia, nó nhào ngay xuống cầu thang. Giữa chừng thì khựng lại bởi một tiếng thét trong hành lang.
“THỎ!” nội Bone hét.
Nội Bone sợ hầu như mọi thú vật, nhưng giống thỏ vô hại mới là thứ mụ ghét cay ghét đắng.
Olivia lưỡng lự leo thụt lùi xuống, trong khi Fidelio bình thản bảo “Không sao đâu bà Bone. Nó không cắn bà đâu”
“ĐỒ QUỶ” nội Bone rú rít và rồi mụ trông thấy Olivia. “Mày làm gì ở đây, con nỡm?”
Olivia chưa bao giờ bị gọi là con nỡm. Nhưng nó hơi khoai khoái, bởi vì thỏ George của nó đã sổng khỏi giỏ và lúc này đang chạy lên tới giữa cầu thang, phởn chí gặm tấm thảm. Nội Bone đứng ở đầu cầu thang, một con mắt nheo híp lại, con kia kinh hoàng theo dõi từng cử động của con thỏ.
Olivia phóng lên khỏi cầu thang, tóm lấy con thỏ và mang giúi trở vô giỏ. “Thật tình nó không làm đau một con ruồi” nó vừa càm ràm vừa cột chặt nắp giỏ.
“Tao hỏi mày đang làm gì ở đây.” Cảm thấy đã an toàn hơn, nội Bone lạch bạch đi xuống cầu thang.
Trước khi Olivia kịp nghĩ ra câu trả lời. Ông cậu Paton đã nhô lên khỏi tầng hầm và nói “Tôi nghĩ đã đến lúc bà phải trả lời một vài câu hỏi của tôi, Grizelda”
“Hỏi gì?” nội Bone nguẩy đầu qua với vẻ đề phòng.
“Hỏi rằng….làm sao bức tranh ở dưới tầng hầm, và nó từ đâu được mang tới đây?”
“Không phải việc của mày”. Với một cái liếc hống hách về phía chiếc giỏ nhốt George, nội Bone lết xuống cầu thang, băng qua hành lang vô phòng khách. Ông cậu Paton đi theo mụ và ba đứa nhóc kéo lũ lượt theo ông. Nhưng còn ngoại Maisie thì ngồi phịch xuống chiếc ghế ở hành lang, vuột ra một tiếng thở dài não nề.
“Đó là việc của tôi” ông cậu Paton cương quyết.
Nội Bone ngồi phạch xuống chiếc ghế bành và cầm tờ báo lên.
“Chị có nghe tôi nói không đấy, Grizelda?” ông cậu Paton gầm vang, và rồi, trước sự ngỡ ngàng của ba đứa trẻ đang đứng xớ rớ ở cửa, ông nói toẹt ra, “Thằng cháu của chị đã biến mất vô bức tranh đó.”
Benjamin lắp bắp. “Chúng ta không nên nói cho bà ấy….”
Nội Bone đặt tờ báo xuống. Khuôn mặt quàu quạu dài thượt của mụ thoáng hiện lên vẻ khoái trá. “Nhưng đó là tại nó” mụ điềm nhiên bảo.
Bên trong tòa tháp của người khổng lồ, Charlie vẫy Hạt Đậu một cái thật nhanh trước khi được hạ xuống sàn nhà của ngài Otus.
“Một con chó ư?” ngài Otus nói. “Diện mạo chúng không bao giờ được thấy ở xứ Badlock.”
“Chúng ta phải cứu nó trước khi bọn quỷ lùn tàn ác trở lại” Charlie vừa nói vừa đi ra cửa.
“Con trai, chờ đã!” ngài Otus ra lệnh. “Việc này không đơn giản thế.”
“Ở đây không có gì đơn giản cả.” Charlie bắt đầu chạy xuống cầu thang đá hình xoáy trôn ốc.
“DỪNG LẠI!” tiếng gầm của người khổng lồ dội âm khắp cầu thang khiến Charlie buộc phải nghe lời. “Coi chừng đó là một trờ lừa, Charlie, để dụ con ra ngoài trời. Trở lại đi, ta nài nỉ con đó.”
Charlie lần chần bước trở lại căn phòng của người khổng lồ. Nó nhận ra tình thế của mình sẽ trở nên vô vọng nếu cả nó và Hạt Đậu cùng bị bắt. “Cháu thấy để nó ngoài đó một mình thì tội quá” nó nói với người khổng lồ, “nhất là bây giờ nó đã trông thấy cháu rồi”
“Ta biết, ta biết” ngài Otus thắp một ngọn nến và đặt lên bàn. “Nhưng xung quanh chúng ta đầy rẫy những tòa tháp và lính canh. Trời sắp tối đến nơi rồi, một bóng tối không giống nơi nào khác, Charlie à. Ở xứ Badlock không có sao chiếu sáng, còn ánh trăng thì rất… Hiếm hoi. Vì vậy chúng ta có thể lẻn ra khỏi tháp và cứu con chó tội nghiệp kia.”
Người khổng ồ khuấy cái nồi treo bên trên bếp lò. “Ta đã từng có một con chó trong thế giới quê nhà của ta. Đó là một con chó đẹp, nhưng bọn ta đã bị chia cách. Giờ cái xứ Badlock này chẳng hề có chó hay mèo. Chỉ rặt bọ với lũ sinh vật nhớt nhầy, gớm ghiếc, máu lạnh được gọi là vẩy cóc thôi. Chim chóc bay trên nhưng đôi cánh rặt xương không lông, con nào cũng có một cái mỏ dài đáng sợ.”
Charlie leo lên giường của người khổng lồ. “Nhưng tại sao không có chó hoặc mèo?”
“Cái bóng và lũ người của hắn cho rằng công dụng duy nhất của sinh vật là cho vô nồi làm thức ăn, hoặc để lấy da làm áo chùng, áo khoác, hoặc thậm chí cả giày. Mọi sinh vật máu ấm đều bị săn lùng, hầu như đã tuyệt chủng cả. Chỉ còn đuôi trụi là sống sót, có lẽ là do bởi chúng sinh sản nhanh như quỷ.”
“Thế còn bạch dơi?” Charlie hỏi.
“À, bạch dơi”. Ngài Otus mỉm cười. “Bọn chúng không dám động vô bạch dơi, bởi vì bọn chúng cho đấy là ma”. Ngài dùng môi múc vài cục thịt hầm bốc khói vô hai cái tô lớn bằng gỗ. “Đi lại bàn nào, hậu-duệ-Charlie của ta, và ăn bữa tối của con đi.”
Charlie nhảy xuống khỏi giường và ngồi lên cái ghế cao, trong khi người khổng lồ xé một ổ bánh tròn ra làm hai và đặt bên cạnh mỗi cái tô một miếng. Sau đó ngài gần như ngồi hẳn lên bàn và bẻ bánh mì nhúng vô món hầm, dùng nó như một cái muỗng. Charlie làm theo. Đuôi trụi hầm hóa ra ngon cực kì, nhưng chắc là tại Charlie đang đói bụng.
Họ ăn trong im lặng một lát. Charlie cứ lấn bấn với ý nghĩ về con chó bên ngoài tòa tháp. Chú ta đang hoảng sợ biết nhường nào. Đến khi bao tử nó đã được món hầm nóng làm cho ấm lên thì nó chỉ còn nghĩ sao mà dễ chịu thế không biết. Chốc chốc nó lại liếc nhìn gương mặt ông tổ của mình. Ngài không có gì giống với người khổng lồ và những người Yewbeam mà nó biết. Nội Bone và mấy bà em có mắt đen híp và miệng mỏng dính, trong khi ngài Otus này có đôi mắt to màu xám và miệng rộng, phóng khoáng. Nhưng dĩ nhiên, nhiều thế hệ đã trôi qua giữa họ.
“Kể cho ta nghe về cuộc sống của con đi” người khổng lồ nói, vét mẩu thịt cuối cùng ở cái tô của ngài.
Charlie liếm ngón tay cho tới khi không còn chút tàn tích nào của món hầm ngon lành nữa, và nó bắt đầu kể. Nó kể cho người khổng lồ nghe chuyện ba nó bị Manfred Bloor thôi miên như thế nào, phải sống mười năm ròng rõ trong một ngôi trường được gọi là học viện Bloor, trong khi không ai biết ông ở đâu. Nó kể tiếp rằng nó, Charlie, đã khám phá ra tài phép có thể đi vô tranh của mình. Nó tả nội Bone và các bà em độc ác của mụ. Nó kể về bạn bè nó, những cậu bé bình thường như Fidelio và Benjamin. “Chỉ có Fidelio không hẳn là bình thường” Charlie thêm. “Anh ấy là thiên tài âm nhạc và một ngày nào đó anh ấy sẽ nổi tiếng.
Tiếp theo Charlie kể lại những cuộc phiêu lưu của nó với những đứa trẻ khác, cũng được ban phép thuật, những hậu duệ của Vua Đỏ, như nó. Emma biết bay, Billy hiểu được tiếng thú vật, Lysander gọi hồn tổ tiên tâm linh của anh ấy, Tancred tạo bão, Gabriel cảm nhận được những việc đã xảy ra. “Và cả Olivia”. Charlie bật cười khúc khích. “Bạn ấy là người tạo ảo ảnh, nhưng gia đình Bloor không biết về tài phép của bạn ấy. Bạn ấy là vũ khí bí mật của tụi con”.
“Vậy là cái lão già Ezekiel cổ lỗ này giam giữ bọn trẻ các con trong cái học viện của lão vì…vì…?” người khổng lồ nhìn Charlie với vẻ dò hỏi.
“Vì tài thánh, con nghĩ ở đây ngài gọi như thế”, Charlie nói. “Và tụi con không hẳn là bị cầm tù”.
“Nhưng dưới sự kiểm soát của lão”.
“Thỉnh thoảng tụi con không tuân lệnh”.
“Tốt! Tốt!” ngài Otus thốt lên, chập hai bàn tay vào nhau. Ngài liếc ra cửa sổ. “Sắp tối rồi. Con chó có thể được cứu”.
“Hạt Đậu!” Charlie hầu như đã quên khuấy Hạt Đậu đáng thương trong khi nó mải kể chuyện cho người khổng lồ nghe.
Ngài Otus dẫn đường đi xuống tháp. Ngài cầm nến để trong một cái đĩa sắt. Nó bốc mùi mỡ cháy và tỏa ra những cái bóng khổng lồ nhún nhảy trên bức tường đá. Khi họ ra tới cánh cửa ngoài, người khổng lồ dừng lại nghe ngóng. Charlie chờ bên cạnh, hầu như không dám thở.
Ngài Otus chưua kịp mở hẳn cửa Charlie đã vèo ra ngoài. Nó đâm sầm vô bức màn đen không thể xuyên thủng, đến nỗi nó cảm thấy như mình vừa bị mù tức thì. Mà qua bức màn đen khủng khiếp đó là gió, thoạt tiên ùa tới từ một hướng, tiếp sau từ hướng khác, đẩy nó dí lưng vô bức tường tháp, kéo hẫng chân nó và thốc vô đầu nó.
“HẠT ĐẬU!” Charlie thét vô trong gió.
Nó chờ một tiếng sủa đáp lại. Nhưng không có tiếng gì vọng át được tiếng gió.
“Tốt nhất là quay lại thôi, con” ngài Otus gọi. “Nó bị bắt rồi.”
“Không!” nó chạy đại tới trước. Bất thần nó té dụi. Rồi đáp oạch xuống mặt đất đá sỏi cứng ngắc cùng với một tiếng hự. Quờ một tay ra nó chạm trúng một bức tường nhớp nháp. Có gì lúc nhúc bò qua các kẽ tay nó và nó lại thét lên tiếng nữa.
Đúng lúc đó mang lên một tiếng sủa gằn sâu trong cổ họng, và cho dù ở tư thế nguy hiểm thế này, Charlie vẫn thấy phấn chấn hẳn lên. “Hạt Đậu!” nó gọi.
Giọng của người khổng lồ trôi lều bều bên trên ngọn gió, “Ta là gã khổng lồ đáng nguyền rủa. Đáng ra ta phải báo trước cho con biết về những cái hố. Con đâu rồi, cậu bé?”
“Ở đây!” Charlie kêu to. Nó nghe thấy tiếng giày ống. Một bàn tay tổ chảng chụp lấy tay nó, và rồi nó được nhấc bổng lên dọc theo thành hố. Khi nó được nhấc lên tới mặt đất, một luồng ánh trăng yếu ớt, đứt khúc chiếu cho nó thấy một con chó màu vàng to đùng đang đứng chênh vênh trên miệng hố. “Hạt Đậu!” nó mừng húm.
Hạt Đậu sủa rối rít khi người khổng lồ bê cả thằng bé lẫn nó đi về phía tòa tháp. “Im, chó!” ngài suỵt, đẩy cả hai qua cánh cửa.
Charlie túm lấy vòng cổ của con chó đang mừng rỡ, trong khi ngài Otus đóng cửa lại và cài hai cái then nặng ngang qua.
“Chắc chắn con chó này sẽ khiến bọn ta bị xích cả đêm trươc khi màn đêm qua” người khổng lồ lầm bầm.
“Có ai nghe thấy tiếng chúng ta ạ?” Charlie vuốt đầu Hạt Đậu, cố vỗ cho nó điềm tĩnh lại.
“Ta e là tên hàng xóm của ta đã nghe rồi”, ngài Otus thừa nhận khi họ đi lên cầu thang đá. “Tòa tháp của hắn ở sát bên, hắn chẳng phải là người tử tế gì”.
Vì bây giờ Hạt Đậu đã tìm thấy Charlie cho nên nó có vẻ ngại leo lên những bậc thang tối. Charlie phải dụ nó bằng những cái vuốt ve và hứa hẹn những cục xương, mặc dù nó không biết có tìm thấy cục nào khi cả đoàn lên tới phòng của người khổng lồ hay không.
Người khổng lồ đã nghĩ trước cả. Đến lúc Charlie lôi được con chó sợ sệt lên đỉnh cầu thang, ngài Otus đã vớt từ trong nồi ra hai cục xương. Quăng qua sàn nhà, ngài chặc chặc nói, “Ăn đi, chó dũng cảm”.
“Con không nghĩ nó dũng cảm đâu” Charlie nhận xét khi nhìn Hạt Đậu hau háu gặm khúc xương.
“Charlie, con phải trốn khỏi đây” ngài Otus nói rành rọt. “bọn ta không thể đảm bảo sẽ giấu được con chó đó. Chẳng bao lâu sau gã hàng xóm của ta sẽ báo cho Ngón Cái Dị và bọn lính. Con sẽ nghe thấy tiếng tù và rồi thế là con tiêu tùng”.
“Nhưng bằng cách nào?” Charlie ngó quanh căn phòng của người khổng lồ. “Con không thê”, nó nói như sắp khóc. “Con không biết làm sao con đã đến được đây. Khi chu du con có một chiếc đũa phép…”
“Chiếc đũa phép?” mắt người khổng lồ trợn to lên.
“Con là thầy pháp thật ư?”
“Không, không” Charlie lắc đầu. “Đó là món đồ con được thừa kế từ một tổ tiên khác của con, một thầy pháp xứ Wales. Giải thích lâu lắm”
Quá dài, thật vậy, bởi vì ngay khoảnh khắc đó, âm thanh xé óc của một hồi tù và rống lên rung chuyển cả tòa tháp của người khổng lồ.
“Ối, chao ôi, phải làm gì bây giờ?” người khổng lồ bước vòng quanh vòng quanh, hai nắm tay siết chặt lại và nhìn trừng trừng ra ngoài khung cửa sổ cao. “Ta sẽ bao vệ con đến hơi thở cuối cùng của ta, Charlie. Nhưng ta chỉ có một mình. Ta không thể thắng bọn chúng. Ngón Cái Dị sẽ bắt con. Ối tội nghiệp con, rồi con sẽ ra sao?”
Tiếng rên rỉ của người khổng lồ quá sức chịu đựng của Hạt Đậu. Nó tru hộc một tiếng đồng thời nhảy cỡn lên – và một sự việc đáng kinh ngạc xảy ra. Từ trong một bên tai của con chó, một con bướm trắng bay ra. Nó đến đậu trên cánh tay Charlie.
“Claerwen” Charlie thở hốc. “Chiếc đũa phép của con”
“Trong thế giới ở thời của ta, bọn ta gọi loài này là bướm đêm,” người khổng lồ đang bối rối nói.
“Dạ, đúng đúng, nó là bướm đêm, nhưng nó đã từng là chiếc đũa phép” Charlie bảo với người khổng lồ. “Ngài Yewbeam, ngài Otus…bọn con có thể đi được rồi. Cảm ơn, cảm ơn ngài….”
“Thế thì đi đi. Bởi vì ta đã nghe thấy tiếng bước chân bọn quỷ lùn. Nhanh lên, nhanh lên. Charlie Bone.”
“Có lẽ ngài đi với con, ngài Otus?”
Người khổng lồ buồn bã lắc đầu. “Một việc không thể được. Đi đi, Charlie”.
Charlie vòng tay ôm ngang người Hạt Đậu. “Con sẽ trở lại, ngài Otus, con hứa. Con sẽ tìm cách đưa ngài ra khỏi xứ Badlock”. Nhìn vô con bướm đêm, nó hét. “Claerwen, đưa tớ về nhà.”
Căn phòng quanh nó bắt đầu giật nảy lên và lóc xóc mấy cú liền. Bất chấp trọng lực của trái đất, bàn, ghế, giường nghiêng qua bên, rồi lơ lửng trên không. Charlie đang lướt không khí. Giờ thì nó lộn ngược đầu xuống. Tai nó kêu ù ù ầm ầm. Nó cảm thấy bộ lông cứng của Hạt Đậu tan đi dưới những ngón tay nó và cố túm cho chặt hơn, nhưng có gì đó, hoặc ai đó, đang cố giật chú chó khỏi tay nó. Và rồi bàn tay nó trống huơ trong khi nó thì xoáy lộn ra xa.
Charlie thoáng thấy gương mặt nhân từ, đang hoài nghi của tổ tiên mình lần cuối cùng trước khi nó bị giật qua thời gian, qua những mạng âm thanh loang loáng, vun vút, ngập tràn xúc giác và khứu giác.
Nó đáp cái bụp xuống nền tầng hầm lạnh lẽo của nhà số 9, đường Filbert. Bức tranh Badlock dựa vô tường, đằng sau nó. Liếc nhìn vụt qua bức tranh, Charlie phóng vút lên cầu thang, leo vô hàng lang. Nó có thể nghe thấy tiếng cãi cọ phía trên.
“Ối quỷ thần ôi!” ngoại Maisie hét lên, nhảy dựng khỏi ghế. “Charlie về rồi!”
Một bầu thinh lặng đột ngột rơi xuống phòng khách. Ông cậu Paton hiện ra, theo sau là Fidelio, Benjamin và Olivia.
“Charlie!” Benjamin thét vang. “Bồ có thấy Hạt Đậu không?”
Charlie vẫn chưa hoàn hồn. Bám chắc lấy thanh vịn cầu thang cho khỏi té, nó nói, “Có chút vấn đề ở đây, Ben à”.