“Điều đó không đúng, phải không Sander?” Charlie nói thống thiết.
Lysander vòng tay ôm vai nó. “Em không được để mình tin hắn, Charlie. Làm gì có chứng cớ nào. Rất có khả năng ba mẹ em đã lên bờ an toàn khi bão nổi lên.”
“Dạ,” Charlie trả lời máy móc. Đầu nó quay mòng mòng. Nó muốn chạy bay về nhà với ngoại Maisie và Ông cậu Paton. Nhung liệu họ có biết sự thật không?
Khi Lysander dẫn nó đi vô Hành lang Chân dung nó bất thần nhớ ra mối nguy hiểm mà hai anh em đang đâm đầu vô. Ai đó phải trả giá cho sự hủy hoại Quả cầu Đại Dương và kết cục của Lord Grimwald.
Lysander cảm nhận được suy nghĩ của Charlie, anh trấn an nó, “Đừng lo. Em không làm gì sai cả, Charlie. Anh là người đã phá hủy quả cầu, mà gia đinh Bloor thì không thể đụng tới anh được. Họ quá sợ những tổ tiên tâm linh của anh.”
Dường như không ai để ý đến hai kẻ đi ăn tối trê. Giáo viên ngồi bên bàn trên bục cao ở cuối sảnh ăn. Từ đó họ có thể nhìn xuống bao quát những dãy bàn bên dưới. Nhưng hôm nay tất cả thầy cô đều tập trung vào món ăn của mình nên không nhận ra Lysander và Charlie rón rén đi vô.
Charlie quét nhanh con mắt qua ba cái bàn chạy dài khắp sảnh ăn. Ở bàn bên trái, bọn học trò khoa Nhạc áo chùng xanh da trời đang tía lia bên món hầm. Không đứa nào ngó về hướng nó, cho đến khi Fidelio vẫy nó một cái. Trong khi len lỏi lại gần chỗ Fidelio, Charlie nhận ra Olivia, ngồi ở bàn chính giữa, với chị em sinh đôi nhà Branko cặp hai bên. Lysander đi tới bàn khoa Mỹ thuật, nơi Emma đang ngồi cách Dorcas và Joshua vài chỗ, cái thằng èo uột đó có bàn tay trái băng kín mít.
“Có chuyện gì vậy, Charlie?” Fidelio thì thào hỏi khi Charlie chen vô băng ghế cạnh nó.
“Kể sau đi,” Charlie nói rồi thì thầm vô tai bạn. “Lysander đã phá hủy Quả cầu Đại Dương và Lord Grimwald rồi!”
“HẢ?” Fidelio trợn mắt dòm Charlie, không tin.
Đúng giây đó, gã Weedon thòi ra từ một trong những cánh cửa đằng sau bàn giáo viên. Gã hằm hằm đi thẳng tới bên tiến sĩ Bloor, cúi xuống, bẩm báo gì đó. Tiến sĩ Bloor đứng bật dậy, đẩy phắt cái ghế kềnh càng ra, mặc kệ nó đổ chổng vó xuống nền nhà một cái rầm.
Những giáo viên khác sững sờ nhìn ông ta và tất cả bọn trẻ ngó lên bàn giáo viên, hóng hớt. Tiến sĩ Bloor tất tả đi ra ngoài, gã Weedon cung cúc theo sau. Tức thì một rừng tiếng la thét và reo hò nổ bùng lên. Cách huynh trưởng suỵt và nhắc bọn chúng nín một cách vô ích. Cuối cùng giáo sư Saltweather đứng lên, vỗ hai tay lại với nhau. Cả sảnh ăn bỗng im bặt. Giáo sư Saltvveather vốn nhận được rất nhiều sự kính nể. “Yên nào các trò!” thầy rền vang. “Thầy hiệu trưởng vừa ra khỏi phòng không có nghĩa là các trò kêu réo lên như thú. Vui lòng hạ bớt giọng lại đi.
Bầu thinh lặng kéo dài thêm một giây nữa, sau đó tiếng huyên náo trở về mức êm bình hơn.
Gabriel, ngồi đối diện Charlie, chồm người qua và hỏi, “Vậy là Lysander tìm thấy em rồi hả, Charlie? Chuyện xảy ra thế nào?”
“Cảm ơn anh đã báo cho Lysander kịp thời, Gabe. Anh ấy đã cứu em và Dagbert.”
“Dagbert?” Gabriel nhăn mặt.
“Để nó kể sau đi,” Fidelio nói vói vẻ cảnh báo. Vài đứa trẻ đang nhìn soi mói vô Charlie.
Gabriel liếc nhìn những gương mặt tò mò đó thì bảo, “Ừ.”
Sau bữa tối Charlie hướng về phòng để áo khoác xanh da trời, với Gabriel và Fidelio theo sát nút. Chúng còn năm phút trước khi bắt đầu giờ làm bài tập về nhà. Hầu như không dừng lại thở lấy hơi, Charlie kể tuốt tuột cho đám bạn những sự kiện trong phòng khiêu vũ.
Mất một lúc bọn chúng bàng hoàng đến độ không nói được câu gì, mãi rồi Gabriel mới từ tốn. “Khi tôi báo cho Lysander là em đang đi lên Tháp Nhạc, tôi không bao giờ tưởng tượng đuợc… Ý tôi là anh ấy là người duy nhất có thể giúp em.”
“Chắc là gã Weedon đã báo cho tiến sĩ Bloor biết rồí” Fidelio bảo. “Thảo nào ông ta sấp ngửa chạy ra.”
“Manfred đã chứng kiến từ đầu đến cuối,” Charlie bảo với chúng.
Bọn bạn nó nhướng mày nhìn nó, Fidelio nói, “Thế hắn không cố ngăn lại à?”
“Ngăn Lysander ư?” Charlie nhận thấy cảm giác ớn lạnh do những lời nói của Manfred gây ra cho nó tự dưng đã được cất đi, và nó cảm thấy hồ hởi một cách phi lý. “Không gì ngăn được Lysander.”
Gabriel cười đồng ý, “Đương nhiên.”
Charlie ngần ngừ không muốn phá hỏng tâm trạng lạc quan của cả bọn, thành ra nó chẳng đả động gì tới lời cảnh báo đáng sợ của Manfred.
Ba thằng bé rời khỏi phòng để áo khoác, và trong khi Fidelio vội vã lên lớp học của mình thì Charlie với Gabriel hướng lên Phòng Nhà Vua. Ngay trước khi chúng vô phòng, Gabriel chợt bảo, “Charlie, tôi quên nói em cái này. Tôi đã gặp bà bếp trưởng sau bữa trưa. Bà có một thứ cho em đó.”
“Cái gì?”
Gabriel gãi đầu. “Hình như bà ấy nói là tấm bưu ảnh.”
“Một tấm bưu ảnh? Cái…?” Charlie cảm thấy cái gì chọc mạnh vô sau lưng mình, nó quay lại thì thấy Joshua đang cầm một cây viết chì trong bàn tay băng bó.
“Mày có vô hay là không?” Joshua hậm hực.
Không đáp, Charlie mở cánh cửa và Joshua chen qua nó, vô trước.
Quả là lạ khi thấy Manfred đang ngồi tại chỗ thường lệ của hắn, làm như không có gì xảy ra. Hắn liếc Charlie một cái lạnh thấu xương khi nó bước vô; ngoài hành động đó thì không còn biểu hiện gì khác chứng tỏ hắn đã chứng kiến việc Quả cầu Đại Dương nuốt chủ nhân của nó rồi sau đó tự phân hủy. Trong thoáng chốc, Charlie tự hỏi có phải do gia đình Bloor không còn cần sử dụng quả cầu đó nữa chăng. Nếu ba Lyell Bone của nó đã thật sự bị chết đuối, thì cái hộp khảm xà cừ sẽ không bao giờ được tìm thấy. Nhưng Charlie kiên quyết không thừa nhận điều này. Nó một mực cho rằng chừng nào nó còn tin ba mẹ sẽ về nhà, thì chừng đó không gì ngăn cản được ba mẹ nó.
Một tiếng khịt khe khẽ ở bên cạnh khiến Charlie nhận ra Emma đang chậm mũi. Cả ngày hôm nay nó chưa nói gì với Emma và nó cảm thấy tội lỗi vì đã gạt bạn ra khỏi mọi chuyện. Khẽ thúc cô bé một cái, nó thì thầm. “Chút nữa gặp bồ trong phòng vẽ nha, Em.”
Emma gật đầu mỉm cười và rồi, trong khi cái đầu Manfred cúi xuống quyển sách của hắn, cô bé thì thào lại, “Là áo gi-lê” đoạn nó nhìn thẳng qua Olivia ở phía bàn bên kia.
Charlie nhíu mày. Nó không có cơ hội hỏi Emma nói vậy hàm ý gì bởi vì Manfred lại đang nguýt nó. Cả Olivia cũng dòm nó. Cô nàng không còn là mình nữa, Charlie thấy vậy. Da dẻ tai tái và có những quầng thâm nơi mắt. Khi cô nàng giở sách ra, Charlie bắt gặp mảng lấp lánh của chiếc áo cô nàng mặc bên dưới tấm áo chùng. À hiểu rồi… cái áo gi-lê!
Sau giờ làm bài tập về nhà Charlie phóng thẳng tới phòng vẽ. Gabriel và Lysander nán lại để làm nốt vài bài tập và Charlie thấy mình bị bám theo bởi một đám con gái. Nó ngoái lại, thấy Dorcas, chị em sinh đôi và Olivia. Chúng dừng túm tụm ở chân cầu thang dẫn lên phòng ngủ chung của nữ sinh, và khi Charlie đi tiếp tới phòng vẽ, nó cảm thấy ánh mắt chúng dán theo mình.
Phòng vẽ ở cuối hành lang dẫn lên phòng ngủ chung của Charlie, vì vậy nó hy vọng tụi con gái không đoán ra được nó đi đâu. Nó liếc lẹ ra sau vai và thấy bọn con gái đã biến mất, tức thì nó chạy vù một mạch tới cuối hành lang, vô một căn phòng lớn có những cửa sổ dài nhìn ra vườn. Nơi này la liệt giá vẽ và toan để vẽ, Charlie bật ngay một trong những bóng đèn lên, đề phòng trường hợp vấp té. Ai đó muốn trốn sau những giá vẽ cao ngất này thì quá dễ, bởi vậy trong khoảnh khắc, nó không dám chắc chắn mình có phải là người duy nhất ờ trong phòng không. “Emma?” nó khẽ gọi.
Không có tiếng đáp lại vì vậy Charlie bước vòng qua rừng giá vẽ về phía những cửa sổ tối. Nó phải đi qua một ô cửa sập che dãy cầu thang xoáy trôn ốc dẫn xuống phòng điêu khắc. Căn phòng nơi có lần Dagbert đã cố ý dìm chết Tancred. Mà có thật là thằng đó đã cố ý?
Charlie tới bên những ô cửa sổ và ngó ra ngoài vườn sương giăng. Mây dày đặc che kín mặt trăng và những vì sao, nó chẳng thấy gì ngoài hàng tượng đá thẳng ngay bên dưới. Lão Ezekiel già khụ có thú trang trí vườn tược bằng những nhóm tượng người và tượng thú đặt lỗ chỗ khắp mặt đất. Thỉnh thoảng ta có thể bắt gặp một bức tượng cô độc tại nơi ít ai ngờ tới nhất, và khối đá xam xám nổi thù lù trong bụi rậm tối tăm đó rất dễ khiến người ta sợ hết hồn.
“Charlie!” có tiếng thì thầm.
“Em?” Charlie đáp.
Emma đi rón rén về phía nó. “Ra khỏi cửa sổ đó ngay, kẻo có người ngoài vườn trông thấy bồ bây giờ.”
Charlie đã không nghĩ tới tình huống này. Nó lùi lại một cụm giá vẽ và thấy Emma đang ngồi thụp dưới sàn. Trông cồ bé rõ là thất thần.
“Có chuyện gì đã xảy ra vậy, Charlie?” giọng cô bé nổi rõ mối lo âu. “Bồ tới ăn tối trễ, áo lạnh của bồ dính máu, còn Dagbert Endless thì biến mất.”
Charlie lưỡng lự. Trông Emma hoảng hốt đến nỗi nó tự hỏi mình phải kể cho cô bạn nghe về một ngày thảm họa của mình như thế nào đây để không làm cho bạn sợ hãi hơn nữa.
“Charlie, làm ơn đi, chuyện gì đã xảy ra?” cô bé nài nỉ.
Vậy là Charlie kể hết. Nó cố kể một cách bình thản khi mô tả trận đấu gay cấn với Ashkelan Kapaldi, nhưng nó không ngăn được giọng hãi hùng khi thuật lại cảm giác bị chết chìm mà nó cảm thấy khi cơn sóng gầm quét ập xuống đầu nó, rồi nó cũng không kìm nổi vẻ phấn khích khi mô tả cảnh tượng Quả cầu Đại Dương teo rúm lại.
Charlie đã lo hão. Lúc nó kể xong, tinh thần Emma được nâng lên đáng kể. Đúng ra, trông cô bé phấn chấn hẳn lên. “Ố, Charlie, có lẽ cuối cùng chúng ta sẽ chiến thắng,” cô bé hớn hở. “Mình đã có cảm giác bi quan về tất cả mọi thứ, nhưng giờ thì mình tin là chúng ta sẽ trụ được và nếu mình có thể tống khứ được tấm áo gi-lê đó ra khỏi Olivia thì nó sẽ trở lại là nó ngay.”
“Mình đã thấy cái gì lấp lánh dưới áo chùng của nó. Vậy đó có phải là tấm áo gi-lê mà bồ nghĩ là đã làm nó thay đổi?”
“Mình chắc chắn. Mình đã cố lấy đi khi nó thay đồ trong nhà tắm, nhưng nó đã suýt cào rách tay mình.”
“Hừm.” Charlie gãi mái đầu bù xù của nó và nói, “Bồ hãy quan sát kỹ tấm áo gi-lê nhe. Phải cố nhớ từng đường may và từng cái khoen đính kim sa. À, tối thứ sáu tới nhà mình nha, có cô Alice Angel ở đó đấy.”
“Cô Alice!” Emma chập hai tay vào nhau sung sướng. “Ôi, cô Alice có thể cứu Liv, mình biết mà.”
Một tiếng nói bất thình lình vang khắp phòng. “Charlie, em ở đó à? Bà giám thị đang nổi con lôi đình kia kìa.”
Charlie và Emma nhảy bật dậy. Fidelio đang đứng ở cửa, tay để sẵn lên công tắc đèn. “Ra lẹ lên,” dứt lời cậu chàng tắt phụt bóng đèn luôn.
Hai đứa ù ra cửa, và khi chúng vừa ra khỏi, Fidelio đóng cửa ngay lập tức. Bọn con trai về phòng ngủ chung của chúng, Emma vẫn chạy tiếp về phía cầu thang liền kề.
“Bà giám thị đâu?” Charlie thì thào.
“Trong buồng tắm,” Fidelio bảo nó. “Rupe Small làm mất bàn chải đánh răng và bà giám thị đang chờ cho nó tìm thấy.”
Charlie ngoác miệng ra cười. Nhưng khi đi vô phòng ngủ chung thì chúng thấy rằng bàn chải đánh răng đã được tìm thấy và bà giám thị, tức bà cô Lucretia, đang đứng ở đầu giường của Charlie, hai tay chống nạnh. “Mày đã đi đâu?” mụ hạch sách ngay khi Charlie bước vô.
“Làm bài,” Charlie xạo ke. “Thầy Pope cho cháu thêm bài về nhà.”
Lời nói dối có tác dụng. Bà cô của Charlie hỉ mũi một cái và xỉa xói, “Đáng đời mày.” Nó chỉ còn cách cầu khấn cho mụ đừng hỏi han thầy Pope về chuyện bài tập thêm.
Ở góc bên kia phòng ngủ chung, Simon Hawke tương ra một câu. “Dagbert Endless không có trong phòng.”
“Ừ thì không,” bà giám thị nói huỵch toẹt và rời khỏi phòng.
“Lạ lùng,” Simon thắc mắc. “Xem ra bà ta không thèm đếm xỉa tới thằng người cá. Có ai biết nó ở đâu không?”
“Có lẽ về nhà rồi,” Bragger Braine nói.
“Sao được,” Simon tranh cãi. “Tụi mình mới học nửa tuần chứ mấy.”
“Mày không nhận ra à?” Bragger vỗ vỏ gối cùa nó. “Thiếu gì đứa đã ra đi.”
Charlie vô phòng tắm. Bragger nói có ngụ ý gì vậy? Không đứa trẻ nào được rời Học viện Bloor khi mới có nửa tuần trôi qua. Điều đó không được phép. Charlie chùng chình tốn nhiều thời gian đánh răng và chải cái đầu bất trị của nó. Đến lúc nó rời phòng tắm thì đèn đã tắt và vài thằng đã ngủ khò.
Charlie biết là mình sẽ chẳng ngủ được. Những hình ảnh của cái ngày khác thường hôm nay nối đuôi nhau đuổi bắt trong đầu nó. Mới thoắt cảm thấy lâng lâng đó mà nó đã lại mang tâm trạng hoài nghi. Bỗng nhiên nó sực nhớ tới tấm bưu ảnh. Làm sao nó ngủ nổi khi tin tức về ba mẹ chỉ cách nó có vài tầng bên dưới. Quăng chân xuống sàn, nó loay hoay xỏ chân vô đôi dép lê và khoác áo choàng vô. Mọi đứa học trò đều mang đèn pin tới trường và mặc dù pin trong cây đèn của Charlie đã yếu nhưng vẫn đủ sáng rọi cho nó thấy đường đi xuôi cầu thang không đèn xuống tiền sảnh.
Ở đây vô cùng rủi ro. Một ngọn đèn nhỏ sáng thường trực trong tiền sảnh, và bất kỳ giây phút nào một giáo viên cũng có thể bước ra từ một trong những cánh cửa mở ra tiền sảnh và bắt quả tang Charlie. Không còn cách nào khác ngoài hy vọng và co giò chạy thật lẹ. Hít một hơi thật sâu, Charlie nhón chân xuống cầu thang cót két, lẹ hết sức. Không dừng để ngó lại sau, nó bay qua Hành lang Chân dung tới căn-tin xanh da trời. Có tiếng người ầm ĩ được nghe thấy vọng ra từ căn-tin xanh lá cày. Gã Weedon và mụ Weedon lại đang gấu ó, Charlie nghĩ vậy. Nó lẹ làng lỉnh vô căn-tin xanh da trời và đi vô nhà bếp, Trong đây tối như hũ nút; mùi bắp cải nấu sục nức xông đầy lỗ mũi Charlie và nó phải bịt mũi lại. Đã lâu nó chưa thăm căn hộ của bà bếp trưởng, nhưng chỉ cần rọi cây đèn qua vài hàng tủ âm tường là nó đã nhận ra lối vào nơi ở của bà bếp trưởng. Nó luôn cảm thấy e ngại mỗi khi mở cánh cửa này, bởi vì nếu rủi ai đó phát hiện ra nơi ở bí mật của bà bếp trưởng thì chắc chắn bà sẽ bị trục xuất khỏi học viện. Gia đình Bloor tin rằng bà ngủ trong một căn phòng nhỏ lạnh lẽo ở chái phía Đông, và nghĩ rằng bà không hề hay biết gì về mê cung tuyệt diệu bên dưới tòa nhà.
Charlie bước vô tủ âm tường và đóng cửa lại, xong nó mở cánh cửa khác. Giờ nó ở trong một hành lang thắp sáng dìu dịu dẫn tới một tủ âm tường nữa, sau đó vô phòng của bà bếp trưởng.
“Trời đất quỷ thần ơi!” bà bếp trưởng kêu lên khi Charlie bước ra khỏi tủ âm tường ở cuối phòng của bà. “Sao con lại ở đây thế này, Charlie Bone?”
“Tấm bưu ảnh,” Charlie nói. “Gabriel bảo là bà giữ một tấm bưu ảnh cho con.”
“Đúng là vậy thật. Nhưng con không đợi được đến sáng mai sao.”
“Không ạ. Con xin lỗi, nhưng con cần biết ba mẹ con viết cái gì.”
“À, biết ngay mà. Bà Maisie đã dưa cho ta một tấm bưu ảnh khi bọn ta gặp nhau vào giờ thường lệ ở tiệm tạp phẩm. Hên là bà nội của con không thấy nó.” Bà bếp trưởng với lấy tấm bưu ảnh ở trên kệ phía trên lò sưởi. “Ngồi xuống mà đọc đi, trong khi ta pha một cốc ca-cao. Đã gặp con ở đây rồi thì chúng ta sẽ thảo luận xem việc gì đã xảy ra vậy. Xem ra tình hình không thoát khỏi suy đoán của ta rằng trong ngày hôm nay đã xảy ra mấy vố đảo ngược rồi thì phải.”
Charlie vồ lấy tấm bưu ảnh và thả phịch người xuống chiếc ghế bành bên lò sưởi. Tức thì một tiếng gừ đặc phụt ra đằng sau nó, rồi May Phúc phi thân từ phía sau chiếc ghế, loạng choạng té ạch xuống sàn nhà, nằm chỏng gọng thành một đống.
“Xin lỗi May Phúc. Tao đã không thấy mày,” Charlie lầu bầu trong khi lướt nhanh qua dòng chữ ở mặt sau tấm bưu ảnh. “Không hiểu nổi,” nó van vỉ, sau khi đọc xong tấm bưu ảnh lần thứ hai, rồi lần thứ ba.
“Sao không?” bà bếp trưởng hỏi. “Ta thì thấy nó hoàn toàn dễ hiểu mà. Ba mẹ con an toàn, Charlie.”
“Có thật thế không? Tấm bưu ảnh này có thể đã được gởi đi trước cơn bão, nhờ người nào đó trên một con tàu đi ngang qua.”
Tấm bưu ảnh do mẹ Charlie viết như thế này:
Ba mẹ đang trên đường về nhà. Không còn lâu nữa đâu. Ba mẹ nhớ con quá. Chẳng mấy chốc gia đình mình sẽ đòan tụ. Ba dặn con cấm không được tìm chiếc hộp nữa.
Ba mẹ yêu con,
“Vậy con không hiểu cái gì?” bà bếp trưởng hỏi, trao cho Charlie một tách ca-cao.
“Chiếc hộp. Sao mà rắc rối quá. Làm sao ba mẹ con biết con đang tìm một chiếc hộp, và tại sao ba con bảo con đừng kiếm nó nữa?”
“Chắc chắn là vì họ biết nó ở đâu,” bà bếp trưởng đáp.
Charlie nhấp một ngụm ca-cao. “Nhưng làm sao… con không hiểu. Hay là bất chợt ba nhớ ra chỗ ba đã cất nó? Hay là ba luôn biết về nó? Và… và chỗ cất nó?”
“Ta không biết,” bà bếp trưởng nói bằng giọng ấm áp và tinh thông của bà.
Charlie nhìn trơ trơ quầng lửa đỏ dễ chịu trong lò sưởi của bà bếp trưởng. “Con không biết tại sao ba con lại đi xa trong lúc thành phố đang lâm nguy,” nó lầm bầm. “Đôi lúc con thấy bực ba dễ sợ, có khi thất vọng nữa. Nhưng chắc chắn ba con phải có lý do để làm như vậy, đúng không.”
“Dĩ nhiên,” bà bếp trưởng đồng ý.
“Phải là lý do rất, rất chính đáng. Và cho dù con tìm ra lý do đó thì con cũng không bao giờ tin rằng ba… ba không quan tâm đến con, hay đại loại.”
Bà bếp trưởng mỉm cười. “Charlie, con khôn hơn tuổi của con nhiều đó.”
Chưa ai từng bao giờ nói như thế với Charlie cả. Thực tế người ta toàn nói điều ngược lại. Nó cảm thấy khoai khoái.
“Nào, bâv giờ hãy kể tất tật mọi sự cho ta nghe di mặc dù ta đã đoán ra phần lớn rồi.”
Trong khi nhâm nhi thưởng thức tách ca-caơ thơm ngậy, Charlie kể lại mọi việc đã xảy ra. Đến khi kể xong thì mắt nó đã bắt đầu díu sụp xuống, và bà bếp trưởng phải lay cho nó tỉnh dậy. “Charlie,” bà nói dịu dàng. “Con có thể đưa Billy về lại cho ta được không? Ta nhớ nó quá.” Bà nhìn con chó già. “Cả May Phúc cũng buồn bã suốt. Ta đã cố nói chuyện với nó nhưng vô ích. Chỉ có Billy mói nói được ngôn ngữ của nó mà thôi,” Charlie dụi mắt. “Con sẽ cố. Nhưng trước tiên con phải tìm ra bức tranh xứ Badlock đã. Đó là lối duy nhất cho con vô. Thật ra con rất muốn gặp lại Matilda.”
Bà bếp trưởng lắc đầu. “Cháu gái của lão thầy bùa phải không? Hãy quên cô bé đi, Charlie. Cô bé đó đến từ một thế giới khác. Ta sẽ để ý truy tìm tông tích của bức tranh đó. Giờ thì con phải trở lại giường ngủ trước khi bị phát hiện vắng mặt.”
Charlie uể oải nhấc mình ra khỏi lò sưởi ấm áp của bà bếp trường và bước vô tủ âm tường.
“Cẩn thận nhé, Charlie,” bà bếp trưởng thì thầm khi bà đóng cửa lại đằng sau nó.
Vẫn như trước đấy, tiền sảnh vắng tanh và Charlie lẻn tới cầu thang lên phòng ngủ chung mà không bị phát giác. Nó không hay biết rằng đêm đó toàn bộ giáo viên đã quyết định tránh xa chái phía Tây. Thực tế, hầu hết thầy cô còn đi ngủ sớm hơn thuờng lệ, thà vậy để khỏi phải chạm mặt bất kỳ ai trong số những người, vào lúc đó, đang lăng mạ nhau trong phòng khiêu vũ.
Lão già Ezekiel vẫn không chịu tin về những sự kiện đã xảy ra. “Quả cầu mới đẹp làm sao,” lão rú lên, đẩy xe lăn quay lòng vòng lòng vòng phòng khiêu vũ như thể vòng quay bất tận của lão sẽ có thể làm cho Quả cầu Đại Dương hiện ra vậy. “Hắn đã nhấn chìm hết bọn chúng rồi phải không?” lão hạch hỏi.
“Tôi đã nói với cố rồi, đúng vậy!” Manfred quát. “Chắc chắn thế. Phải chi cố tận mắt thấy những con sóng đó.”
“Thì ra anh đã thấy tất cả nhưng lại không động một móng tay gì tới cái một bọn châu Phi đó!” lão Ezekiel rống rít. “Đồ hèn nhát. Đồ nhu nhược thỏ đế.”
“Tôi mong ước thấy cố ra tay ngăn chặn hàng trăm bóng ma cầm giáo mác với đuốc và… đủ thứ đó,” Manfred quát lại.
“Mày không phải tấn công chúng,” lão Ezekiel lập luận. “Mày chỉ việc tống cho cái thằng Lysander Sage đó một cú vô đầu là xong.”
“Không thể!” Manfred đá sủi vũng nước nằm ngay chính giữa phòng khiêu vũ – đó là tất cả những gì còn lại của Quả cầu Đại Dương, theo như hắn biết. Hắn đã không biết đến quả cầu tí hon mà lúc này Dagbert sở hữu. Một mùi cá tanh lợm bốc lên từ vũng nuớc và Maníred lại đá nó lần nữa. “Vả lại, Lyell Bone đã bị chết đuối rồi, cho nên hắn sẽ chẳng thể về nhà mà đào bới lùng sục chiếc hộp đó nữa.”
“Còn ta thì sao?” mụ Tilpin gào to, ngúng nguẩy ở bên mép nước. “Thằng con ta bị thương, ngài kiếm sĩ của ta bị… đẩy về. Lord Grimwald đã hứa cho ta lâu đài, đầy tớ, tiền bạc. Tất cả tiêu ma. Đồ hèn. Ta phải bóp chết ai đó. Ta sẽ làm cho tệ hơn nữa. Ta sẽ biến chúng thành ếch nhái.”
“Xem ra…” Manfred mở mồm.
“Im hết đi!” tiến sĩ Bloor rống vang từ chiếc ghế ông ta đang ngồi ở cuối phòng. “Cứ nhiếc móc nhau bất tận thế này thì làm nên cơm cháo gì. Nếu muốn thực hiện điều gì thì chúng ta phải đoàn kết lại.”
Giọng uy quyền của ông hiệu trưởng khiến tất cả nín thít. Mụ Tilpin trợn trừng vô cái vũng nước sền sệt, Manfred lẳng lặng nhịp bàn chân ướt của hắn vô mép nước và lão Ezekiel dừng phắt xe lăn lại.
“Không gì thay đổi,” mụ Tilpin cuối cùng nói. Giọng mụ khẽ mà quỷ quyệt và mọi người thắc thỏm nhìn mụ. “Bởi vì ngài sắp tới. Bá tước Harken, cái bóng, thầy bùa. Thần dân của ngài đã ở đây cả rồi, và chẳng bao lâu họ sẽ tới đây thêm nữa. Như vậy các người vẫn có thể giữ được ngôi trường báu bổ của các ngườ.” Mụ khuỳnh hai cánh tay và nhún nhảy quanh vũng nước, gấu váy đen lấp loáng chạm quét mặt nước, khiến nó gợn lăn tăn trên bề mặt. “Rồi khi đó Charlie Bone và Billy Raven, Lysander Sage và những tổ tiên tâm linh của nó tất cả sẽ chỉ còn là một ký ức mờ.”
“Thế còn Hiệp sĩ Đỏ?” Manfred hỏi.
“Hừ, Hiệp sĩ Đỏ,” mụ Tilpin lặp lại, và ngừng nhún nhảy.