Chuyện tôi khó thích nghi với cuộc sống mới thì lại khác. Tôi cảm thấy bị đè bẹp bởi sức nặng của tự do. Không còn phải cầu kinh theo lịch nữa, tôi đến thăm thú các nhà thờ trong vùng vào những lúc rảnh rỗi, nhưng cầu kinh khi đó rất khác vì tôi thực sự không bị bắt buộc. Tôi bắt đầu tự học nấu nướng, một điều tôi chưa từng làm khi còn ở tu viện. Tôi ngập trong rau xanh và hoa quả, nghĩ mình không thể phạm sai sót, cho tới khi, sau vài tuần, anh nói thích món gì đó “có chất” hơn. Có nghĩa là món gì được nấu chín, món gì liên quan đến thịt thà ấy. Nấu chín quá, nấu chưa kỹ, kết hợp không hoàn hảo cả hai trạng thái, tôi luôn phá hỏng hầu như tất cả mọi thứ tôi châm lửa vào. Anh cười xòa trước những cố gắng của tôi, giấu những mẩu thức ăn thừa vào trong túi áo và nói rằng tôi ngày càng tiến bộ. Anh lại đối xử tốt với tôi nữa rồi. Cuối cùng bà chủ nhà của chúng ta, người không chịu nổi cái mùi phát ra từ trong bếp thêm chút nào nữa, đã chỉ cho tôi đủ ngón nghề để có thể tự xoay xở được.
Nhưng nấu nướng còn khá dễ dàng nếu so với việc thực hiện bổn phận của một người yêu. Chúa ơi, thật khủng khiếp! Nhưng một lần nữa anh lại hết sức kiên nhẫn, rõ ràng còn kiên nhẫn hơn cả những gì tôi có thể mong đợi nữa. Có lẽ một phần là do những vết bỏng của anh; vài đêm anh yếu đến nỗi không chịu được việc bị đụng chạm nữa. Anh không trong sáng gì và tôi phải ngây thơ lắm mới tin vào điều ngược lại, nhưng anh chưa bao giờ xin lỗi việc mình đã gần gũi nhiều phụ nữ trước tôi. Trước và sau khi chúng ta gặp nhau là hai chuyện hoàn toàn khác, thế thôi. Cùng với việc tôi bỏ lại cuộc sống trước kia của mình ở phía sau, tôi phải chấp nhận rằng anh cũng có thể làm thế. Phần lớn thời gian việc đó cũng không quá khó khăn, dù thỉnh thoảng tôi cũng phải tống sự ghen tuông của mình vào tủ quần áo những lúc anh không để ý.
Kinh nghiệm của anh trong chuyện tình dục thực sự có ích. Lạ lùng thay, đó cũng y hệt như chuyện tôi đã dành cả đời để cố gắng, nhưng thất bại, để có thể toàn tâm toàn ý với tình yêu tâm linh. Tôi không bao giờ phải dẫn lối chỉ đường, tôi chỉ cần nhận. Anh mang đến cho tôi một thứ cảm xúc xác thịt tôi chưa từng nghĩ mình có thể sở hữu. Tôi đã phát hiện ra rằng tôi… Nhìn tôi này, bao nhiêu năm đã trôi qua, mà tôi vẫn còn đỏ cả mặt. Tôi vẫn không thể nói về chuyện đó. Cứ cho là tôi đã luôn sống theo đúng lời thề của mình, nhưng sau vài tháng ở cùng anh tôi đã nhận ra một cuộc đời đức hạnh hầu như chẳng phải cuộc sống đích thực.
Dù sao, tôi cũng đã thích nghi được với cuộc sống ngoài tu viện. Tôi vẫn đến nhà thờ thánh Martin nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang cầu nguyện cho sức khỏe của anh và mong anh chóng tìm được việc làm, nghĩa là giờ đây tôi cầu nguyện cho những gì tôi mong sẽ xảy ra chứ không phải cho những gì Chúa đã mang lại. Ngoài nhà thờ, tôi bắt chuyện với mấy cô Beguine trên phố và kết bạn được với vài người.
Giáo hội về cơ bản coi việc mấy kẻ vô danh tiểu tốt cứ đòi xía vào việc của Chúa là không hợp tí nào, nhưng tôi thì không thấy thế. Những người Beguine làm việc trên phố và thực hiện đúng lời thề sống trong nghèo khó của họ; họ hoàn toàn tương phản với những người sống trong nhà thờ, vì tôi đã phát hiện ra rằng phần lớn các linh mục đều không xứng đáng và thậm chí có người còn biển thủ của công nữa. Người Beguine tự cung tự cấp bằng những đồ thủ công nhỏ và những công việc trong bệnh viện, bằng lòng với những món tiền người dân tự nguyện quyên góp, thay vì áp chế thuế má bắt buộc. Hằng đêm họ sẽ quay trở lại nghỉ tại dãy nhà nhỏ của mình để lại bắt đầu quy trình vào sáng hôm sau, và sự thành tâm của họ thì không có gì phải bàn cãi. Chẳng bao lâu sau tôi đã nhận ra rằng lý do chính để Giáo hội chống lại người Beguine là vì những kẻ vô danh tiểu tốt này biến Giáo hội thành kẻ xấu.
Những người Beguine không thể hiểu tôi thật sự là ai. Tôi có thể nói hàng giờ về Kinh Thánh và tôi có thể đọc được cả tiếng Latin lẫn tiếng Đức. Tôi đã học tất cả sách của các học giả và chuyên gia. Tôi biết về Mechthild von Magdeburg, nữ tu sĩ có tầm ảnh hưởng lớn tới những người Beguine, và tôi cũng chẳng lạ gì kiệt tác của bà, Ánh sáng rực rỡ dịu dàng của Chúa Thánh Thần. Tôi biết tất cả những thứ này nhưng tôi không thể – không bao giờ – nói cho họ biết là bằng cách nào và tại sao. Tôi gây ấn tượng tốt nhưng lại rất khó hiểu. Cái họ quan tâm nhất, tuy thế, lại là tri thức khổng lồ của tôi về việc làm sách. Tôi biết nhiều hơn cả các chuyên gia của họ, những người đang soạn những cuốn Kinh Thánh cho dân nghèo được họ phân phát khắp nẻo đường góc phố.
Mùa đông đang đến gần: anh vẫn chưa tìm được việc làm, và những lời từ chối liên tục đã thành gánh nặng trên vai anh. Những người quản lý thi công ngày một trở nên thù địch với mỗi chuyến viếng thăm của anh, và hằng đêm anh lại lê bước về nhà với vẻ mệt mỏi hơn. Anh bắt đầu cằn nhằn bản thân vì không đủ khả năng để “làm chuyện bất cứ một người đàn ông tử tế nào cũng phải làm được”. Tôi lại được thêm một bài học nữa về thế giới bên ngoài, bài học về lòng kiêu hãnh đàn ông. Tôi muốn giúp anh nhưng mọi gợi ý đều chỉ làm anh giận dữ. Dù biết anh giận dữ với chính bản thân mình chứ không phải với tôi, tôi vẫn thấy mọi việc dễ dàng hơn chút nào.
Một trở ngại lớn khác là anh không có giấy tờ tùy thân, lẽ ra là thứ phải có với bất cứ một người thợ nào ở tuổi anh. Đó không phải lỗi của anh, anh đâu có dự liệu chuyện cả cha lẫn mẹ đều mất khi anh còn nhỏ đâu, nhưng như thế cũng chẳng giải quyết được vấn đề. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Hội thợ nề rất cứng rắn và anh chỉ đơn giản là không đáp ứng được những yêu cầu của họ. Phải làm một cái gì đó, và phải thật nhanh chóng, vì chỗ tiền tiết kiệm của chúng tôi chẳng thể nào tồn tại mãi được.
Thế là tôi đã ra hai quyết định, và tôi chẳng nói quyết định nào cho anh cả. Điều đầu tiên tôi làm là đề nghị được giúp đỡ những người Beguine. Không phải với tư cách một thành viên, mà là với tư cách một lao động tự do.
Việc soạn Kinh Thánh cho dân nghèo của họ cũng không phức tạp gì, chỉ là những tấm gỗ có in tranh và chữ, nhưng tôi vẫn thấy nó rất ấn tượng. Rất ít người biết đọc nên tranh ảnh là phương thức duy nhất để truyền tải những câu chuyện tôn giáo đến với quần chúng nhân dân. Những câu chuyện trong Kinh Cựu ước và Kinh Tân ước được đặt cạnh nhau để người đọc có thể nghiền ngẫm mối liên hệ giữa chúng: thay vì coi khinh người đọc, những người Beguine đã cố gắng lôi kéo họ vào công cuộc suy nghĩ tìm hiểu tác phẩm. Tuy nhiên, tôi biết mình vẫn có thể cải thiện chất lượng bản thảo và gợi ý phối hợp một số cảnh thích hợp hơn. Những người Beguine không xuôi theo ngay, vì thế tôi đã cung cấp một số bản mẫu và họ đã phải công nhận rằng tôi có thể làm được. Khi họ tiếp tục cảnh giác khi cho một người ngoại đạo tham gia vào công việc của mình, tôi quyết định đây là lúc phải nói với họ về cuộc sống của tôi khi ở Engelthal.
Biết được điều này, họ vẫn chưa thể đưa tôi vào hàng ngũ của mình một cách nhanh chóng được. Họ không nói thẳng ra, dĩ nhiên, nhưng có lẽ họ nghĩ nếu họ từ chối tôi, có lẽ một chút nào đó của Engelthal sẽ tan biến theo. Dù không có khả năng trả công cho tôi, họ vẫn tặng bánh mì và củ cải thay thế. Viêc này thực sự đã làm mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn vì khi anh trở về sau chuyến săn việc tôi có thể nói với anh, một cách thành thật, rằng chỗ thức ăn đó là đồ cứu tế nhân đạo. Tôi không phải nói rằng tôi có việc làm trong khi anh thì không.
Việc thứ hai tôi làm, tôi chưa bao giờ nói với anh cho đến tận bây giờ. Hãy nhớ rằng đó là chuyện từ rất lâu rồi, và tôi mong anh sẽ tha thứ cho tôi.
Một buổi sáng nọ, anh thức dậy chuẩn bị cho chuyến đi tìm việc thường nhật của mình. Tôi vô tư hỏi rằng anh định đến những nhà thờ nào, anh bảo sẽ bắt đầu với nhà thờ thánh Christoph rồi tới nhà thờ Poor Clares và nhà thờ thánh Quintin. Sau đó thì, anh thực sự cũng không biết.
Khi anh ra khỏi cửa, gót chân lê nặng nhọc trên nền đá, tôi mặc chiếc áo choàng nữ tu lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi Engelthal. Tôi đi đến nhà thờ thánh Quintin, biết rằng phải một lúc lâu nữa anh mới đến đó.
“Đây sẽ là một nhà thờ rất đẹp,” tôi nói với người quản lý công trình. “Gian trung tâm có vẻ khá thấp còn lối đi giữa các hàng ghế lại rất cao. Thật là một hiệu ứng thú vị.”
Ông ta cảm ơn tôi, nhưng cũng thừa biết rằng tôi đến đó không phải chỉ để nói về kiến trúc. Khá nhã nhặn – vì ai lại muốn sỉ nhục một nữ tu cơ chứ? – ông ta hỏi lý do thực sự của chuyến viếng thăm này là gì. Tôi đến đây vì một người bạn, tôi trả lời, một người đàn ông đang rất cần việc. Một người đàn ông đầy vết bỏng. Người quản lý đảo mắt trả lời, vâng, một người đàn ông như thế ngày nào cũng mò đến đây ăn vạ, thứ lỗi cho cách dùng từ của ông ta, nhưng họ đã có đủ công nhân rồi. Hơn nữa, vẻ ngoài của người đó làm những công nhân khác sợ chết khiếp.
Tôi đã dùng giọng nói ngọt như mía lùi của mình, giọng nói tôi đặc biệt dùng khi nói về Chúa. “Nhưng chắc chắn con người không thể chỉ được đánh giá bởi vẻ bề ngoài đâu. Tôi biết rằng người đàn ông này có cả trái tim tuyệt vời lẫn kinh nghiệm làm thợ nề.”
Người quản lý trả lời, lại rất nhã nhặn, rằng kinh nghiệm làm việc của anh dường như đã bị gián đoạn trong nhiều năm khi anh làm một loại lính gì đó, một người lính đánh thuê nếu ông ta không nhầm.
Tôi không xác nhận cũng không phủ nhận sự hoài nghi của người quản lý công trình nhưng tôi đã nói bóng gió, một cách khá bí ẩn, “Có những người lính chiến đấu nhân danh Chúa, làm những việc rất cần thiết nhưng không bao giờ khoe khoang nơi công cộng. Thế tôi muốn hỏi ngài một lần nữa, để xây dựng một nhà thờ to đẹp thế này, chắc chắn phải có chỗ cho một công nhân nữa chứ? Thậm chí cả với những người có lỗ hổng trong tiểu sử chứ? Bản thân tôi có thể đảm bảo cho nhân cách của anh ấy.”
Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân và hỏi, chính xác là, tôi từ đâu đến vậy. Tôi trả lời rằng tôi đến từ Engelthal, không hề nói là tôi đã không còn là nữ tu tại đó nữa. Tôi không biết người này có bị ấn tượng bởi việc đó không. Ông ta hẳn có nghe nói về Engelthal, vì cuối cùng ông ta cũng gật đầu. Ông ta nói sẽ cân nhắc xem có giúp được gì không nhưng cũng thêm rằng mình không thể hứa chắc điều gì.
“Tôi thực sự cám ơn sự quan tâm của ngài. Trong trường hợp ngài tìm được một chỗ cho anh ấy thì xin đừng nói với anh ấy rằng tôi đã đến đây. Anh ấy là một người có lòng tự trọng cao và sẽ rất tốt nếu để anh ấy tin rằng sự bền bỉ của mình đã được đền đáp.” Tôi cúi đầu chào, và để cho chắc chắn, nói thêm với người quản lý xây dựng rằng tôi sẽ cầu nguyện cho ông ta.
Sau khi thay quần áo bình thường, tôi đi thẳng tới thánh đường thánh Martin. Không phải để cầu nguyện cho linh hồn người quản lý, như tôi đã nói, mà cho chính bản thân tôi. Chuyện tôi giả dạng với bộ quần áo của Giáo hội làm tôi phát buồn nôn. Khi rời thánh đường, tôi không hề có cảm giác mình được tha thứ. Tôi đã cầu xin một dấu hiệu, nhưng chẳng có gì xuất hiện cả.
Cho tới buổi tối hôm ấy, khi anh bước qua ngưỡng cửa kiệt quệ nhưng miệng nở nụ cười và người đầy bụi đất. “Hôm nay một người quản lý đã nhận tôi rồi.”
Sau nhiều tuần anh đã tạo được ấn tượng tốt ở nơi làm việc. Khi công việc ở nhà thờ thánh Quintin xong xuôi, người quản lý đã giới thiệu anh tới nhà thờ thánh Stephan. Suốt mùa đông mọi chuyện cứ thế diễn ra, anh chuyển chỗ làm hết từ nhà thờ này tới nhà thờ khác. Anh đã có chút danh tiếng và cũng kết bạn được với vài người, và hằng ngày anh đều vui mừng khôn xiết mang một vốc tiền đầy về nhà. Tôi đun nước và đổ một thùng đầy để tắm rửa cho anh. Anh vẫn còn nhiều sẹo và các cơ vẫn còn khá cứng, tôi đã xoa bóp cho anh đến khi các khớp xương của anh trở nên mềm dẻo. Công việc rất nặng nhọc với bất cứ ai, nhưng những thương tích của anh khiến nó còn nặng nhọc gấp đôi. Tuy thế, mỗi ngày anh cũng trở nên khỏe mạnh hơn. Tôi luôn cố gắng cho anh ăn tất cả những gì chúng ta có, thông thường chỉ là củ cải và bánh mì đen, những miếng thịt lườn rẻ tiền, và tất cả những gì tôi bí mật đem về từ chỗ những người Beguine.
Chúng ta luôn có vừa đủ tiền để tiếp tục ở trọ. Bà chủ nhà vẫn luôn dạy tôi cách nấu nướng và còn giới thiệu tôi với một số người bạn của bà nữa. Cũng phải mất một thời gian thì họ mới chấp nhận tôi, vì những mối liên hệ với người Thiên Chúa luôn gây rắc rối cho những người Do Thái sống ở Mainz – người ta vẫn nhắc đến cuộc thảm sát người Do Thái trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất của Emich, và chuyện tổng giám mục đã từng cố đuổi tất cả những người Do Thái ra khỏi thành phố. Nhưng vì họ đều sống và kinh doanh trong cùng một thành phố, việc tránh mặt mọi loại người là không thể. Tôi nghĩ họ đã quyết định rằng vì tôi chưa bao giờ quá câu nệ chuyện tôn giáo với họ, họ có thể chấp nhận tôi với tư cách một công dân bình thường.
Thế là bây giờ tôi đã quen biết vài người Do Thái cùng mấy cộng sự người Beguine, và anh cũng có đồng nghiệp ở khắp các công trình trong thành phố. Tôi đã ngừng cầu nguyện để xin một dấu hiệu cho thấy tôi đã đúng khi rời Engelthal. Tôi biết mình đã có dấu hiệu đó rồi.
Vào mùa xuân, một người bạn thợ đá của anh đã đưa ra một lời đề nghị bất thường và đáng ngạc nhiên. Anh ta nói đã “quá chán ngán cái việc gõ đầu lũ trẻ ranh ngu ngốc rồi” và đang muốn có một anh bạn đồng hành. Nếu anh không phiền mức giá hơi thấp, anh ta sẽ xin Hội Thợ đá một ngoại lệ đặc biệt để nhận anh làm thợ học việc. Anh ta cảnh báo rằng sẽ không dễ dàng gì và thu nhập của anh sẽ giảm sút nghiêm trọng, nhưng cuối cùng anh sẽ có được giấy tờ tùy thân. Chúng ta chỉ bàn bạc vài phút trước khi quyết định rằng một lời đề nghị như thế sẽ không bao giờ có lại lần hai. Có chút khó khăn trong việc thuyết phục Hội Thợ đá nhưng cuối cùng họ cũng đồng ý, và anh đã trở thành người thợ học việc lớn tuổi nhất thành Mainz như vậy đấy.
Anh ngập chìm trong công việc, đến sớm về muộn. Anh làm tất cả những gì được nhờ, không bao giờ phàn nàn, và cẩn thận chú ý tới tất cả những lời chỉ dẫn. Việc anh có một cảm quan bẩm sinh với đá đã không bị bỏ phí. Những bài học của anh từ cha cũng không bị mai một theo thời gian.
Niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn thật là một món quà kỳ diệu. Chúng ta vẫn chưa có tiền, nhưng chúng ta cũng bắt đầu nói về việc sẽ tìm một nơi ở mới. “Một ngôi nhà nhỏ, có lẽ thế.” Niềm tin cho chúng ta cái cớ để mơ mộng và giấc mơ là thứ rất cần thiết vì thu nhập giảm sút đã ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống của chúng ta, rõ ràng nhất là trong khẩu phần ăn hằng ngày. Nếu không có mấy món “từ thiện” từ những người Beguine, có lẽ chúng ta đã không thể qua khỏi.
Dù bụng trống rỗng, chúng ta vẫn đi khắp thành phố và chỉ trỏ vào những ngôi nhà sẽ thuộc về chúng ta. Một ngày nào đó.
“Và khi chúng ta đã có nhà,” anh nói, “tôi sẽ xin em cho tôi vinh hạnh được lấy em làm vợ.”