Gabriel chờ sẵn ở Hành lang Chân dung, hy vọng sẽ chặn đầu Charlie khi thằng nhỏ băng qua đây. Cậu dự định đứng tại chỗ nhưng lại thấy mình đi lơ ngơ trong hành lang, nghiên cứu những bức chân dung treo trên tường. Hàng ngày cậu đều đi ngang qua nhưng không bao giờ ngó ngàng tới chúng. Trong tranh là những người đàn ông và phụ nữ mặt lạnh như tiền, mặc dù thi thoảng ta cũng gặp một người hơi cười. Nếu bạn rành lịch sử thì bạn có thể dựa theo trang phục họ mặc mà biết họ đã sống ở thế kỷ nào. Gabriel được bảo rằng tất cả họ đều là con cháu của Vua Đỏ. Thậm chí còn có cả chân dung của một người tên là Silvio Silk, mặc com- lê nhung đen và đội tóc giả màu trắng quăn lọn. Đó rất có thể là tổ tiên của Gabriel, nhưng cậu chẳng có chút xíu nào giống ông ấy.
Nếu Gabriel mặc đồ của người khác, cậu sẽ lập tức biết ngay trước đó loại người nào đã mặc bộ đồ ấy, Đôi khi cậu còn mường tượng ra diện mạo của họ, thấy những gì họ đã làm và thậm chí còn nghe được giọng nói của họ. Nhưng chân dung nói chung chẳng mách bảo cậu được điều gì. “Nếu cháu là Charlie, thì rất có thể cháu sẽ đi thẳng vô trong đó để nói chuyện với ngài,” Gabriel thì thào với Silvio Silk. “Và ngài có thể nói chuyện với cháu.”
Ngài Silvio Silk không hề chớp mắt lấy một cái. Ngài vẫn giữ nguyên vẻ mặt cam chịu mà ngài đã mang kể từ khi họa sĩ vẽ ngài, cách đây hai trăm năm.
Gabriel tha thẩn đi tiếp trên hành lang. Cậu đi qua những nguời đàn ông mặc com-lê đen thanh nhã, áo jacket đỏ đậm hoặc áo gi-lê vàng rực rỡ. Cậu đi qua những phụ nữ cổ đeo nặng trĩu kim cương và ngọc trai, tóc cài vòng hoa và vai độn dày nhung và lông thú. Sau đó cậu dừng lại trước một bức chân dung vẽ một kỵ sĩ to bằng người thật. Mắt Gabriel bị kéo tuột tới thanh gươm ông ta đeo bên hông. Cán gươm vàng được rèn cực kỳ tinh xảo, và những ngón tay đeo găng của người đàn ông tì lên đó một cách trìu mến. Khi Gabriel đang trố mắt dòm những đường cong ánh vàng cầu kỳ, thì bất thình lình chúng sáng nhóe lên như thể có nắng mặt trời chiếu vô. Tiếp theo Gabriel thấy mắt mình hướng lên tới gương mặt ngự bên trên cái cổ áo đăng ten rộng xù. Người đàn ông này để tóc đen dài chấm vai, và giữa bộ ria mép đen nhánh và bộ râu quai nón nhọn, đôi môi1 dày toét ra một nụ cười gượng gạo.
Gabriel lùi lại một bước để nhìn cho rõ hơn, và giờ thì cậu nhận thấy đôi mắt ông này hình như kỳ kỳ. Không có nét tinh anh trong đó. Cứ như thể linh hồn của người đàn ông đã rời khỏi gương mặt trong bức vẽ.
Một cơn rùng mình lạnh toát chạy dọc sống lưng Gabriel. Hành lang này tối lù mù. Không có đèn, không có cửa sổ cho ánh mặt trời lọt vô. Có khi nào cậu tưởng tượng ra tia sáng lóe lên trên cái cán guơm vàng chóa kia không? Trong mắt người đàn ông bị thiếu thần sắc? Hay đó chẳng qua là do bóng của chính Gabriel đổ xuống che khuất? Không. Có gì đó rất lạ về bức chân dung này. Trên bản đồng ở đáy khung tranh đề cái tên: Ashkelan Kapaldi. Tấm đồng đã lỏng ra, xộc xệch chéo góc và có những dấu vân tay trên bề mặt láng bóng của bức chân dung. Chắc chắc chỉ mói đây thôi đã có ai đó chạm vô bức chân dung, không chỉ chạm, mà thậm chí còn ấn và chọc nó nhiều lần.
“Gabriel Silk, mày đang làm gì đó?” giọng của Manfred khoan xoáy khắp Hành lang Chân dung.
Gabriel quay lại với vẻ tội đồ, mặc dù, theo như cậu biết, cậu chẳng việc gì phải cảm thấy tội lỗi cả. Cậu phải bảo đảm làm cho Manfred không đoán được những ý nghĩ trong đầu cậu. Dạo này thầy Giám sát Tài phép rất hay dùng phép thôi miên.
“Mày làm gì ở đây?” Manfred tiến lại gần Gabriel và nhìn trừng trừng vô cậu.
“Không làm gì cả, thưa ngài.” Gabriel tránh nhìn đôi mắt đen sì. Bên dưới áo chùng đen, Manfred điệu một chiếc áo gi-lê màu xanh lá cây đậm. Một hiện tượng đáng sửng sốt ở cái kẻ vốn không ưa ăn mặc lòe loẹt.
“Không à?” thầy Giám sát Tài phép nhìn như muốn chọc thủng Gabriel, bắt cậu phải ngước mặt lên. “Không à?”
Gabriel cảm thấy xây sẩm mặt mày. “Tôi đang trên đường đến lớp học nhạc, thưa ngài,” cậu lắp bắp.
“Thì đi đi! Và cấm được láng cháng!”
Gabriel định quay đầu bước đi thì chợt trông thấy có hai người lướt trên hành lang đằng sau Manfred.
Một kẻ đi cà thọt, kẻ kia đi liểng xiểng. Mắt Gabriel trợn ngưọc kinh ngạc, bởi vì cái gã cà thọt kia quá giống với người đàn ông trong bức chân dung: Ashkelan Kapaldi.
Vẻ choáng sốc trong mắt Gabriel khiến Manfred quay gấp ra sau: “Đi!” hắn quát Gabriel. “Ngay!”
Gabriel lật đật bước đi, nhưng vẫn còn kịp nghe thầy Giám sát Tài phép ca cẩm, “Vậy là không khôn ngoan, thưa ngài, khi ngài rời chái phía Tây vào ban ngàv- Tụi học trò sẽ nhận ra ngài… và thắc mắc.”
“Cứ để chúng thách mách,” giọng nói của người lạ mang âm điệu nước ngoài. “Mặc cho chúng choáng ngất..”
“Đây không phải lúc, ngài Ashkelan.” Giọng nói của người thứ hai nghe dội âm như ở trong hang động. Có gì đó trong cách vuốt đuôi và mạch nhả chữ khiến Gabriel liên tưởng đến Dagbert Endless. Cậu hộc tốc chạy vô tiền sảnh, nơi đầy ắp bọn trẻ đang trên đường tỏa đi các lớp học khác nhau. Thỉnh thoảng có đứa thì thầm với đứa bạn đi cùng với mình, trong khi măt lấm lét canh chừng một huynh trưởng nào đó đang theo dõi. Im lặng trong tiền sảnh là luật.
Gabriel phát hiện ra mái đầu chôm bôm của Charlie. Mặt nó nhăn như khỉ và rõ ràng trí óc nó đang ở tận đẩu tận đâu cả nhiều dặm. Gabriel vẫy tay rối rít, cố ra hiệu cho Charlie chú ý, nhưng Charlie không trông thấy cậu. Sau đó Dagbert Endless bước chen vô chặn giữa chúng. Thằng này kiên quyết bám theo Charlie qua tiền sảnh, vô hành lang dẫn tới lớp nhạc của xê-nho Alvaro. Gabriel truy sát bọn chúng.
Khi đã an toàn ra khỏi tiền sảnh, Gabriel gọi, “Charlie!”
Dagbert quay lại, đốp chát, “Mày muốn gì?”
Gabriel thoáng sững người vì giọng điệu gay gắt của Dagbert. “Tao muốn nói chuyện vói Charlie,” cậu đáp.
“Chào, Gabe!” Charlie cuối cùng đã nhận thấy Gabriel. “Có chuyện gì vậy?”
Thấy coi bộ Dagbert sẽ không rời bọn chúng, Gabriel lầm bầm, “Không có chi. Để lát nữa tôi lại tìm gặp cậu.”
Charlie nhìn Gabriel tiu nghỉu bỏ đi, vai thõng xuống, hai bàn tay đút trong túi quần. Rõ ràng anh ấy không muốn Dagbert nghe thấy những gì anh phải nói vói mình.
“Sao mày đeo bám theo tao dữ vậy?” Charlie hỏi. “Mày không phải vô lớp sao?”
Dagbert nhún vai. “Tao đánh mất cây sáo của tao rồi Tao nghĩ chắc xê-nho Alvaro đang giữ nó.”
“Sao kỳ vậy? Thầy Paltry dạy sáo mà.” Charlie bước lẹ hơn, cổ rũ bỏ Dagbert đi.
Dagbert bắt kịp nó. “Thế này. Sự thật là… cha tao đang ở đây.”
“Tao biết,” Charlie cấm cẳn. “Tao với mày đã nói xong chuyện này rồi. Mày còn muốn tao làm gì về việc đó nữa?”
“Tao muốn mày giữ giùm tao những linh vật biển một thời gian.”
“Cái gì?” Charlie dừng sựng lại giữa đường. Nó hầu như không tin vô tai mình. “Mày có nghiêm túc không đó mà bảo tao giữ những thứ mà mày dùng để giê…” nó vội chỉnh lại, “những thứ mà mày đã dùng để dìm chết Tancred vì anh ấy đã cầm nó?”
“Tao đã bảo với mày rồi,” Dagbert tuyệt vọng. “Tao không cố ý dìm chết anh ta. Đó là một tai nạn.” Nó thọc tay vô túi quần và lôi ra một nắm bùa linh nhỏ xíu: năm con cua, một con cá và một con nhím biển nhỏ xíu, tất cả đều bằng vàng. “Làm ơn giữ nó giùm tao.” Nó chìa đống linh vật ra cho Charlie. “Cha tao đang tìm chúng.”
“Tại sao?”
“Tao không thể giải thích vào lúc này.” Dagbert dúi đám bùa vô Charlie.
Charlie lùi lại. “Tại sao lại đưa tao?”
Mày là người duy nhất tao có thể tin cậy.”
Charlie thấy không sao tin được. “Thế còn tụi bạn mày đâu: Joshua, Dorcas chị em sinh đôi? Lại còn Manfred nữa?”
Dagbert lắc đầu nguầy nguậy. “Không, không, không.” Nó chộp lấy cổ tay Charlie và cố ấn đống bùa vô đó. “Lăm ơn đi!”
“Không.” Charlie giật tay đi và những sinh vật biển rớt tóe xuống sàn. Con nhím biển lăn về phía cửa lớp của xê-nho Alvaro, đúng lúc nó bật mở ra.
Xê-nho Alvaro đứng ở khung cửa nhìn con nhím biển dưới chân thầy một cách lạ lẫm. Rồi thầy khẽ đá nó một cái.
“Không!” Dagbert lao tới vồ lấy miếng bùa khi nó lăn dưới sàn. “Ông đã mém làm gãy nó.” Đoạn thằng này quýnh quáng thu lượm năm con cua và con cá vàng, đút hết vô túi quần.
“Chuyện gì thế kia?” xê-nho Alvaro nhíu mày nhìn bức tường đằng sau hai thằng bé. Lúc này đã biến thành một mảng màu xanh lá cây nhợt, gợn sóng, với những bong bóng bạc sủi lên từ chiếc vỏ sò trôi lềnh bềnh ngay phía sau tai của Charlie, và với những lá tảo biển trôi lều bều dính vô một tấm ván trượt.
Charlie liếc nhìn Dagbert đang càu cạu. “Nó tự nhiên thế đó, thưa thầy,” Charlie bảo với thầy giáo dạy nhạc. “Nó không cưỡng lại được.”
“Không cưỡng được?” xê-nho Alvaro nhướng một bên lông mày đen, sắc gọn lên. Tuổi thầy còn khá trẻ đối với một giáo viên, quần áo thầy mặc luôn vui mắt và đủ sắc màu. Thầy có đôi mắt nâu luôn luôn tươi cười, cái mũi nhọn và tóc đen bóng. Xem ra thầy không ngạc nhiên về hình ảnh sóng nước in trên tường cho lắm.
Khi Dagbert thất thểu đi khỏi, tảo biển, vỏ sò và bọt khí mờ dần, bức tường trở lại màu xám bình thường của nó.
“Vô đi, Charlie,” xê-nho Alvaro bảo.
Charlie dạo này luôn yêu thích giờ học nhạc. Nó biết mình không tài năng gì, nhưng xê-nho AỊvaro luôn thuyết phục nó rằng âm nhạc là niềm vui, miễn là nó thổi dứt khoát và đạt tới nhũng nốt thích hợp, không ít thì nhiều. Charlie thậm chí còn cố tập luyện được nửa tiếng vào tối hôm trước giờ học, khiến xê-nho Alvaro ngạc nhiên và hài lòng vô kể.
“Xuất sắc đó, Charlie!” giọng Tây Ban Nha của ông thầy dạy nhạc vừa khẽ vừa rấm rứt. “Thầy sửng sốt vì sự tiến bộ của em. Thêm một chút luyện tập nữa là bản nhạc này sẽ hoàn hảo ngay đấy mà.”
Bài học kết thúc và Charlie vẫn bịn rịn chưa muốn rời đi. Xê-nho Alvaro là một trong một số ít thầy giáo ở học viện Bloor mà Charlie có thể tin cậy. Nó cảm thấy niềm thôi thúc phải tâm sự với thầy.
“Thầy có hiểu về Dagbert không ạ?” nó hỏi khi cất cây kèn trumpet vô hộp.
“Thầy biết về cha của thằng bé đó, nếu đó là ý trò muốn hỏi, Charlie. Thầy cũng biết lời nguyền truyền tụng qua các triều đại Grimwald và thầy biết Dagbert tin rằng những thứ bùa hộ mệnh do mẹ nó làm cho nó sẽ có thể bào vệ nó.” Giọng xê-nho Alvaro rất thản nhiên. Charlie ngạc nhiên vì sao thầy lại biết nhiều như vậy.
“Thầy có biết về… về… tài phép của em?” Charlie không tin tưởng lắm khi đặt câu hỏi này và nó thấy mình bị cà lăm.
“Biết chứ!” xê-nho Alvaro nở nụ cười nhiệt thành. “Gặp lại em vào thứ Sáu nhé, Charlie. Vào giờ thường lệ.”
“Dạ, thưa thầy.” Charlie rời phòng học.
Khi vừa đóng cánh cửa lớp của xê-nho Alvaro lại, nó bỗng cảm thấy hơi choáng váng. Chắc là do cái tối tăm của hành lang ập đến đột ngột ngay sau khi nó từ nơi sáng trưng ánh đèn trong phòng học nhạc ra. Nó nhắm mắt lại một thoáng, không ngờ một mảng xam xám ồ ạt lọt qua mí mắt nó – đó là biển cả và giữa cơn sóng nhồi màu xám có một chiếc thuyền nhỏ bập bềnh giữa những bọt sóng. Charlie hay thấy chiếc thuyền này trong tâm trí bất cứ khi nào nó nhớ đến ba mẹ, đang xem cá voi ở đâu đó ngoài biển. Nhưng hôm nay nó có thể nhận ra tên của chiếc thuyền ghi bên hông: Cánh Xám.
Charlie mở choàng mắt ra. Tại sao cái tên đó lại bất ngờ nảy ra trong đầu nó vậy? Có ai khác biết về nó? Ngoại Maisie của nó? Ông cậu Paton? Công ty xếp chuyến đi nghỉ xem cá voi cho ba mẹ nó?
“Charlie!”
Gabriel chạy băng băng trên hành lang ngay khi có chuông báo giờ ăn trưa. “Tụi mình nói chuyện bên ngoài, sau bữa trưa nha Charlie?”
”Sao không nói bây giờ?” Charlie hỏi.
“Tôi không thể giải thích. Quá phức tạp “
“Thì cứ hé một chút đi!”
“Là chuyện về Hiệp sĩ Đỏ.”
“Vậy thì em quan tâm thật sự rồi.” Charlie vội bươn vô tiền sảnh nơi thường ngày đông nghẹt học trò chạy tới các phòng để áo khoác: phòng xanh da trời dành cho bọn học trò khoa Nhạc, phòng màu tím cho tụi khoa Kịch và phòng màu xanh lá cây cho đám Mỹ thuật. Gabriel lượn lờ bên cạnh Charlie trong khi Charlie rửa tay, và cả hai cùng đi qua tiền sảnh tới Hành lang Chân dung về hướng căn-tin xanh da trời. Khi chúng đi qua Ashkelan Kapaldi, Gabriel hất đầu vô bức chân dung và thì thào, “Hôm nay anh đã trông thấy hắn.”
“Em nghĩ em thấy hắn vào lúc đêm hôm qua,” Charlie nói thầm lại.
Gabriel tròn mắt. “Chuyện gì xảy ra?”
Charlie nhún vai.
Fidelio đã xí hai chỗ dành cho chúng ở góc bàn. Trong khi chúng xơi mì ống macaroni với phó mát, Charlie cúi sát vô anh bạn và nói khẽ hết sức, mô tả tay kiếm sĩ mà cả nó lẫn Gabriel đã gặp bên ngoài bức chân dung.
“Đúng là tớ không nên ở vào tình cảnh mọi người,” Fidelio nhận xét, cười toét.
“Em nói như vậy nghĩa là sao?” Gabriel hỏi với giọng như bị xúc phạm. “Người đàn ông này không chủ đích đuổi theo tôi hay đuổi theo Charlie.”
“Xin lỗi,” Fidelio thường hay quên mất là Gabriel Silk rất dễ giận hờn. “Nhưng cả hai người đều được ban phép thuật, Gabe à. Những bọn lập dị đó luôn theo đuổi những người như anh và Charlie, cho nên ít nhiều gì bọn chúng cũng để yên cho những người bình thuờng như em.”
Gabriel đành phải thừa nhận rằng điều ấy là đúng. Cậu nhận ra mình sẽ phải thổ lộ chuyện riêng với thằng bé này cũng như với Charlie. Chúng là bạn thân luôn luôn cặp kè nhau trong giờ nghỉ giải lao mà.
Sau bữa trưa ba thằng bé chạy bộ quanh sân. Tiết trời một ngày tháng Ba ảm đạm, bầu trời chỉ là một bức màn xám xịt, phả không khí lạnh thấm trộm vô tận trong xương người ta. Bọn học sinh lớp sáu được phép ở trong nhà, nhưng số còn lại, gần ba trăm đứa trẻ từ tám đến mười sáu tuổi đang cố làm đủ mọi cách để giữ ấm.
Vài đứa con trai đang uể oải chơi trò hơi giống như trò đá bóng, những đứa khác tích cực vận động theo phong cách thể thao hạng nặng, tuy nhiên cũng có nhiều đứa đang tập thể dục kiểu thông thường, dưới sự điều khiển của một thủ lĩnh sân chơi giàu nhiệt huyết tên là Simon Hawke.
Hầu hết bọn con gái đi thành từng cặp hoặc từng nhóm đông. Đứa nào đó giương cao cây dù, cho dù trời mưa không hơn một màn sương ẩm là bao. Cánh dù sặc sỡ, in những con bướm màu đỏ và màu vàng. Đứa con gái ở bên dưới cây dù nhuộm mái đầu gần như trắng toát và mặc áo khoác đỏ chói. Con nhỏ giơ cây dù lên cao đủ che được cái đầu của một anh người Phi châu cao thật cao.
Phải đó là Lysander?” Gabriel chỉ cái anh ở bên dưới tán dù.
“Chắc chắn,” Fidelio nói. “Còn cô bé kia là ai?”
“Chưa gặp cô ấy bao giờ,” Charlie nói.
Đứa con gái quay mặt về phía chúng và Charlie nhận ra đó là Olivia Vertigo. Trước đây nó chưa bao giờ thấy con nhỏ nhuộm tóc màu nhạt. Màu tóc con nhỏ thay đổi xoành xoạch từ tím sang xanh lá cây rồi xanh dương – con nhỏ thậm chí đã nhuộm tóc sọc vằn rồi, nhưng màu trắng thì chưa hề. Nó lấy làm lạ tại sao con nhỏ và Lysander lại đi chung với nhau. Cả hai cùng được ban phép thuật nhưng lại có rất ít điểm chung. Sau rồi nó sực nhớ ra cả hai người bạn thân nhất của họ đều không ở trường. Lysander hiếm khi đi tách rời Tancred Torsson trong khi Olivia và Eirưna hầu như lúc nào cũng như hình với bóng.
Charlie vẫy Olivia và con nhỏ đâm bổ tới liền, làm vướng cái đầu của Lysander vô cây dù. “Ối!” anh thét lên. Olivia vỗ vỗ bàn tay vào người anh với ý xin lỗi rồi chạy huỳnh huỵch qua bãi cỏ trong đôi giày ống đỏ chói, mũi gắn lông chim. Lysander đứng ngó quanh một thoáng tìm bạn đồng hành khác, nhưng không thấy ai, anh bèn đi theo Olivia tới nhập bọn với đám tụi Charlie.
Gabriel rên rỉ. Bây giờ cậu phải kể chuyện cho nhưng bốn người, thay vì một. Câu chuyện đó chỉ là một sự việc rất nhỏ thôi, có thể chẳng có nghĩa gì mà cũng có thể là tất cả. Cậu không muốn khoa trương kiểu như thế này, thật ra cậu quyết định sẽ không kể cho ai nghe nữa, bởi vì sự việc cậu đã trông thấy xem ra chả quan trọng. Chắc tại tâm trí cậu đã phóng đại tầm quan trọng của nó đấy thôi.
“Tụi này đang bàn luận về quán cà phê Thú Kiểng,” Olivia nói, sốt sắng cụp cái dù của nó lại, “Và anh… biết… ai.” Con nhỏ liếc nhìn Lysander.
“Suỵt!” Lysander ngoái nhìn qua vai khi chị em sinh đôi nhà Branko từ đằng sau sắp đi ngang qua bọn chúng.
Chị em sinh đôi nhà Branko giờ đang lởn vởn trong tầm nghe. Bộ mặt chúng mang vẻ nhợt nhạt, vô hồn, với mảng tóc đen bóng, ngang xoẹt chạm tới lớp lông mi đen, rậm. Và đôi mắt bên dưới lớp lông mi đen đó thì thật tối tăm và bí hiểm. Nếu chị em sinh đôi này chỉ cần đánh hơi phong phanh rằng Tancred còn sống, tức thì chúng sẽ tâu thẳng cái tin này tới tai Manfred, như thế không chừng sẽ có tai họa xảy ra chứ chẳng chơi. Gia đình Bloor sẽ điên cuồng về sự sống sót của anh được giữ bí mật, và biết đâu, rất có thể Dagbert sẽ cố gắng kết liễu mạng sống của Tancred lần thứ hai.
“Tụi mình tới kia đi,” Lysander đề nghị, gật đầu tới bức tường cổ ở cuối sân chơi.
Những bức tường đỏ cao sừng sững bao quanh lâu đài được chính Vua Đỏ xây dựng từ chín trăm năm trước. Có thời nó đã là một tòa nhà nguy nga tráng lệ, nhưng ngày nay nó phơi mình trong đống hoang tàn, bên những bức tường dày, bị sụp phần lớn, sàn nhà lát đá phiến mọc đầy rêu và cỏ dại, mái nhà nghiêng đổ và những thanh rầm vững chắc một thời giờ bị nấm mốc mục rữa. Nhưng ở bên trong lối vào thênh thang hình vòng cung là một cái sân gạch có hàng rào dày đặc bao quanh, nhìn ra lối vào đó là năm ô cổng tò vò nhỏ hơn cổng nào cũng dẫn vô lâu đài. Bốn cổng trông như miệng của những đường hầm tối. Chỉ có một cái ngó ra ngọn đồi xanh ngắt đằng xa.
“Ở đây đầy mùi hôi mốc,” Olivia phàn nàn. Con nhỏ ngồi xuống một trong những băng ghế đá đặt giữa các cổng vòm.
Bọn còn lại túm tụm quanh con nhỏ, nhưng Fidelio thình lình bật dậy, chạy ù ra lối đi. Nó đứng bên dưới cổng vòm, chỗ có thể nhìn rõ toàn cảnh ngôi truờng, “Không muốn có kẻ rình mò,” nó giải thích.
Bỗng một tiếng khịt, đục ngầu phọt từ dưới gầm chiếc ghế đá bên cạnh chúng. Tất cả trố mắt dòm cho tới khi một cái cẳng thò ra, tiếp đến là một con chó mũi dài, béo ị, chân ngắn ngủn.
“May Phúc!” chúng đồng thanh kêu lên.
Olivia bịt mũi. “Đáng ra tớ phải biết chó.”
“Nó không thể tránh bốc mùi mà,” Gabriel trách cứ con nhỏ.
“Trông nó thảm não chưa kìa,” Charlie nói. “Em chắc chắn là nó nhớ Billy đó.”
Nghe nhắc đến tên Billy, May Phúc lạch bạch đi về phía Charlie, ngúng ngoắng vẫy cái đuôi trụi lủi. Charlie vuốt cái đầu tròn ủm của con chó, bảo, “Billy sẽ trở về, May Phúc à, tao hứa với mày đó.”
Con chó ư ử vài tiếng rồi núng nính đi qua cổng vòm, biến mất.
“Em sẽ làm thế nào để giữ được lời hứa, hả Charlie?” Gabriel nói. “Billy thậm chí còn không muốn trở về.”
“Nó sẽ về.” Charlie nhìn thẳng vô Gabriel, nói vói vẻ châm chọc. “Anh muốn nói cho tụi này điều gì đó mà, Gabe.”
Gabriel nhăn mặt. “Tôi nói cho cậu, Charlie, không phải tất cả mọi người.”
“Bọn này đâu phải tất cả mọi người, Gabe.” Olivia thúc cùi chỏ vô hông Gabriel. “Hay là một chuyện rất, rất riêng tư?”
Gabriel khổ sở ngọ nguậy trên băng ghế đá lạnh ngắt. “Không riêng tư. Tôi nghĩ nó làm cho ta, cũng như bất cứ ai đuợc ban phép thuật, phải lo lắng.”
“Kể đi, Gabe. Anh không thể chịu nổi sự lấp lửng,” Lysander giục.
Gabriel nhìn chằm chặp vô hai bàn tay nó hơn là nhìn vô mắt ai. “Đó là về Hiệp sĩ Đỏ,” cậu lầm bầm.
Không đứa nào nói gì. Cứ như Gabriel vừa tung một nhát bùa vô làn không khí giá lạnh. Cậu ngước lên và thấy cả bọn đang nhìn mình rất nghiêm túc.
“Ông ấy thì sao?” Charlie hỏi, với vẻ cố kìm nén trong giọng nói.
“Tôi nghĩ chỉ có em là người duy nhất đã nhìn thấy ngài ấy,” Gabriel nói, kéo dài thời gian.
“Em đã trông thấy ngài rồi,” Olivia lẳng lặng bảo.
“Ô, à, tôi quên mất.” Gabriel hiếm khi thấy vẻ háo hức như vậy trên mặt Olivia. Điều đó khuyến khích cậu “Như mọi người biết đấy,” cậu tiếp, “gia đình tôi được thừa kế tấm áo chùng của Vua Đỏ. Nó được giữ trong chiếc rương dưới giường ngủ của ba tôi, như trước kia tôi đã kể cho mọi người rồi, tấm áo chùng đó đã biến mất trước khi hiệp sĩ được trông thấy.”
Charlie gật đầu. “Ngài đã ở trên cây cầu sắt, cứu Liv và em khỏi chết đuối. Ngài đã cứu em những hai lần.”
“Tấm áo chùng đó bay quanh người của ngài như là một đám mây màu đỏ,” Olivia nói, điệu đàng ra bộ bằng cánh tay, “nhưng tụi em không thể trông thấy mặt ngài bởi vì ngài đội mũ giáp và đeo kính bảo vệ. Tụi em đã tưởng đó chính là Vua Đỏ, hoặc hồn ma của ngài.”
“Không phải,” Gabriel nói. “Không phải đâu. Tôi đã suy đi nghĩ lại hoài về điều đó. Nó cứ lấn cấn trong tâm trí tôi, buộc tôi phải cố nhớ từng chi tiết nhỏ…”
“Lẹ lên, Gabe,” Fidelio giục giã. “Có vài đứa rời sân chơi rồi. Sắp hết giờ giải lao bây giờ.”
Lời can thiệp của Fidelio khiến Gabriel đỏ chín mặt. Cậu nhăn mặt tập trung trong khi tụi kia chờ cậu nói tiếp.
“Vào một buổi sáng,” Gabriel bắt đầu. “Rất sớm, hầu như vẫn còn đêm khuya bỏi vì mặt trăng vẫn còn trên cao. Có gì đó đánh thức tôi dậy, tôi không biết đó là cái gì. Tôi đi ra cửa sổ xem có phải một con cáo mò lẻn vô và bắt gà nhà tôi đi không. Thế là tôi thấy bóng người đó ở trong sân nhà chúng tôi, dưới ánh trăng. Ông ấy mặc áo khoác ngắn có mũ trùm đầu, vì vậy tôi không trong rõ mặt ông. Tức cười là ba tôi cũng ở đó, đang nói chuyện với ông ấy, hạ thấp giọng, thật ra là nói thầm. Sau đó ba tôi trao cho người đàn ông đó một cái gói. Cái gói khá to, buộc dây cẩn thận. Và rồi người đó rời đi. Ông băng qua sân và khi ra tới cổng, ông vẫy tay với ba tôi lần nữa rồi đi khỏi. Ngày hôm sau tôi phát hiện tấm áo chùng đã biến mất, tôi nghĩ chắc chắn người đàn ông mặc áo khoác có mũ trùm đầu đã mang nó đi. Và nếu ba tôi trao nó cho ông ấy thì hẳn là ba tôi rất tin cậy ông.”
“Hoặc là ba của anh bị yểm một loại bùa nào đó,” Charlie lầu bầu.
“Chưa chắc đó là tấm áo chùng của nhà vua, Gabe à,” Lysander nói, đứng lên và phủi cái mông lạnh giá của mình. “Ý anh muốn nói là, chúng ta biết rằng ba của em chuyên viết truyện giật gân. Rất có thể đấy là một chồng bản thảo hay một bộ sách gì đó.”
Gabriel lắc đầu. “Đó là tấm áo chùng.”
“Điều gì khiến em chắc chắn vậy?” Lysander hỏi.
“Bởi vì có bà ngựa ở đó,” Gabriel nói, “Bà ngựa trắng. Hoàng hậu Berenice. Bà đang đứng bên kia hàng rào, chờ người đàn ông, cho dù ông ấy là ai.”
Cả bọn nhìn trao tráo vào Gabriel một hồi, sau đó Lysander bảo. “Đi thôi, tụi mình trở về thì hơn.”
Chúng rời mảnh sân gạch của lâu đài và bắt đầu chạy qua bãi cỏ về phía cửa trường. Ngay trước khi cả bọn vô tiền sảnh, Charlie hỏi, “Anh có hỏi ba anh về người lạ đó không, Gabe?”
“Ba tôi bảo là tôi đang mơ,” Gabriel đáp.