Có lẽ vì ông lão trông quá yếu ớt, hay có lẽ vì tiếng nấc hấp hối nơi ngực ông. Có lẽ vì ông vừa húp từng thìa cháo vừa không ngớt lời cám ơn các bà xơ, không thốt lên một lời than trách nào dù chẳng ai hiểu được ông. Hay có lẽ vì tôi có cảm giác là nếu không có ai đó nói chuyện với ông trong cái đêm định mệnh ấy, thì có thể sau này sẽ chẳng có ai nói chuyện với ông nữa. Dù vì lý do gì, tôi cũng đã phá vỡ luật im lặng của mình và bước ra khỏi góc phòng. Dùng phương ngữ Ý của ông, tôi hỏi, “Tên ông là gì ạ?”
Ông nhìn lên qua chiếc thìa với một niềm vui khó tả trên khuôn mặt. “Paolo,” ông trả lời, rồi hỏi vì sao tôi hiểu được tiếng địa phương của ông. Tôi không biết bằng cách nào hay tại sao, tôi nói, tôi hiểu được, thế thôi. Tôi nói với ông rằng tôi thường nghe người nước ngoài nói chuyện và sau khi họ đi khỏi tôi sẽ lưu giữ những cuộc nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ vào tâm trí trước khi đi ngủ. Ông nghĩ điều đó thật tuyệt vời. Khi tôi hỏi ông từ đâu tới, ông trả lời mình sống phần lớn cuộc đời tại Firenze nhưng ông sinh ra tại miền Nam nổi tiếng với giọng địa phương đặc sệt. Giọng của ông, ông giải thích, là sự kết hợp khủng khiếp của cả hai nơi đó. Ông cười khi nói thế, và tiếng cười làm xơ Christina bừng tỉnh khỏi sự ngạc nhiên tột độ. Bà bắt đầu ướm câu hỏi cho tôi, vừa để kiểm tra kỹ năng dịch của tôi vừa nhằm moi thông tin. Qua tôi, câu chuyện của ông lão được kể lại.
Paolo đã sống trọn đời mình với người vợ mà ông rất mực yêu quý. Bà mới mất và ông biết mình cũng sớm đi theo vợ thôi. Đây là lý do cho cuộc hành trình của ông, vì ông chưa bao giờ biết đến những đất nước khác ngoài quê hương mình và ông không muốn chết mà không có bất cứ ý niệm gì về thế giới cả. Ông không sợ cái chết, bởi ông là một con chiên ngoan đạo và đang trông đợi phần thưởng cuối cùng của mình. Ông hỏi xem liệu mình có thể nghỉ một đêm tại tu viện trước khi tiếp tục chuyến đi không. Xơ Christina chấp thuận, vì bà có đủ quyền hạn để ra quyết định nhân danh tu viện trưởng, và Paolo rất cảm kích trước sự tốt bụng của bà. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình quan trọng.
Paolo lấy một quyển sách từ trong túi ra giơ về phía tôi. Rõ ràng ông muốn trao nó cho tôi. “Tôi chẳng mấy dịp cần đến thứ này nữa đâu.”
Xơ Christina bước tới trước để từ chối thay tôi. “Nói với ông ấy rằng ông quá nghèo nên chúng ta không thể lấy những gì ông có được. Nhưng hãy cám ơn ông ấy.” Tôi dịch, và Paolo gật đầu tỏ ý đã hiểu. Ông cảm ơn các xơ lần nữa trước khi đến bên chiếc giường đã được dọn sẵn.
Xơ Christina bảo tôi hôm sau đến gặp bà và tu viện trưởng trong phòng tăng hội sau giờ cầu kinh buổi sáng. Tôi hỏi liệu có phải tôi bị phạt vì đã lên tiếng hay không nhưng xơ Christina bảo đảm với tôi là không.
Khi tôi đến phòng họp vào sáng hôm sau, tu viện trưởng đang ngồi bên bàn làm việc còn xơ Christina đứng phía sau bà. Gertrud đứng ở góc phòng với vẻ mặt vô tư. Tu viện trưởng là người tốt nhưng bà vẫn làm tôi thấy sợ. Bà đã quá già, cái cằm xị nhăn nheo như da chó săn.
“Ta nghe xơ Christina nói là tối qua đã nhận được thiên khải,” bà làu bàu. “Marianne con của ta, không thể hiểu tại sao con lại biết tiếng Ý. Con đã đạt được kỳ tích đó bằng cách nào vậy?”
Xơ Christina gật đầu trấn an, làm tôi thêm can đảm. “Khi con nghe các ngôn ngữ, con cứ thế là hiểu được thôi ạ,” tôi nói. “Con không biết tại sao mọi người lại không làm được thế.”
“Con cũng hiểu được những ngôn ngữ khác chứ? Đây thật là một khả năng tuyệt vời.”
“Cho phép con được nói,” Gertrud xen vào. Bà già gật đầu đồng ý. “Phán xét của Người thật đúng đắn, thưa Tu viện trưởng. Luôn luôn là thế. Nhưng, con nghĩ chúng ta nên cẩn thận xét xem năng lực kỳ dị ấy đến từ đâu. Con cho rằng chúng ta cần phải cẩn trọng, vì chúng ta biết quá ít về sự ra đời của đứa trẻ này. Có gì bảo đảm rằng năng lực này đến từ Chúa, mà không phải từ… một Thực thể khác?”
Tôi chẳng có tư cách gì để đấu lại Gertrud trong tình huống này nhưng, thật may mắn, xơ Christina thì có. “Thế xơ nghĩ nó có thể đến từ đâu, thưa xơ Gertrud?”
“Những cái tên đó tốt nhất không nên thốt khỏi miệng, nhưng xơ hẳn biết rất rõ rằng có những lực lượng mà những linh hồn chính trực như chúng ta luôn phải đề cao cảnh giác. Tôi không nói đây là trường hợp đó, tôi chỉ đề xuất rằng chúng ta cần phải khôn ngoan xem xét mọi khả năng.”
Tu viện trưởng đáp lại lời cáo buộc. “Cho tới khi chúng ta có lý do để tin khác đi, chúng ta hãy cứ cho rằng đây thực sự là thiên khải của Chúa chứ không phải âm mưu của Kẻ thù.”
Tôi có thể đoán chắc rằng Gertrud còn muốn nói nữa, nhưng đã biết ý mà dừng lại. “Vâng, thưa Tu viện trưởng. Dĩ nhiên ạ.”
Bà già lại tiếp tục. “Ta cho rằng đây không chỉ là một thiên khải mà còn là một lời kêu gọi nữa. Có phải tất cả mọi người đều nói được các ngôn ngữ trên đời không? Có phải tất cả mọi người đều có thể làm phiên dịch không? Không. Khi một tài năng tuyệt diệu như thế được phát hiện, nghĩa vụ của chúng ta là phải đảm bảo rằng nó được đem ra phụng sự công cuộc vinh danh Chúa. Con đồng ý chứ, xơ Gertrud?”
“Con đồng ý rằng chúng ta, tất cả mọi người, nên làm những gì có thể để phụng sự Người.” Cách Gertrud rặn những từ này ra khỏi miệng không khác gì một mụ hà tiện nhón từng cắc một ra khỏi ví của mụ vậy.
“Ta rất vui khi con nói thế,” tu viện trưởng tiếp tục, “vì ta đã quyết định sẽ để con đưa đứa trẻ vào phòng viết. Rõ ràng con bé có năng khiếu ngôn ngữ, và việc đào tạo sẽ được tiến hành ngay lập tức.”
Tôi thảng thốt. Giá có thể thấy trước viễn cảnh mình bị đem cho Gertrud dạy dỗ, tôi sẽ không bao giờ bước ra khỏi góc nhà ấy. Cái mà vị nữ tu viện trưởng coi là “phần thưởng” dành cho tôi thực sự là đòn nặng nề nhất trong tất cả những đòn trừng phạt, và tôi chắc chắn rằng sự phẫn nộ của tôi chỉ thua mỗi của Gertrud thôi. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã có chung một niềm tin: rằng đây đúng là một ý tưởng khủng khiếp.
“Marianne chẳng qua chỉ là một đứa trẻ,” Gertrud cự lại, “chắc chắn nó chưa sẵn sàng cho những trách nhiệm ấy. Dù nó có thể có vài kỹ năng cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều phẩm chất khác nữa cần cho công việc. Sự kiên nhẫn, ví dụ thế, và sự tập trung chú ý từng chi tiết mà một đứa trẻ chưa thể có được.”
“Nhưng con bé sẽ học,” tu viện trưởng đáp lại, “theo con.”
“Con khẩn khoản xin được bàn luận thêm về vấn đề này. Con hiểu những gì Người nghĩ nhưng…”
Tu viện trưởng ngắt lời bà. “Ta rất vui khi thấy con đã hiểu. Con không muốn ta đi ngược lại ý Chúa chứ con gái, xơ Gertrud?”
“Vâng, dĩ nhiên là không rồi, thưa Tu viện trưởng.” Gertrud chắp tay ra sau lưng, và tôi có thể nghe thấy tiếng móng tay bà đâm sâu vào lần vải áo chùng. Xơ Christina tiến lên trước, đặt một bàn tay lên vai tôi, và hỏi xem liệu – với sự cho phép rộng lượng của tu viện trưởng – có thể cho chúng tôi được vài phút riêng tư không. Tu viện trưởng chấp thuận đề nghị rồi rời gót. Gertrud cũng ra khỏi phòng, giận dữ nuốt không khí trong khi cố hết sức không đóng sầm cửa lại trên lối ra. Bà không thành công cho lắm.
Xơ Christina nói. “Ta biết con không thích thú ý tưởng này lắm, nhưng ta thực sự tin rằng xơ Gertrud là một phụ nữ tốt và rất thánh thiện, con có thể học được rất nhiều từ bà ấy. Dù bây giờ con chưa thể hiểu được, nhưng tài năng của con rất xuất chúng và bất ngờ. Chúa hẳn đã dành cho con một kế hoạch vĩ đại và lương tâm ta không cho phép mình làm lơ chuyện này. Chúng ta phải tin vào sự soi rạng này và nhớ rằng Chúa không cho phép điều gì xảy ra ngẫu nhiên cả.”
Anh có thể hình dung rằng một đứa trẻ làm sao hiểu được những điều như thế, dù nó có được nuôi dưỡng trong tu viện đi nữa. Làm sao mà kế hoạch của Chúa lại bao gồm cả việc cho Gertrud huấn luyện tôi chứ? Tôi rền rĩ cho đến khi mặt đỏ bừng và nước mắt chảy dài xuống má. Xơ Christina cứ để tôi xả ra hết và thậm chí còn chịu ăn mấy cú đấm giận dỗi của tôi nữa. Tuy nhiên, bà cũng tránh mấy cú đá của tôi, thế nên tôi đoán sự tự hy sinh bản thân của bà cũng có giới hạn. Khi cuối cùng tôi cũng kiệt sức và ngồi phịch xuống sàn nhà, bà liền ngồi xuống bên cạnh tôi.
Tôi nói với bà là tôi ghét bà, nhưng cả hai chúng tôi đều biết đó không phải sự thật. Bà vuốt tóc tôi và thầm thì với tôi rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, chỉ cần tôi tin vào Chúa. Và rồi bà lấy thứ gì đó ra khỏi áo chùng của mình, một cuốn sách bà đã giấu trước đó.
“Sáng nay khi đến đánh thức Paolo, ta thấy ông ấy đã ra đi bình an trong giấc ngủ. Không chút đau đớn, ta tin thế, nét mặt của ông rất thanh thản. Nhưng rõ ràng tối qua ông ấy đã muốn con giữ cuốn sách này, nên ta sẽ hoàn thành nốt tâm nguyện cuối cùng của ông là đưa nó cho con bây giờ.”
Xơ Christina trao cho tôi một cuốn Kinh Thánh viết bằng tiếng Ý, cuốn sách đầu tiên tôi có thể gọi là của mình. Rồi bà dẫn tôi tới phòng viết, để tôi có thể bắt đầu phụng sự ý Chúa.
Chú thích
(18) Tiếng Thụy Điển, nghĩa là “tốt đẹp”.
(19) Ân điển (tiếng Đức).