Dragan Armansky sinh ra ở Croatia năm mươi sáu năm trước. Bố ông là một người Mỹ gốc Do Thái ở Bạch Nga. Mẹ ông là người Bosnia Hồi giáo mang dòng máu Hy Lạp. Bà trông nom dạy dỗ đứa con, điều đó có nghĩa là khi trưởng thành nó sẽ hòa nhập vào cái tập quần rộng lớn, hỗn tạp mà giới truyền thông định nghĩa là Hồi giáo. Các nhà quản lý nhập cư của Thụy Điển khá kỳ quặc, đã đăng ký ông là người Sebria. Hộ chiếu xác nhận ông là công dân Thụy Điển còn ảnh hộ chiếu thì cho ra một khuôn mặt vuông, một quai hàm bạnh, âm thầm, hai thái dương muối tiêu. Ông vẫn được nhắc đến là “Người Ả Rập” tuy ông không có qua một giọt máu Ả Rập nào.
Ông nom hơi giống một trùm cướp địa phương đã thành khuôn mẫu của điện ảnh Mỹ nhưng trong thực tế ông lại là một giám đốc tài chính tài ba từng bắt đầu sự nghiệp là một nhân viên kế toán ở công ty An ninh Milton đầu những năm 70. Ba thập niên sau, ông tiến lên thành CEO và COO, những vai lãnh đạo cao nhất của công ty.
Ông đã bị công việc an ninh mê hoặc. Nó giống như trò chơi đánh trận vậy – nhận ra các mối đe dọa, phát triển các chiến lược phản công và luôn đi trước các gián điệp công nghiệp, những tay tống tiền và lũ trộm cướp một bước. Điều này bắt đầu có ở ông khi ông phát hiện ra rằng thông qua việc vào sổ sách có tính sáng tạo, người ta có thể lừa một khách hàng. Ông có thể chứng minh ai, ở trong một nhóm chục người, đang ở đằng sau vụ lừa đó. Ông đã được đề bạt và đóng vai trò then chốt trong sự phát triển của công ty và là một chuyên gia về gian lận tài chính. Mười lăm năm sau ông thành CEO, quan chức điều hành cao nhất. Ông đã biến công ty An ninh Milton thành một trong những hãng an ninh được tin cậy và lớn mạnh nhất của Thụy Điển.
Công ty có 380 nhân viên chính thức và 300 nhân viên khác làm tự do. So với Falck hay Dịch vụ Bảo vệ Thụy Điển thì là nhỏ. Khi Armansky mới đến, công ty có tên là Tổng Công ty An ninh của Johan Fredrik Milton và nó có một danh sách thân chủ gồm các trung tâm cửa hàng cần đến những nhân viên hướng dẫn khách và các vệ sĩ đầy cơ bắp. Dưới sự lãnh đạo của ông, nay hãng đã là An ninh Milton được quốc tế thừa nhận và đã đầu tư vào công nghệ tiên tiến. Các bảo vệ viên đêm đã qua thời sung sức, những người sùng bái đồng phục và những sinh viên đại học làm thêm ban đêm đã được những người có tay nghề thật sự thay thế. Armansky thuê các cựu cảnh sát viên trưởng thành để phụ trách tác nghiệp, các nhà khoa học chính trị đi chuyên sâu vào khủng bố quốc tế và các chuyên gia trong việc bảo vệ cá nhân và trong gián điệp công nghiệp. Quan trọng hơn cả, ông đã thuê mướn các kỹ thuật viên viễn thông và chuyên viên IT, viễn thông quốc tế. Công ty chuyển từ Solna đến các văn phòng tối tân ở gần Slussen, tại trung tâm Stockholm.
Vào hồi đầu những năm 90, An ninh Milton đã được trang bị để cung cấp một đẳng cấp mới về an ninh dành cho một nhóm thân chủ đặc biệt, trước hết là những tập đoàn cỡ trung và những doanh nhân giàu có – các sao nhạc rock giàu xổi, các dân đầu cơ chứng khoán cùng các cha lắm tham vọng “.com”. Một phần hoạt động của công ty là cung cấp vệ sĩ bảo vệ và các giải pháp an ninh cho các hãng Thụy Điển ở nước ngoài, đặc biệt là ở Trung Đông. Khu vực làm ăn này của họ hiện chiếm tới 70 phần trăm doanh số của công ty. Dưới quyền của Armansky, doanh số đã từ khoảng bốn chục triệu curon một năm lên tới gần hai tỉ. Cung cấp an ninh là một kinh doanh ra tiền.
Công việc bảo vệ an ninh chia ra ở ba khu vực chính: tư vấn an ninh gồm có nhận diện các mối đe dọa tiềm ẩn, các nguy cơ xảy ra; các biện pháp chống trả thường là dính đến việc lắp đặt camera, báo động có trộm và hỏa hoạn, các cơ chế khóa điện tử và hệ thống IT; rồi bảo vệ cá nhân cho các cá nhân hay các công ty. Trong mười năm thị trường này đã phát triển gấp bốn mươi lần. Cuối cùng nổi lên một nhóm thân chủ mới: các bà các cô giàu có tìm kiếm bảo vệ phòng chống lại các bạn trai hay chồng cũ, hay các kẻ theo lén. Thêm vào, An ninh Milton đã dàn xếp để cộng tác với các hãng tương tự có tên tuổi ở Châu Âu và ở Mỹ. Công ty cũng trông coi an ninh cho nhiều vị khách quốc tế đến Thụy Điển, như một nữ diễn viên điện ảnh Mỹ đến quay một bộ phim ở Trollhattan trong hai tháng. Nhân viên của bà nhận thấy với danh tiếng của bà, cần có các vệ sĩ kèm bên bất cứ khi nào bà nổi hứng dạo bộ ở gần khách sạn.
Khu vực thứ tư, nhỏ hơn nhiều, chỉ chiếm một ít nhân viên, được gọi là PI hay P-In, theo tiếng lóng nội bộ là prinder, viết tắt của chữ personal investigations, điều tra cá nhân.
Nói chung Armansky không mết phần kinh doanh này lắm, vất vả và ít tiền. Nó cần óc phán đoán và kinh nghiệm của nhân viên hơn là vào kiến thức của họ về công nghệ viễn thông hay vào việc lắp đặt các máy móc kiểm soát theo dõi. Có thể chấp nhận các cuộc điều tra cá nhân khi chúng thuộc vấn đề thông tin về tín nhiệm, kiểm tra lý lịch trước khi thuê mướn hoặc điều tra những nghi ngờ rằng một vài nhân viên đã rò rỉ thông tin của công ty hay dính líu vào hoạt động phạm tội. Trong các trường hợp ấy, những người theo dõi cá nhân, pinders là một bộ phận không thể thiếu của hoạt động tác nghiệp. Nhưng các thân chủ kinh doanh của ông thường lại hay lôi kéo ông vào các vấn đề riêng tư có xu hướng dẫn đến các rắc rối không mong muốn. Tôi muốn biết con gái tôi đang ra ngoài với cái đồ bẩn thỉu nào… Tôi nghĩ vợ tôi không chung thủy…Cha này thì OK nhưng cha lại tụ bạ với đám xấu… Tôi bị tống tiền… Armansky thường thẳng thừng trả lời họ là không. Nếu đứa con gái đã trưởng thành thì nó có quyền ra ngoài với bất cứ thằng gớm ghiếc nào mà nó muốn chứ, còn không chung thủy, ông nghĩ đó là một thứ mà các ông chồng và các bà vợ cần tự mình giải quyết lấy. Nấp sau những yêu cầu đó là những cạm bẫy có thể dẫn tới tai tiếng và gây nên những vấn đề pháp lý cho An ninh Milton. Điều đó giải thích vì sao Dragan Armansky theo dõi ngặt nghèo các việc này, mặc dù tiền thu về chả được là bao.
Chủ đề sáng nay đúng là một vụ điều tra cá nhân như thế. Armansky vuốt thẳng nếp nhăn trên quần trước khi ngả người lại vào chiếc ghế thoải mái của mình. Ông ngờ vực liếc vào người đồng sự Lisbeth Salander trẻ hơn ông ba mươi hai tuổi. Đã tới hàng nghìn lần ông nghĩ rằng ở trong cái công ty an ninh danh tiếng này chả có ai mà nom lại lạc chỗ như cô gái này. Sự ngờ vực của ông vừa có căn cứ lại vừa không hợp lý. Trong con mắt Armansky, Salander rõ ràng là điều tra viên có khả năng nhất mà ông từng gặp trong tất cả những năm tháng làm công việc này của ông. Trong bốn năm làm cho ông, cô chưa hề một lần nào lóng ngóng trong công việc hay chỉ giao nộp có một bản báo cáo loàng xoàng.
Trái lại, các báo cáo của cô tự chúng đã nói lên đẳng cấp. Armansky tin chắc cô có một khả năng đặc biệt. Với các biên bản của cảnh sát, ai cũng có thể tìm ra thông tin về tín nhiệm hay làm một cuộc kiểm tra. Nhưng Salander có óc tưởng tượng và cô luôn trở về với một cái gì đó khác với điều ông chờ đợi. Sao cô ta làm được thế, ông không bao giờ hiểu. Đôi khi ông nghĩ khả năng thu thập thông tin của cô như là một ma thuật. Cô biết từ trong đến ngoài các văn kiện quan liêu. Trên hết như thể cô có khả năng nhập vào trong con người mà cô đang điều tra. Nếu có chút bẩn thỉu nào cần đào bới, cô sẽ nhào vào đó như một quả tên lửa đã được định vị.
Cô luôn có cái khả năng ấy, chả hiểu sao.
Người nào lọt vào tầm rađa của cô thì với hắn ta, các báo cáo của cô có thể là một tai hoạ. Armansky sẽ không bao giờ quên lần ông giao cho cô kiểm tra thường lệ một nghiên cứu viên trong ngành công nghiệp dược phẩm trước khi mua lại cổ phần trong công ty. Việc dự định làm một tuần nhưng đã phải kéo dài một thời gian. Sau bốn tuần lặng ngắt và nhiều nhắc nhở, mà cô ta cứ phớt lờ đi, Salander trở về với một báo cáo cho thấy rằng “nhân vật chính” trong chuyện là một người có quan hệ tình dục với trẻ con. Hắn đã hai lần mua tình dục của một cô gái điếm mười ba tuổi ở Tallinn, và có những biểu hiện cho thấy hắn đang quan tâm không lành mạnh đến con gái của người phụ nữ hắn đang sống cùng.
Salander có những thói quen đôi khi đưa Armansky đến mấp mé thất vọng. Trong trường hợp của gã quan hệ tình dục với trẻ con, cô không nhấc điện thoại gọi Armansky hay vào văn phòng của ông để nói chuyện với ông. Không, không cả lấy một lời cho biết bản báo cáo có thể chứa đựng vật liệu cháy nổ, cô để nó ở trên bàn giấy của ông vào một buổi tối, đúng lúc Armansky sắp nghỉ phép vào hôm sau. Ông chỉ đọc nó lúc tối khuya ấy, khi ông thư giãn với một chai vang ở trước chiếc tivi cùng với bà vợ tại biệt thự của họ ở Lidingo.
Như thường lệ, bản báo cáo gần như có sự chính xác của khoa học, với những chú thích, trích dẫn và nguồn tài liệu tra cứu. Mấy trang đầu tiên đưa ra bối cảnh, giáo dục, nghề nghiệp và tình hình tài chính của đối tượng. Phải đến trang 24, với cái giọng khô như ngói cô vẫn quen dùng, Salander mới thả quả bom về các chuyến đi đến Tallinn, rằng hắn sống ở Sollentuna và đi một chiếc Volvo xanh dương thẫm. Các dẫn chứng bằng tư liệu đã được cô gộp vào một phụ lục toàn diện và đầy đủ, gồm có cả các bức ảnh của cô gái mười ba tuổi đi cùng với đối tượng. Các bức ảnh chụp ở một hành lang khách sạn tại Tallinn và bàn tay đối tượng thọc vào trong áo thun cô gái. Salander đã dò tìm ra cô gái và cô gái đã cung cấp cho Salander câu chuyện kể có thu băng.
Bản báo cáo đúng là đã gây nên sự hỗn loạn mà Armansky muốn tránh. Trước hết ông phải nuốt mấy viên chống viêm loét mà bác sĩ kê đơn cho ông. Rồi ông gọi người khách để có một cuộc gặp khẩn chẳng vui vẻ gì. Cuối cùng, dù khách hàng phản đối dữ dội ông vẫn buộc phải chuyển tài liệu này sang cảnh sát. Như thế có nghĩa là An ninh Milton có cơ bị cuốn vào một mạng lưới rối tinh rối mù. Nếu bằng chứng của Salander không chính xác hay người kia được trắng án, công ty có cơ mắc vào một vụ kiện vu khống. Đó là một ác mộng.
Nhưng không phải việc Salander hờ hững đến ngạc nhiên về tình cảm ở công ty làm cho ông lấn cấn nhất. Hình ảnh của Milton là một hình ảnh về sự ổn định ở mức bảo thủ. Salander khớp vào bức tranh này thì cũng tựa như một con trâu rừng ở nơi trưng bày du thuyền. Nhà điều tra cỡ “sao” của Armansky là một cô gái chê cơm, xanh tái, tóc lởm chởm như bàn chông, mũi và mi mắt xỏ lỗ. Cô có một con ong vò vẽ dài cỡ hai centimét xăm ở cổ, một thòng lọng xăm ở quanh bắp tay trái và một cái nữa ở quanh cổ chân trái. Những dịp cô mặc áo trên rộng kiểu phồng như thùng đựng nước, Armansky còn nhìn thấy một con rồng xăm ở bả vai bên trái cô. Tóc cô vốn đỏ trời cho nhưng cô đem nhuộm nó đen như cánh quạ. Cô nom y hệt như vừa mới nhoi ra khỏi một bữa tiệc đập phá cả tuần liền với một băng những tay nhạc rock cứng.
Thực ra cô không có chuyện rối loạn về ăn uống, Armansky chắc chắn như thế. Trái lại cô xơi mọi thứ thực phẩm ăn liền. Đơn giản chỉ là giời sinh cô đã mảnh mai, xương nhỏ, tay chân thanh mảnh với hai bàn tay nhỏ, cổ tay bé và bộ ngực của con nít. Cô hai mươi tư nhưng đôi khi nom như mười bốn.
Cô có cái miệng rộng, mũi nhỏ và lưỡng quyền cao, nó cho cô cái vẻ gần như châu Á. Động tác cô nhanh và nguều ngào, nhưng khi cô ngồi vào bàn máy tính làm việc, hai tay cô lướt bay trên dàn phím. Gầy quá đáng, cô không thể lập nghiệp bằng làm người mẫu nhưng nếu được trang điểm chuẩn thì bộ mặt của cô lại có thể đưa cô lên bất cứ tấm bảng quảng cáo nào trên thế giới. Đôi khi cô bôi sáp môi đen và mặc dù các hình xăm, mặc dù mũi cùng mí mắt xỏ lỗ…, à đúng thế, cô vẫn hấp dẫn. Không thể giải thích nổi điều này.
Sự thực là những việc Salander làm cho Dragan Armansky là đáng ngạc nhiên. Cô không phải là kiểu phụ nữ ông muốn tiếp xúc theo lối thông thường.
Ông đã mướn cô hơi vu vơ. Holger Palmgren, một luật sư đã về hưu nhưng vẫn làm việc bán thời gian, trông nom công chuyện làm ăn cá nhân của ông già J.E.Milton, đã bảo với Armansky rằng Lisbeth Salander là một cô gái thông minh, ứng đối nhanh nhạy với “một thái độ khá rầy rà”. Palmgren kêu gọi ông cho cô ta một cơ may, điều mà Armansky đã hứa làm, trái với phán xét tốt hơn của ông. Palmgren là loại người nếu bị từ chối thì sẽ cố gắng gấp đôi, cho nên nói “ừ” phắt ngay với ông ta lại dễ hơn. Armansky biết Palmgren dành tâm trí cho những đứa trẻ bị lôi thôi rắc rối cùng các bất hạnh xã hội khác nhưng ông ta có óc phán đoán tốt.
Khi gặp cô gái, ông đã hối hận về quyết định mướn cô. Cô xem vẻ không chỉ có khó tính – trong mắt ông, cô gái chính là tinh túy của sự khó tính. Cô đã bị bung ra khỏi nhà trường và không được học cao hơn.
Mấy tháng đầu tiên cô làm chính thức, đúng, gần như tròn giờ. Cô thỉnh thoảng đáo qua văn phòng. Cô pha cà phê, đi ra bưu điện, trông nom việc sao chụp nhưng với cô thì giờ giấc văn phòng thông lệ hay các nề nếp lao động đều là đáng nguyền rủa. Mặt khác, cô có cái tài chọc giận các nhân viên khác. Người ta gọi cô là “cô gái có hai tế bào não” – một để thở và một để đứng. Cô không bao giờ nói về mình. Các đồng sự thử chuyện trò với cô ít khi nhận được lời đáp và đều sớm bỏ cuộc. Thái độ của cô không khuyến khích tình bạn lẫn lòng tin cậy, và cô nhanh chóng trở thành một người ngoài cuộc, lượn lờ trong các hành lang của Milton như một con mèo lạc. Nói chung cô được coi là một ca vô vọng.
Sau một tháng không có gì trừ rắc rối, Armansky cho mời cô, có ý định dứt khoát là để cô thôi. Cô nghe bản liệt kê của ông về các vi phạm của mình mà không hề phản đối, cả không hề nhếch cho lấy một téo lông mày. Cô đã không có “thái độ đúng đắn”, ông kết luận và sắp bảo rằng nếu cô tìm việc ở một hãng khác có thể sử dụng tốt hơn năng lực của cô thì chính lúc ấy cô cắt lời ông.
– Ông biết đấy, nếu ông chỉ muốn một nô lệ văn phòng thì ông có thể kiếm được ngay ở công ty cho mướn người làm tạm thời. Tôi có thể quản được bất cứ việc gì và bất cứ ai mà ông muốn, còn nếu ông không có cách nào sử dụng tôi tốt hơn là cho thôi việc thì ông là một người ngu.
Armasnky ngồi đực, sửng sốt và cáu, còn cô ta thì cứ tiếp tục nói như không.
– Ông có một người ở đây bỏ ba tuần ra viết một bản báo cáo hoàn toàn vô dụng về anh chàng nhiều tham vọng mà họ đang nghĩ tuyển cho cái công ty “.com” kia. Tối qua tôi sao chụp giúp anh ta cái của khỉ ấy và bây giờ tôi thấy nó nằm ở trên bàn giấy của ông.
Armansky đưa mắt vào bản báo cáo rồi ông cao giọng cho thay đổi không khí.
– Cô không được bảo đọc các báo cáo mật.
– Về hình thức thì không nhưng các nề nếp an ninh ở hãng của ông có một số thiếu sót. Theo chỉ thị của ông, anh ta cho là được tự tay sao chụp các thứ, nhưng hôm qua anh ta ném bản báo cáo cho tôi rồi bỏ ra quán bar. Bằng cách đó tôi cũng đã thấy bản báo cáo trước của anh ta ở căng tin.
– Cô đã làm gì?
– Bình tĩnh nào. Tôi để nó vào trong hộp thư điện tử của anh ta.
– Anh ta có cho cô mã khóa két tư liệu của anh ta không? – Armansky kinh hoàng.
– Không hẳn là cho; anh ta viết vào một mẩu giấy và lưu nó ở dưới bàn cùng với mật khẩu vào máy tính của anh ta. Nhưng vấn đề là khi giao cho một thám tử tư làm một cuộc điều tra có cá nhân vô tích sự thì chính là ông đã đùa. Anh ta bỏ mất sự thật là gã kia đã vay nợ để đánh bạc và hít cocain như một cái máy hút bụi. Hay bạn gái gã đã phải tìm cứu trợ ở trung tâm khủng hoảng của phụ nữ sau khi bị gã đánh cho tơi tả.
Armansky ngồi một hai phút giở các trang báo cáo. Nó được dựng lên bằng một tay có nghề, chữ nghĩa sáng sủa và chứa đầy nguồn gốc tham khảo cùng những xác nhận của bạn bè và chốn quen biết của đối tượng. Cuối cùng ông ngước mắt lên, nói gọn:
– Chứng minh xem nào!
– Tôi được bao nhiêu thời gian?
– Ba ngày. Nếu chiều thứ Sáu cô không chứng minh được lý lẽ của cô, cô bị sa thải.
Ba hôm sau cô nộp một bản báo cáo, cũng với các nguồn quy chiếu tương tự, đã biến mất anh chàng vui vẻ nhiều tham vọng hướng ngoại kia thành ra một tay tầm thường không thể tin cậy. Armansky đọc báo cáo của cô nhiều lần vào kỳ nghỉ cuối tuần và bỏ một phần ngày thứ Hai ra làm một cái việc không mặn mà lắm là kiểm tra hai chiều về một vài khẳng định của cô. Ngay cả khi chưa bắt đầu ông cũng đã biết thông tin của cô sẽ được chứng minh là chính xác.
Armansky lúng túng và cả giận dữ nữa với chính mình vì đã xét đoán sai cô gái. Ông đã cho cô là ngu ngốc, thậm chí trì độn. Ông không chờ đợi một cô gái từng bỏ nhiều lớp học đến nỗi không tốt nghiệp lại có thể viết một báo cáo đúng đến như thế về ngữ pháp. Nó cũng có những nhận xét và thông tin chi tiết và ông hoàn toàn không hiểu nổi làm sao cô gái lại có thể vớ được những sự việc như vậy.
Ông không thể tưởng tượng được một ai khác ở An ninh Milton lại có thể khoắng được các trích dẫn trong nhật ký mật của một bác sĩ ở trung tâm khủng khoảng của một phụ nữ. Khi ông hỏi cô làm thế nào xoay sở được chuyện đó, cô bảo ông rằng cô không có ý làm lộ các nguồn tin của cô. Hóa ra rõ ràng là Salander sẽ không đủ để cho ông cưỡng lại ý muốn thử sức cô.
Ông nghĩ về chuyện này mất vài ngày. Ông nhớ lại câu Holger Palmgren nói khi ông ta gửi cô gái đến cho ông: “Ai cũng đáng có cơ hội”. Ông nghĩ đến những tư tưởng Hồi giáo đã nuôi dưỡng mình, nó dạy ông rằng nghĩa vụ của ông với Chúa là giúp đỡ nuôi dưỡng người bị hắt hủi ruồng bỏ. Dĩ nhiên ông không tin có Chúa và chưa từng vào nhà thờ Hồi giáo từ lúc chưa tới tuổi hai mươi nhưng ông thừa nhận Lisbeth Salander là một người đang cần sự giúp đỡ dứt điểm. Vài chục năm qua ông đã không làm được nhiều theo các đường lối này.
Thay vì đá Salander đi, ông lại triệu cô đến một cuộc họp trong đó ông cố tìm ra cái gì đã làm cho cô gái khó tính này thành ra khó chơi. Cảm tưởng của ông đã được xác nhận rằng cô từng khổ sở vì một vài vấn đề tình cảm, nhưng ông cũng phát hiện ra một bộ óc thông minh khác thường ở đằng sau bề ngoài sưng sỉa của cô. Ông thấy cô ta gai góc và khó xài nhưng ông cũng rất ngạc nhiên là ông bắt đầu thích cô.
Các tháng tiếp theo đó Armansky đặt Salander dưới sự che chở của mình. Thật ra ông nhận thuê cô làm một dự án xã hội nho nhỏ. Ông cho cô những nhiệm vụ tìm kiếm không khó khăn và cố cho cô những chỉ dẫn về cách thức tiến hành. Cô sẽ kiên nhẫn nghe ông rồi bắt tay làm cái việc ông giao phó đúng như cách cô thấy là thích hợp. Ông yêu cầu giám đốc kỹ thuật của Milton cho cô học lớp cơ bản về khoa học Viễn thông Quốc tế. Họ ngồi với nhau hết cả buổi chiều cho đến khi ông được báo cáo lại rằng xem chừng về máy tính cô ta hiểu biết tốt hơn so với phần lớn người ở trong văn phòng.
Nhưng bất chấp các cuộc thảo luận về phát triển, các lời mời huấn luyện tại nhà và các hình thức lôi kéo khác, Salander rõ ràng là không có ý áp dụng các nề nếp văn phòng của Milton. Điều này đặt Armansky vào một cảnh khó xử.
Ông sẽ không chịu được bất cứ nhân viên nào tùy tiện đến và đi, trong các hoàn cảnh bình thường chắc ông đã yêu cầu cô gái sửa đổi hay biến. Nhưng ông linh cảm thấy rằng nếu ông cho Salander một tối hậu thư hay dọa sa thải thì cô sẽ đơn giản nhún vai một cái và đi liền.
Vấn đề nghiêm trọng hơn là ông không biết chắc được cả tình cảm của bản thân ông đối với cô gái trẻ kia nữa. Cô như một ám ảnh lẵng nhẵng, đẩy ra mà đồng thời cám dỗ. Đây không phải là một sức hút tính dục, ít ra thì ông không nghĩ như thế. Những phụ nữ ông bị hút đến đều là tóc vàng, đầy đường cong, môi mọng, khiến cho các tưởng tượng của ông được khơi dậy. Ngoài ra ông đã cưới làm vợ trong hai chục năm, một phụ nữ Thụy Điển có tên là Riva và bà vẫn thừa thỏa mãn các đòi hỏi này. Ông chưa bao giờ không trung thành, thực ra… một cái gì đó có thể đã chỉ một lần xảy ra và vợ ông mà biết thì có thể sẽ hiểu lầm. Nhưng cuộc hôn nhân hạnh phúc và ông có hai cô con gái bằng tuổi Salander. Với lại ông không thiết các cô gái ngực lép, nhìn ở xa, họ có thể bị lầm ra là những cậu con trai xương xẩu. Đây không phải là phong cách của ông.
Dù thế ông cũng đã bắt gặp mình có những phút lơ tơ mơ ấm ớ về Lisbeth Salnder và ông cũng thừa nhận rằng ông không phải là hoàn toàn không bị cô gái tác động đến. Nhưng ông nghĩ hấp dẫn này là do bởi Salander là một người lạ lẫm với ông. Ông cũng có thể đem lòng yêu một một bức tranh tiên nữ hay một chiếc vò hai quai Hy Lạp lắm chứ. Salander tiêu biểu cho một cuộc đời không thực tại với ông, nó mê hoặc ông tuy ông không thể chia sẻ nó – và bất luận thế nào thì cô gái cũng không cho phép ông chia sẻ.
Một lần Armansky đang ngồi ở một quán cà phê trên đường Stortorget ở Gamla Stan thì Salander lửng khửng đi đến, ngồi vào một cái bàn cách đấy một ít. Cô đi với ba cô gái và một con trai, tất cả cùng một kiểu ăn mặc rất giống nhau. Armansky đã thích thú ngắm nhìn cô. Cô xem ra vẫn ý tứ như lúc ở sở nhưng cô gần như đã thật sự cười với câu chuyện một cô gái trong bọn kể, một cô gái có bộ tóc màu tím.
Armansky thầm hỏi cô gái sẽ phản ứng thế nào nếu một hôm ông đến làm việc với một bộ tóc màu xanh lá cây, quần jean cũ nát, một chiếc jacket da phủ đầy đinh tán và những dòng chữ nhăng nhít. Chắc cô sẽ chỉ hạ cố cười thông cảm với ông.
Cô ngồi quay lưng lại ông và không ngó quanh lần nào, rõ ràng không biết ông đang ở đó. Ông cảm thấy mình đã bối rối vô cùng trước việc cô gái có mặt ở đấy. Cuối cùng khi ông đứng lên định lẻn ra tránh bị lộ thì thình lình cô quay lại và nhìn thẳng vào ông, tựa hồ suốt thời gian qua cô biết ông ngồi ở đó và đã cho ông lọt vào tầm rada của cô. Con mắt cô nhìn quá ư ngạc nhiên đến nỗi ông cảm thấy nó giống như một đòn đánh. Làm như không nhìn thấy cô, ông vội vã rời quán cà phê. Cô chả chào lấy một lời nhưng đôi mắt theo ông, ông tin là thế, và chỉ đến khi ông rẽ ở góc nhà rồi thì chúng mới thiêu đốt gáy ông.
Cô ít cười thành tiếng. Nhưng dần dà Armansky nghĩ ông nhận thấy thái độ cô có mềm đi. Cô có tính hài hước tỉnh khô, nói cho nhẹ đi là cô có thể làm cho ta bật cười giễu cợt.
Cảm thấy quá bị khiêu khích bởi việc cô gái thiếu đáp ứng xúc cảm, đôi phen ông đã muốn nắm lấy cô mà lắc. Phá lấy một lối lọt qua vỏ bọc của cô và giành lấy tình bạn hay ít nhất sự tôn trọng của cô.
Chỉ một lần, sau khi cô gái làm việc cho ông đã được chín tháng ông mới thử bàn về các cảm giác này với cô. Đó là vào một tối tháng Mười hai trong bữa tiệc Noel của An ninh Milton, và chí ít ông đã một lần uống rượu. Không xảy ra chuyện gì không phải cả – chỉ là ông cố bảo cô rằng ông thật lòng mến cô. Ông muốn giải thích một chút rằng ông muốn che chở cho cô và nếu từ nay cô cần giúp đỡ về bất cứ chuyện gì cô nên đến với ông đừng ngại. Ông còn thử ôm cô. Dĩ nhiên hoàn toàn là tình bè bạn.
Cô đã vặn người tránh cái ôm lóng ngóng của ông rồi rời bữa tiệc. Sau đó cô không đến sở, không trả lời điện thoại di động. Ông đã cảm nhận việc cô vắng mặt này như một tra tấn – gần như một kiểu trừng phạt cá nhân. Ông không có ai để bàn luận về cảm xúc của ông và lần đầu tiên trong đời ông kinh hoàng nhận thấy cô có sức nắm giữ ông dữ dội đến thế nào.
Ba tuần sau, một buổi tối khi Armansky đang làm việc muộn chuẩn bị cho việc vào sổ sách cuối năm thì Salander lại xuất hiện. Êm như một bóng ma, cô vào văn phòng ông và ông nhận ra cô đang đứng trong bóng tối bên trong khung cửa ra vào nhìn ông. Ông không biết cô ở đấy đã bao lâu.
– Ông muốn cà phê không? – cô gái hỏi.
Cô đưa cho ông một tách lấy từ máy cà phê espresso trong căng tin. Nín lặng ông nhận lấy, cảm thấy vừa nhẹ người lại vừa kinh sợ khi cô lấy chân hất cánh cửa đóng lại. Cô ngồi xuống trước mặt ông và nhìn thẳng vào mắt ông. Rồi cô hỏi với một với một cái cách mà ta không thể cười xòa cho qua hay lảng tránh.
– Dragan, ông đã bị tôi hấp dẫn rồi ư?
Armansky ngồi như tê liệt, trong khi tuyệt vọng nghĩ trả lời với cô thế nào đây. Phản ứng đầu tiên của ông là cho rằng mình đã bị lăng mạ. Rồi ông nhìn thấy vẻ mặt cô và ông bỗng thấy ra rằng đây là lần đầu tiên cô thốt ra một câu hỏi có tính riêng tư như thế. Nó có ý nghiêm túc và nếu ông thử cười xòa với nó thì cô sẽ coi như đó là một xúc phạm. Cô muốn nói chuyện với ông và ông nghĩ cô đã phải mất bao thời gian để lấy can đảm mà hỏi câu đó. Ông thong thả buông bút xuống, ngả người vào lưng ghế. Cuối cùng ông nhẹ nhõm.
– Điều gì làm cô nghĩ như thế? – ông nói.
– Cách ông nhìn tôi, cách ông không nhìn tôi. Và những lần ông sắp giơ tay ra chạm vào tôi nhưng ông lại dừng lại.
Ông mỉm cười với cô gái:
– Tôi thừa nhận rằng nếu tôi đặt một ngón tay lên người cô thì cô sẽ cắn đứt ngón tay tôi.
Cô không cười, cô đang chờ.
– Lisberth, tôi là ông chủ của cô và nếu như tôi có bị cô hấp dẫn thì tôi cũng không bao giờ hành động theo nó.
Cô vẫn chờ.
– Giữa chúng ta – đã có những lúc tôi cảm thấy bị cô hấp dẫn, đúng. Tôi không thể giải thích được chuyện đó nhưng có chuyện như thế đấy. Vì một vài lý do nào đó mà tôi thật sự không hiểu, tôi rất mến cô. Nhưng đó không phải là chuyện xác thịt.
– Thế thì tốt. Bởi vì cái đó sẽ không bao giờ xảy ra.
Armansky cười to lên. Lần đầu tiên cô nói ra một điều gì đó riêng tư thì đó là cái tin làm tan nát tim gan nhất mà một người đàn ông có thể hình dung ra rằng mình sẽ nhận được. Ông loay hoay tìm từ ngữ cho chính xác.
– Lisbeth tôi biết cô không thích một người đàn ông tuổi đã năm mươi cộng.
– Tôi không thích một người đàn ông năm mươi tuổi cộng mà lại là ông chủ của tôi – Cô giơ một tay lên. – Khoan, để tôi nói. Đôi khi ông ngốc ngếch và quan liêu đến phát bực nhưng ông là một người đàn ông hấp dẫn thật, và… tôi cũng có thể cảm thấy… Nhưng ông là ông chủ của tôi, tôi đã gặp vợ ông và tôi muốn giữ lấy việc làm với ông. Cái điều ngu nhất mà tôi có thể làm là để cho dính phải với ông.
Armansky không nói năng, thở cũng không dám.
– Tôi biết những điều ông làm cho tôi và tôi không vô ơn. Để cho tôi có cơ hội ở đây, ông đúng là đã phải vượt lên tất cả các định kiến của ông và tôi đánh giá cao ông ở điểm đó. Nhưng tôi không muốn ông là người tình của tôi, và cũng không phải bố tôi.
Một lát sau. Armansky đành thở dài, hết lẽ:
– Chính xác ra cô muốn gì ở tôi?
– Tôi muốn tiếp tục làm việc cho ông. Nếu ông thấy điều đó là được với ông.
Ông gật đầu, và hết sức thân tình hỏi cô:
– Tôi thật lòng muốn cô làm việc với tôi. Nhưng tôi cũng muốn thấy một kiểu tình bạn nào đó và cô hãy tin ở tôi.
Cô gái gật đầu.
– Cô không phải là người duy nhất khuyến khích tình bạn, – ông nói. Cô có vẻ nhượng bộ nhưng ông nói tiếp. – Tôi biết cô không muốn bất cứ ai can thiệp vào đời cô và tôi sẽ cố không làm chuyện đó. Nhưng nếu tôi tiếp tục mến cô thì vẫn cứ ổn chứ?
Salander nghĩ một lúc. Rồi để trả lời cô đứng lên, đi vòng qua bàn làm việc, ôm ông. Ông hoàn toàn bị chấn động. Chỉ khi cô buông ông ra ông mới cầm lấy tay cô.
– Chúng ta là bạn được chứ?
Cô gái gật một cái.
Đó là lần duy nhất cô cho ông thấy một sự trìu mến nào đó và lần duy nhất cô đụng đến người ông. Đó là giây phút Armansky sung sướng nhớ lại.
Sau bốn năm cô vẫn khó hạ cố lộ ra một chi tiết về đời tư hay quá khứ của cô với Armansky. Một lần ông áp dụng với cô kiến thức của chính ông về nghệ thuật pinder. Ông cũng đã trò chuyện lâu với Holger Palmgren – ông ta có vẻ không ngạc nhiên khi thấy ông đến – và cuối cùng các điều ông tìm ra cũng không làm tăng thêm lòng tin của ông với cô. Ông không hề nhắc một lời nào về chuyện này với cô hay để cho cô biết ông đã nhòm ngó vào đời cô. Thay vì thế, ông đem giấu nỗi canh cánh đi và thao thức nhiều thêm.
Trước khi kết thúc buổi tối kỳ lạ đó, Armansky và Salander đã đi đến một thỏa thuận. Trong tương lai cô sẽ làm các dự án nghiên cứu cho ông với điều kiện là một người tự do. Có nhiệm vụ hay không cô vẫn nhận được một thu nhập nho nhỏ hàng tháng. Khi được trả theo nhiệm vụ cô mới kiếm ra tiền thật sự. Cô có thể làm việc theo cung cách cô thích; đáp lại, cô cam đoan không làm bất cứ một chuyện gì có thể khiến ông bối rối hay có cơ đem lại tai tiếng cho An ninh Milton.
Với Armansky thì đây là một giải pháp có lợi cho ông, cho công ty và cho bản thân Salander. Ông cắt bộ phận PI nhiễu sự xuống còn một nhân viên chính thức, một đồng sự nhiều tuổi hơn nắm hoàn hảo các công việc đã thành nếp sẽ trông nom các cuộc kiểm tra về tín nhiệm. Mọi nhiệm vụ phức tạp và đòi mánh múng ông chuyển lại hết cho Salander và một vài người làm tự do mà – như phương sách cuối cùng – là những người ký hợp đồng độc lập do đó An ninh Milton không thật sự phải gánh trách nhiệm. Do ông hay trao việc, cô kiếm được kha khá lương. Lương có thể cao hơn nữa nhưng Salander lại chỉ nhận việc gì mà cô thích.
Cô gái thế nào thì Armansky tiếp nhận cô thế nấy nhưng cô không được phép gặp các thân chủ. Việc giao cho cô hôm nay là một ngoại lệ.
Hôm làm việc ấy Salander mặc một cái áo thun có hình một người ngoài trái đất có nanh và dòng chữ TÔI CŨNG LÀ NGƯỜI NGOÀI TRÁI ĐẤT. Ngoài chiếc váy đen gấu bị mài cho bợt xơ đi, cô mặc một cái jacket da đen dài lưng lửng đã cũ, thắt lưng đinh tán, đôi bốt Doc Marten nặng trịch có sọc ngang, tất xanh và đỏ cao đến đầu gối. Cô trang điểm bằng một phối màu cho thấy là cô có thể bị bệnh mù màu. Nói cách khác là cô làm đẹp khác với đời.
Armansky thở dài, chuyển mắt sang người khách ăn mặc lối bảo thủ với cặp kính dầy cộp. Dirch Frode, một luật sư, đã nài được gặp nhân viên chuẩn bị bản báo cáo để đặt câu hỏi. Armansky đã lịch sự làm mọi cái mà ông có thể để tránh cuộc gặp, rằng Salander bị cảm, đã đi xa hay là đang sa vào công chuyện khác. Ông luật sư bình tĩnh đáp lại rằng không sao – việc không khẩn cấp và ông có thể chờ vài ba hôm. Cuối cùng thì không sao tránh được việc hai người gặp nhau. Bây giờ Frode, nom có vẻ đẫ đến cuối lục tuần, đang nhìn lại, vẻ mặt không cho ra thấy một chút cảm xúc ấm áp nào.
Armansky thờ dài, nhìn một lần nữa vào tập hồ sơ cô gái để ở trên bàn ông có đề CARL MIKAEL BLOMKVIST. Sau tên người có con số bảo hiểm xã hội, in rõ ràng ở bìa. Ông đọc to cái tên lên. Ngài Frode vụt tỉnh khỏi cơn mê, quay lại Armansky.
– Vậy ông có thể nói gì về Mikael Blomkvist cho tôi?
– Đây là cô Salander, người chuẩn bị bản báo cáo. – Armansky ngập ngừng một giây rồi mỉm cười tiếp theo, nụ cười dụng ý gây tin cậy nhưng lại có vẻ như là đã hết cách nên đành ân hận vậy. – Đừng bị tuổi trẻ của cô Salander đánh lừa. Cô ấy thực sự là điều tra viên tốt nhất của chúng tôi.
– Tôi đinh ninh như thế, – Frode nói, giọng khô khốc gợi đến điều ngược lại. – Xin cho biết cô đây đã tìm thấy những gì.
Rõ ràng Frode không biết nên cư xử với salander như thế nào. Để gỡ ra. Ông hướng câu hỏi vào Armansky, làm như không có cô gái ở trong phòng. Salander thì thổi kẹo cao su trong miệng thành một quả bong bóng to tướng. Armansky chưa kịp trả lời, cô đã nói:
– Ông có thể hỏi thân chủ xem ông ấy thích bản ngắn hay bản dài?
Một im lặng ngắn ngủn, bối rối rồi cuối cùng Frode quay sang Salander, cố vớt vát lại bằng một giọng thân mật, cha chú:
– Tôi sẽ cảm ơn nếu tiểu thư cho tôi một tóm tắt về các kết quả.
Trong một thoáng vẻ mặt cô gái chợt thù nghịch đến ngạc nhiên khiến cho Frode thấy lạnh xương sống. Rồi vẻ mặt cô mềm đi rất nhanh và Frode nghĩ liệu cái nhìn vừa rồi ở cô có phải là ông tưởng tượng ra hay không. Khi bắt đầu lên tiếng, cô nói, nghe như một viên chức nhà nước:
– Trước hết cho phép tôi nói rằng đây không phải là nhiệm vụ rất phức tạp, trừ việc miêu tả công việc trao cho tôi thì vì lẽ nào đó đã không được rõ ràng. Ông muốn biết “mọi cái có thể đào bới lên” về anh ta nhưng không cho hay rằng liệu ông có đang đặc biệt tìm kiếm một cái gì đó không. Vì thế nó là một bản chắp vá về đời của anh ta. Bản báo cáo dài 193 trang, nhưng 120 trang là sao lại các bài báo anh ta đã viết hay những cắt dán báo chí. Blomkvist là một người của công chúng và anh ta khó có thể giữ được những bí mật của mình.
– Nhưng anh ta cũng có một vài bí mật chứ?
– Ai cũng có bí mật, – cô đáp lại, thái độ trung lập. – Đây chỉ là chuyện tìm ra bí mật là những gì?
– Chúng ta nghe đi nhỉ?
– Mikael Blomkvist sinh ngày 18 tháng Giêng năm 1960, như vậy là bốn mươi hai tuổi. Anh ta sinh ra ở Borlange nhưng không sống ở đấy bao giờ. Bố mẹ anh ta, Kurt và Anita Blomkvist sinh anh ta vào quãng ba mươi nhăm tuổi. Cả hai đều đã chết. Bố là kỹ sư lắp đặt máy lưu động làm ăn tốt. Mẹ anh ta như tôi có thể nhìn thấy thì chả làm gì ngoài nội trợ. Gia đình chuyển đến Stockholm khi Mikael bắt đầu đi học. Anh ta có cô em gái kém ba tuổi tên là Annika làm luật sư. Anh ta cũng có vài anh chị em họ. Ông có định mời cà phê không?
Câu sau cùng là nói với Armansky, ông vội bấm ba tách cà phê ở trong phích mà ông đã yêu cầu cho buổi gặp. Ông ra hiệu cho Salander tiếp tục.
– Vậy là năm 1966 gia đình sống ở Lilla Essingen. Blomkvist đầu tiên đi học ở Blomma rồi vào trường trung học cơ sở ở Kungsholmen. Anh ta có điểm học tốt – có các bản sao trong hồ sơ đây – trong lúc học trung học cơ sở, anh ta đã học nhạc và chơi guitar bass trong một ban nhạc rock tên là Bootstrap, ban nhạc duy nhất được chơi trên đài phát thanh mùa hè 1979. Sau trung học cơ sở anh ta làm người soát vé ở đường hầm, dành dụm được ít tiền ra nước ngoài. Anh ta đi một năm, phần lớn ngang dọc ở khu vực Châu Á – Ấn Độ, Thái Lan – rồi bùng xuống Úc. Anh ta bắt đầu học làm báo ở Stockholm lúc năm mốt tuổi nhưng được một năm thì đi nghĩa vụ quân sự, lính bộ binh ở Kiruna tại Lapland, rồi dời quân ngũ với điểm tốt. Sau nghĩa vụ quân sự, anh ta học nốt báo chí tới tốt nghiệp rồi làm việc ở ngành này từ đấy đến nay. Các ông muốn tôi chi tiết đến đâu?
– Cứ nói cái cô thấy là quan trọng.
– Anh ta đã xoay sở khá như Con lợn Tháo vát trong truyện cổ tích Ba chú lợn con. Cho đến nay anh ta là một nhà báo xuất sắc. Những năm 80 anh ta làm nhiều việc tạm, đầu tiên ở báo tỉnh rồi ở Stockholm. Có một danh sách đây. Anh ta đã đột phá với câu chuyện Băng Gấu – đám cướp ngân hàng bị anh ta nhận dạng.
– Kalle Blomkvist.
– Anh ta ghét cái biệt hiệu này, vì sao không rõ. Nếu ai đó gọi tôi là Pippi Tất dài 1 trên mặt báo thì tôi sẽ đánh cho vều môi.
Mắt cô tối sầm nhìn Armansky và ông không dễ nuốt nó. Đúng là nhiều lần ông đã nghĩ Salander là Pippi Tất dài. Ông vẫy tay bảo cô nói tiếp.
– Một nguồn tin nói rằng cho đến nay anh ta muốn làm một phóng viên điều tra – và anh ta đã làm như thế ở một tờ báo chiều. Nhưng anh ta trở nên nổi tiếng vì công việc mà anh ta làm là phóng viên về chính trị và tài chính. Ban đầu anh ta là người viết tự do, trong biên chế chính thức ở một tờ báo chiều vào cuối những năm 80. Năm 1990 anh ta bỏ đấy khi giúp khai trương tờ tạp chí tháng Millennium. Tờ tạp chí ban đầu là kẻ chầu rìa thật sự, không có bất cứ một công ty phát hành nào đỡ đần. Số lượng phát hành của nó tăng lên và nay là 21.000 bản mỗi tháng. Ban lãnh đạo ở Gotgatan cách đây vài khối nhà.
– Một tạp chí cánh tả.
– Cái này tùy theo ông định nghĩa như thế nào là khái niệm “cánh tả”. Nhìn chung Millennium được coi là phê phán xã hội nhưng tôi đoán một người vô chính phủ lại nghĩ nó là một tạp chí tư sản thối tha ba láp cùng một dòng với tờ Arena hay Ordfront, trong khi Hội liên hiệp Sinh viên Ôn hòa thì lại nghĩ các biên tập viên của nó đều là bônsêvích. Không gì cho thấy Blomkvist từng hoạt động chính trị tích cực, ngay cả trong phong trào cánh tả khi anh ta đang học ở trung học cơ sở. Trong khi anh ta nhảy vào trường Báo chí, anh ta sống với một cô gái lúc đó là người hoạt động tích cực trong Công đoàn và nay là đại diện của đảng cánh tả ngồi ở Nghị viện. Anh ta hình như có ưu tiên cho cánh tả hơn vì làm phóng viên tài chính, anh ta chuyên vào các việc tường thuật điều tra về tham nhũng và những vụ làm ăn bí mật của thế giới các tập đoàn. Anh ta đã có loạt bài vạch mặt những tay trùm công nghiệp và các nhà chính trị – mà phần lớn là xác đáng cả – dẫn đến một số vụ từ chức và chấn động pháp lý. Vụ được biết đến nhiều nhất là vụ Arboga, dẫn đến một nhà chính trị Bảo thủ buộc phải từ chức và một nguyên ủy viên hội đồng bị khép án một năm tù vì biển thủ. Việc kêu gọi chú ý đến các tội ác ít được coi là một chỉ dẫn cho thấy ai đó thuộc về cánh tả.
– Tôi hiểu ý cô. Còn gì khác?
– Anh ta đã viết hai quyển sách. Một về vụ Arboga và một về nghề viết báo tài chính có đầu đề là Các Hiệp sĩ dòng đạo Templar mới ra ba năm trước. Tôi chưa đọc nhưng qua các mục điểm sách thì hình như ý kiến trái ngược nhau. Nó làm nổ ra một cuộc tranh luận khá sôi nổi trên truyền thông.
– Tiền nong sao? – Frode hỏi.
– Anh ta không giàu nhưng không đói rạc. Có dính các bản khai thuế thu nhập ở bản báo cáo. Anh ta có khoảng 250.000 curon trong ngân hàng, ở cả quỹ hưu lẫn ở tài khoản tiết kiệm. Anh ta có một tài khoản khoảng 100.000 curon tiền mặt để cho các chi tiêu về công việc làm ăn, du lịch, vân vân. Anh ta sở hữu một căn hộ trong chung cư đã trả đủ – hơn 200 mét vuông ở Bellmansgatan – và anh ta không cho vay cũng không nợ nần. Anh ta có một tài sản nữa – một ít đất ở Sandhamn ngoài quần đảo. Đó là một ngôi nhà gỗ gần trăm mét vuông. Hệt như một cái lều mùa hè bên bờ nước, ở ngay chỗ hấp dẫn nhất của ngôi làng. Có vẻ như là một người chú bác của anh ta đã mua nó trong những năm 40 khi những kẻ trần tục còn có thể làm được chuyện đó, rồi cuối cùng căn nhà gỗ đến tay Blomkvist. Họ chia của cải và để cho cô em gái căn hộ của bố mẹ ở Lilla Essingern, Blomkvist được căn nhà gỗ. Tôi không biết bay đáng giá bao nhiêu – chắc chắn vài triệu – nhưng mặt khác anh ta hình như không muốn bán và anh ta thường hay đi ra Sandhamn.
– Thu nhập?
– Anh ta là đồng sở hữu ở Millennium nhưng anh ta chỉ lấy ra chừng 12.000 mỗi tháng coi như lương. Còn lại thì anh ta kiếm bằng viết tự do – tổng số thay đổi tùy. Ba năm trước anh ta vớ bẫm khi kiếm được khoảng 450.000. Năm ngoái anh ta chỉ làm được có 120.000 từ viết tự do.
– Anh ta phải trả 150.000 thuế cộng với phí luật sư v.v… – Frode nói. – Chúng ta hãy cho là số tiền đó khá cao. Anh ta cũng mất tiền trong khi thụ án tù.
– Như thế có nghĩa là anh ta sắp bị trắng tay, – Salander nói.
– Anh ta trung thực không?
– Có thể nói đó là cái vốn tín nhiệm của anh ta. Anh ta như là hình ảnh của người canh gác nền đạo đức chọi lại với thế giới kinh doanh. Anh ta thường được mời lên nói trên tivi.
– Sau tuyên án hôm nay chắc cái vốn tín nhiệm chả còn lại được mấy.
– Tôi không biết chính xác người làm báo phải chịu những đòi hỏi gì nhưng sau chuyến thất bại này chắc sẽ phải một thời gian dài thì Thám tử Bậc thầy Blomkvist mới giành được Giải lớn của báo chí. Lần này anh ta tự làm cho mình bị sa chân, – Salander nói. – Nếu tôi có thể bình luận với tư cách cá nhân…
Aramnsky mở to mắt. Trong những năm làm việc với ông khi điều tra về một cá nhân, Salander không đưa ra bình luận riêng tư bao giờ. Tất cả những gì quan trọng với cô là sự việc trần trụi.
– Nhiệm vụ giao cho tôi không có khoản nhìn vào vấn đề chân lý ở trong vụ Wennerstrom nhưng tôi có theo dõi phiên tòa và phải thừa nhận rằng tôi đã ngạc nhiên thật sự. Bài báo là sai quá rõ nhưng cho đăng lên xem ra ngô nghê quá, như thế thì hoàn toàn không phải là tính cách của Blomkvist.
Salander gãi gãi cổ. Frode nom kiên nhẫn. Armansky nghĩ có thể là ông sai hay là Salander thật sự không chắc chắn nên tiếp tục như thế nào. Salander mà ông biết, không bao giờ không chắc chắn hay do dự. Cuối cùng có vẻ cô đã quyết định.
– Chuyện không được để lộ, hãy nói là thế… Tôi không chính thức nghiên cứu vụ Wennerstrom nhưng tôi thật sự nghĩ rằng Mikael Blomkvist đã nêu lên được vấn đề. Tôi nghĩ trong chuyện này có một cái gì đó hoàn toàn khác với điều mà bản nghị án của tòa chỉ ra.
Con mắt dò xét của ông luật sư chăm chú quan sát Salander, còn Armansky để ý thấy từ khi cô bắt đầu bản báo cáo, lần đầu tiên thân chủ của ông tỏ ra là ông ta không chỉ thích thú theo phép lịch sự. Ông ghi nhận thầm rằng Frode có quan tâm nhất định đến vụ Wennerstrom. Sửa ngay đi thôi, lập tức Armansky nghĩ, Frode không quan tâm đến vụ Wennerstrom đâu – chỉ khi Salander gợi ra rằng Blomkvist đã nêu được vấn đề thì Frode mới phản ứng.
– Chính xác cô muốn nói gì? – Frode nói.
– Đây là tôi suy luận nhưng tôi tin rằng ai đó đã lừa anh ta.
– Cái gì làm cho cô nghĩ thế?
– Trong quá khứ của Blomkvist mọi cái đều cho thấy anh ta là một phóng viên thận trọng. Mọi phát hiện có tranh cãi mà trước đây anh ta cho đăng đều luôn luôn đầy đủ về mặt tư liệu. Tôi đã đến tòa nghe xử. Anh ta hình như bỏ cuộc không hề đấu lại. Cái đó không hợp lý với tính cách của anh ta chút nào. Nếu chúng ta tin tòa án thì đây là anh ta đã dựng lên một câu chuyện về Wennerstrom mà không có lấy qua một tí bằng chứng rồi đem đăng lên chẳng khác nào làm báo theo kiểu đánh bom tự sát vậy. Đây không phải là phong cách của Blomkvist.
– Vậy thì theo cô đã xảy ra cái gì?
– Tôi chỉ có thể suy đoán. Blomkvist tin câu chuyện của mình nhưng trong khi làm thì một cái gì đó đã xảy ra và thông tin quay ra thành sai. Điều này chứng tỏ nguồn tin từ một ai đó mà anh ta tin cậy, hoặc người đó đã cố tình cung cấp tin sai cho Blomkvist – việc này nghe phức tạp đến mức khó lòng mà có được. Một khả năng khác là anh ta đã bị đe dọa nghiêm trọng khiến anh ta chịu thua và thà bị coi là một thằng ngu bất tài chứ không đánh trả lại. Nhưng như tôi đã nói, tôi chỉ là suy luận.
Khi Salander có ý tường trình tiếp, Frode giơ tay lên. Ông ngồi, ngón tay gõ lên tay ghế một lúc rồi ngập ngừng nhìn cô gái:
– Nếu chúng tôi mượn cô tháo gỡ sự thật trong vụ Wennerstrom… thì có bao nhiêu cơ may là cô sẽ tìm ra một cái gì?
– Tôi không trả lời được điều đó. Có thể là không có cái gì để mà tìm ra cả.
– Nhưng cô muốn làm thử không?
Cô nhún vai:
– Quyết định không phải là phận tôi. Tôi làm việc cho ông Armansky và ông ấy quyết định việc gì ông ấy muốn giao cho tôi. Rồi còn tùy vào loại thông tin gì mà ông tìm kiếm nữa.
– Tôi nói thế này… và cứ coi như là chúng ta đang nói chuyện riêng tư kín đáo với nhau được chứ?. – Armanksy gật đầu. – Tôi không biết gì hết về vấn đề đặc biệt này nhưng chắc chắn là tôi biết rõ rằng Wennerstrom đã xử sự không trung thực trong các tình huống khác. Vụ án Wennerstrom ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời Blomkvist và tôi thích thú được thấy liệu có một cái gì đó ở trong các suy luận của cô không.
Câu chuyện đã quay sang một ngả bất ngờ, Armansky lập tức cảnh giác. Điều Frode yêu cầu với An ninh Milton là thăm thú vào một vụ án đã được kết luận. Một vụ án trong đó có thể đã có một vài đe dọa nào đấy với Blomkvist và nếu họ nhận lời thì Milton sẽ có cơ vấp phải cả một binh đoàn luật sư của Wennerstrom. Ít nhất thì Armansky cũng không yên tâm với ý nghĩ Salander sẽ được cho thả lỏng ở trong một tình hình như thế này, cô sẽ giống như một tên lửa mất kiểm soát.
Đây không chỉ là một vấn đề dính dáng đến công ty. Salander đã thẳng thắn cho thấy cô không muốn Armansky cư xử như kiểu một vài ông bố dượng cả lo và từ khi hai người thỏa thuận, ông đã thận trọng để không bao giờ cư xử như thế nhưng trong thực tế ông có bao giờ hết lo lắng cho cô đâu. Đôi khi ông bất chợt so sánh Salander với các con gái của mình. Ông coi mình như một ông bố tốt không can thiệp vô cớ vào đời sống con cái. Nhưng ông biết ông không tha thứ cho chuyện đó nếu các con gái ông xử sự như Salander hay sống như Salander.
Trong sâu thẳm con tim người Croat – hay có thể là Bosnia hay Armenia – của ông, ông không bao giờ hết đinh ninh rằng cuộc đời của Salander đang bị cô hướng đến tai họa. Hình như cô là nạn nhân ngon lành cho bất cứ ai mong muốn hại cô, và ông nơm nớp về một buổi sáng ông đã bị đánh thực dậy bởi cái tin rằng một người nào đó đã gây khốn đốn cho cô.
– Điều tra như thế sẽ tốn kém, – Armansky nói, cảnh báo trước như vậy để thăm dò xem yêu cầu của Frode nghiêm túc đến đâu.
– Vậy chúng ta sẽ đặt ra một mức giá trần, – Frode nói. Tôi không yêu cầu cái không thể, nhưng rõ ràng là đồng sự của ông có thừa bản lĩnh, như ông đã đảm bảo với tôi.
– Salander sao? – Armansky nói, nhướng lông mày lên quay sang cô gái.
– Hiện tôi đang không làm một việc nào khác cả.
– OK. Nhưng tôi muốn chúng ta cần thỏa thuận với nhau về các bó buộc của công việc. Ta hãy nghe nốt báo cáo của cô.
– Đời tư anh ta thì không có gì nhiều. Năm 1986 anh ta lấy Monica Abrahamsson và cũng năm ấy họ có một đứa con gái, Pernilla. Cuộc hôn nhân không bền; họ li hôn năm 1991. Abrahamsson đã tái hôn nhưng xem ra họ vẫn là bạn bè. Đứa con gái sống với mẹ và không hay gặp Blomkvist.
Frode xin thêm cà phê rồi quay sang Salander.
– Cô nói ai cũng có bí mật. Cô đã tìm ra cái nào chưa?
– Ý tôi là mọi người đều có những điều họ coi là riêng tư và họ không đi rao chúng lên ở nơi công cộng, Blomkvist rõ ràng là một người rất đào hoa. Anh ta có vài cuộc tình và rất nhiều vụ chơi bời tình cờ. Nhưng trong nhiều năm, một người vẫn cứ luôn xuất hiện trong đời anh ta và đây là một quan hệ khác thường.
– Như thế nào?
– Erika Berger, Tổng biên tập tạp chí Millennium, xuất thân tầng lớp thượng lưu, mẹ người Thụy Điển, bố người Bỉ sống ở Thụy Sĩ. Berger và Blomkvist gặp nhau ở trường báo và từ đấy có một mối quan hệ lúc tắt lúc bật.
– Chuyện đó có thể là không khác thường lắm, – Frode nói.
– Không, có thể là không. Nhưng có chuyện là Bereger đã lấy nghệ sĩ Greger Beckman, một tên tuổi nho nhỏ từng đã làm nhiều chuyện ghê gớm ở những chốn gặp gỡ công cộng.
– Vậy là cô ta không chung thủy.
– Beckman biết quan hệ của hai người. Đây là một tình huống mà xem bề ngoài thì các bên liên quan đều chấp nhận. Đôi khi cô ấy ngủ ở chỗ Blomkvist, đôi khi ở nhà. Tôi không biết chính xác chuyện này ra sao nhưng chắc nó đã là yếu tố góp phần vào việc phá vỡ hôn nhân của Blomkvist với Abrahamsson.
— —— —— —— ——-
1 (Pippi Tất dài: một cô bé tinh nghịch, một nhân vật rất độc đáo của nhà văn Astrid Lindgren – chú thích của tác giả)