Cô nhìn xuống bãi cát. Hơi thở của cô nghẹn lại trong cổ họng, rồi bật ra để nói lời thú tội. “Con của chúng ta đã không sống được.”
Cô nhìn lên, về phía đại dương xa xăm, và rồi lại nhìn xuống bãi cát lần nữa.
“Khi tôi tỉnh lại thì đứa trẻ đã…”
Cô lấy hai tay che mặt; rõ ràng là cô không dám nhìn tôi.
“Đã mất rồi,” cô nói. “Như thể nó chưa bao giờ được thụ thai, như thể bàn tay của Chúa đã đi vào trong tử cung của tôi và lấy đứa trẻ đi như một sự trừng phạt.”
“Cô không thể tin chuyện đó được.”
“Tôi đã cố không tin. Tôi muốn tin đó là một ân huệ. Rằng đứa trẻ…” Giọng cô nhẹ đến nỗi tôi không thể nghe ra. “Rằng đứa trẻ đã chết trong dòng nước lạnh, và Chúa đã tước nó khỏi tôi để tôi không phải đối mặt với sự thật khủng khiếp ấy trong thế giới thực.”
“Nếu cô tin vào Chúa,” tôi nói, cố kiềm chế thôi thúc tự nhiên muốn nói thêm rằng tôi chẳng tin gì hết, “cô cũng nên tin vào sự độ lượng của Người.”
“Tôi vẫn luôn muốn tin rằng đó là một ân huệ,” cô cứ nức nở. “Nếu đó là một sự trừng phạt, thì thật quá khủng khiếp.”
“Con của chúng ta đã không sống được,” cô nhấn mạnh. “Đây không phải chuyện ta có thể quên được, dù có sống lâu đến đâu chăng nữa.”
Tôi biết không nên tiếp tục thuyết phục cô rằng đó chỉ do cô tưởng tượng ra. Đây lại là một cuộc tranh cãi nữa mà tôi không thể thắng.
Rõ ràng khi cô tiếp tục, cô không nói chuyện với tôi mà đang nói với chính mình, “Đó là một ân huệ, hẳn thế. Hẳn thế.”
Vì tôi không thể thuyết phục cô rằng đứa con thời Trung cổ của cô không hề tồn tại, tôi quyết định tập trung nói về cuộc sống hiện tại của chúng tôi.
“Cô sẽ không chết đâu, Marianne. Chẳng có Ba Vị Chủ Nhân nào cả.”
“Tất cả trái tim của tôi đều đã mất rồi.”
“Cảm nhận cái này đi.” Tôi cầm lấy tay Marianne và áp lên ngực cô. “Tim cô vẫn đập đấy thôi.”
“Chỉ bây giờ thôi. Chuyện gì xảy ra tiếp theo là phụ thuộc ở anh.” Cô lại phóng tầm mắt về phía đại dương một lúc rồi cuối cùng bắt đầu huýt sáo, dù những người ở gần nhất cũng cách bãi biển hàng trăm mét, “Anh có nhớ điều anh nói khi tôi chuẩn bị rời khỏi nhà huynh trưởng Heinrich trước khi bọn lính đánh thuê tới không? Anh đã hứa rằng tình yêu của chúng ta sẽ không bao giờ chết.”
Tôi im lặng, không muốn khuyến khích cô, khi cô tháo sợi dây chuyền gắn đầu mũi tên ra khỏi cổ. “Cái này vẫn luôn luôn là của anh, và một ngày nào đó anh sẽ biết phải làm gì với nó.”
“Tôi không muốn có nó,” tôi nói.
Cô ấn nó vào tay tôi bằng được. “Tôi đã giữ nó suốt bao lâu nay chỉ để trao nó lại cho anh. Nó sẽ bảo vệ anh.”
Tôi có thể thấy cô sẽ không để tôi từ chối, vì thế tôi cầm lấy nó. Nhưng nếu làm thế cô sẽ nghĩ tôi tin câu chuyện của cô, tôi liền nói, “Marianne, tôi không tin cái này được cha Sunder ban phúc đâu.”
Cô ngả đầu vào hõm vai tôi, nói, “Anh là một người nói dối tuyệt vời.”
Và rồi cô hỏi tôi một câu cô chưa từng hỏi bao giờ.
“Anh có yêu tôi không?”
Cơ thể chúng tôi tựa vào nhau, ngực chạm ngực. Tôi chắc chắn cô có thể nghe tiếng tim tôi đập thình thịch. Vết bớt của tôi đang chạm vào đúng vị trí mà, phía dưới lần áo len, cô đã khắc tên tôi lên ngực mình.
Anh có yêu tôi không?
Tôi chưa bao giờ lớn tiếng thừa nhận bất kỳ cảm xúc nào sâu sắc hơn sự “quan tâm” dành cho cô. Tôi biện bạch dù tôi không nói ra thì cô cũng biết sự thật. Nhưng thực sự, tôi chỉ là một thằng hèn.
“Có.”
Từ lâu rồi, tôi đã luôn muốn tự thú.
“Có. Tôi yêu em.”
Đã đến lúc không được làm cô thất vọng, vì thế tôi vuốt những lọn tóc rối của cô ra đằng sau và tuôn trào những lời lẽ đã ở trong trái tim ấm nóng của tôi, giờ trở nên thuần khiết, kể từ giây phút đầu tiên tôi gặp cô.
“Tôi đã dành cả đời mình để đợi em, Marianne, và tôi thậm chí vẫn chưa biết điều đó cho tới khi em đến. Bị bỏng là điều tuyệt vời nhất từng xảy ra với tôi vì nó đã mang em đến. Tôi muốn chết nhưng em đã mang đến cho tôi tình yêu vô hạn và tôi không thể không đáp lại tình yêu của em. Tôi đã yêu em trước khi tôi kịp nhận ra và giờ đây tôi không thể tưởng tuợng nổi mình lại không yêu em. Em nói rằng phải mất rất nhiều công sức mới khiến tôi tin bất cứ điều gì, nhưng tôi thực sự đã tin. Tôi tin tình yêu em dành cho tôi là thật. Tôi tin tình yêu tôi dành cho em là thật. Tôi tin mọi nhịp đập còn lại của trái tim tôi đều dành cho em, và tôi tin khi đến lúc tôi phải rời bỏ thế giới này, hơi thở của tôi sẽ mang tên em. Tôi tin từ cuối cùng tôi nói ra – Marianne – sẽ là tất cả những gì tôi cần để biết rằng cuộc đời tôi rất tốt đẹp, trọn vẹn và đáng sống, và tôi tin tình yêu của chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi.”
Chúng tôi ôm nhau trong giây lát, rồi cô đứng dậy và bắt đầu đi về phía biển. Cô vừa đi vừa cởi bỏ quần áo trên người và ánh trăng làm làn da cô càng thêm trắng mịn. Khi ra đến chỗ nước biển thì cô đã hoàn toàn trần trụi, mờ ảo mà rực rỡ. Cô đứng đó rồi quay người lại để đối diện với tôi trong khoảnh khắc, dưới những vì sao lấp lánh như những giọt sương giá trong cái lạnh cắt da cắt thịt; cô đứng như thể đang cố lưu lại hình ảnh của tôi vào trong trí nhớ, hình ảnh tôi đang đứng nhìn cô.
“Thấy chưa?” Marianne nói. “Chúa thực sự sống trong anh.”
Cô quay lưng lại tôi và bình thản lội xuống nước. Dòng nước ngập lên chân rồi lưng cô, nhanh chóng phủ lên đôi cánh thiên thần xăm trên làn da trắng như trứng gà bóc của cô. Cô rướn người về phía trước và bắt đầu sải cánh tay bơi vào đại dương bao la, mái tóc đen rối của cô cuốn về phía sau.
Tôi chẳng làm gì mà chỉ đứng nhìn cô rời khỏi tôi cho tới khi cuối cùng thì dòng nước cũng nuốt chửng đôi vai xanh xao của cô.
Sau chừng mười lăm phút thì Bougatsa bắt đầu kêu gào thảm thiết và giận dữ chạy quanh, khẩn nài yêu cầu tôi làm gì đó. Nhưng tôi cứ đứng đó. Thế là nó chạy về phía những con sóng triều, sẵn sàng nhảy xuống bơi, cho tới khi tôi gọi nó lại. Tôi biết nước hiện rất lạnh và mọi thứ đã quá muộn rồi. Nó tin và nghe lời tôi nhưng vẫn cứ ư ử dưới chân tôi. Tuy thế, đôi mắt nó vẫn ánh lên vẻ hy vọng. Như thể nó tin rằng chỉ cần nó đợi đủ lâu, cuối cùng cô cũng sẽ quay trở lại với chúng tôi, từ đại dương.