Họ ngủ hai đêm trong rừng trước khi đến được rặng cây thưa thớt của kinh thành. Ani và Talone chờ đợi trong lúc Finn, với những mô tả chi tiết trong đầu, trườn về phía trước do thám xem có bóng dáng người Ungolad nơi cổng thành và đường chính không. Cậu trở lại một lúc sau đó, tin chắc mọi thứ đều an toàn. Ani cảm giác những cơn gió trong thành cũng xác nhận điều đó, trong những hình ảnh diễn đạt của chúng không có những người đàn ông tóc sáng, và họ tiếp tục di chuyển.
Đây không phải là phiên họp chợ. Vậy nên dòng người xe qua cổng thành thật thưa thớt. Ani tưởng như mình bị lộ diện khi bước qua những cột đá nơi cánh cổng, khi hai lính gác to lớn cứ nhìn xuống cô chằm chặp với sự ngờ vực lạnh lùng. Nhưng không ai cản đường họ cả.
Con đường lớn được trang trí lộng lẫy để mừng đám cưới hoàng gia sắp diễn ra. Những thân sồi cao ven đường quấn giấy đủ màu – vàng, xanh biển, cam, trắng, trông như những phụ nữ ăn diện ngày xuân. Trên thân cây, những dải ruy băng dài giáng ngang bầu trời, biến ngọn cây thành những cổng vòm. Họ đi bên dưới, bóng mát thẳng rợp trên đầu, rồi lại tản ra liên tục, một sự lặp lại đều đặn như nhịp trống của các thầy phủ thủy. Ở bãi chợ, vật trang trí bằng giấy còn nhiều hơn cả dân chúng. Kinh thành yên tĩnh rực rỡ sắc màu. Ani lại nghĩ nó thật kỳ lạ và đáng buồn, như một chú chim với bộ lông vũ sặc sỡ nhưng mất đi tiếng hót. Mọi thứ run rẩy trong căng thẳng và mong chờ.
Ani dẫn hai người đồng hành đi xuyên qua những ngõ hẹp, tránh những đường phố chính. Họ đến tường thành phía tây và đi dọc theo nó một đoạn đến khu đất của những người làm công. Dãy nhà lụp xụp nép mình dưới tường thành như một con mèo hoang rình mồi trong bóng tối. Mặt trời phía tây vẫn cao và bầu trời xanh thẳm; những người làm công hẳn còn đang ở trên cánh đồng và khu chuồng trại, ráng tranh thủ chút nắng còn lại để đàn gia súc, gia cầm phục hồi sau mùa đông. Cỏ phủ kín con đường sỏi dưới chân cô. Mùa xuân đang hừng lên, cả trong thành phố.
Khi họ đến bên căn nhà màu vàng của Ideca, Talone khăng khăng vào trước. Ông dừng lại nơi ngưỡng cửa và nói: “Thưa công chúa, căn phòng đã chật ních!”.
Ani bước đến cạnh ông và thấy tất cả những người làm công đang ngồi trên những dãy ghế cạnh lò sưởi.
“Isi!”. Enna nhảy khỏi chỗ ngồi chạy về phía cửa. Ani ra hiệu cho Talone rằng mọi thứ đều ổn, và ông đứng tránh sang một bên, tra kiếm vào bao. Những người khác đi theo Enna. Chẳng mấy chốc, một nửa những người trong phòng ăn tập thể ôm chầm lấy cô, chúc mừng vì cô vẫn còn sống. Một số người còn chạm vào cô với vẻ thành kính và ngờ vực khiến Ani quay sang Enna với ánh mắt khó hiểu.
“Tôi đã kể cho họ nghe”, Enna nói, “Tôi xin lỗi. Có vẻ đã đến lúc rồi. Tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi cô trốn thoát được. Tôi đã thấy bóng cô chạy đi đêm đó, và tôi vô cùng sợ hãi. Đàn ngỗng của cô đã đánh thức cả nửa khu nhà. Mọi người chạy đuổi theo. Tôi phải nói với họ tại sao cô bỏ chạy và những kẻ săn đuổi cô là ai. Rồi cả cô lẫn cái kẻ đuổi theo cô đã biến mất trong khu rừng. Và Isi này, cô không biết những ngày này mọi người đã phát điên thế nào vì không biết điều gì xảy ra đâu…”.
“Những con ngỗng trong phòng tôi đêm đó…”.
“Chúng ổn cả”, Enna đáp, “Tôi nghĩ tên cột tóc đã đá con ngỗng đực, nhưng nó là một con cứng cựa”.
“Hẳn rồi”, Ani mỉm cười.
“Vậy thì, cô gái chăn ngỗng…”, Razo lên tiếng, luồn qua vai những người khác để đến đứng cạnh Enna, “Cô là công chúa thật sao?”.
“Một cô gái tóc vàng đích thực!”, cô đáp.
Cậu mỉm cười với cô và khẽ đấm vào tay cô. Những người khác lui lại, quan sát cô như thể cô là một con chim lạ lùng với đôi cánh lớn khó đoán.
Cô giới thiệu Talone và Finn với những người làm công. Họ cố gắng giới thiệu lại, lần lượt từng người nói lớn tên của họ. Ani lách qua đám đông ồn ào, hỏi xem tại sao mọi người lại tập trung trong phòng ăn tập thể trong khi bên ngoài trời còn nắng đẹp.
“Đây là tuần nghỉ lễ, cho đám cưới của công chúa…”, Sifrid nói.
“Khi nào?”, Ani hỏi.
“Hai ngày nữa”, Ideca đáp, lần đầu tiên bà cất tiếng. Bà liếc nhìn Ani. “Cuối cùng cô là cô gái tóc vàng đó hả? Vậy thì tốt nhất là cô nên gấp rút, cô bé chăn ngỗng ạ, vì chỉ còn đủ thời gian đến ba giờ ngày mai thôi. Hừ, thử nghĩ cái cảnh cưới một ả máu lạnh mà xem! Biết đâu ả sẽ cắt cổ hoàng tử ngay trên giường tân hôn!”.
“Hoặc tiêu diệt Kildenree để che giấu những gì cô ta đã làm…”, Enna thêm vào.
“Quân lính đã hành quân rồi”, Sifrid nói, “Họ đi tuần trước, băng qua cổng chính. Có cả một buổi ăn mừng. Chiến sự giờ đây không còn bí mật nữa rồi!”.
Ý tưởng của Enna làm tình hình có vẻ sáng sủa lên. “Sau khi cô đi, mọi người đã nhờ Tatto lén đặt những thông điệp dưới cánh cửa phòng đức vua. Ẩn danh. Báo rằng công chúa kia là gian lận và cả chuyện kế hoạch chiến tranh của Kildenree cũng là bịa đặt. Tôi không biết liệu chúng có đến được tay đức vua không, hay liệu ngài có tin chúng không, nhưng mọi người đã cố gắng thử…”.
Những ai chưa từng được nghe về bức thư gửi đức vua bắt đầu đặt câu hỏi, và chỉ trong chốc lát cả gian phòng lại rộ lên. Ani nhìn quanh, thấy Conrad ngồi ở góc phòng, tay cậu đặt trên mái tóc. Cô đi ngang qua mọi người để đến chỗ cậu, gỡ một lọn tóc nhỏ phía dưới tấm khăn trùm đầu và kéo nó ra.
“Conrad, tôi xin lỗi!”.
Cậu nhún vai, và cô ngồi xuống cạnh cậu. “Cậu đã đúng về việc tôi là ai nhưng tôi đã nói dối vì tôi sợ!”.
Cô đưa cho cậu món tóc dài màu vàng óng. Cậu cầm lấy, vò nó giữa những ngón tay.
“Tôi đã nói với đám hộ vệ Kildenree trong cung là cô ở đây!”, cậu ngước lên, cằm run bần bật, “Tôi đã muốn họ tìm thấy cô. Nhưng tôi thề là tôi không biết chúng sẽ tìm giết cô! Tôi thề là tôi không biết!”.
“Không sao đâu”, Ani mỉm cười, “Giờ chuyện đó đã qua rồi!”.
Conrad liếc xuống món tóc vàng nhỏ xíu và cậu gần như mỉm cười. “Tôi từng rất muốn giật cái này khỏi đầu cô nhưng cô lắm chiêu thật. Và giờ thì cô lại là một công chúa. Ai mà nghĩ ra nổi chứ?”.
Ani đứng dậy, quay lại những người làm công. Họ đang đứng yên lặng.
“Tôi có điều không hiểu. Trước đây tôi đã nói dối mọi người. Vậy sao giờ đây mọi người lại tin tôi, khi tôi nói tôi là một công chúa?”.
Enna nở nụ cười chân thành. “Vì mọi người hiểu cô!”.
Rồi như thể mọi người cùng đồng thanh. “Đúng thế!”, Bettin nói, “Cô là cô gái chăn ngỗng của chúng tôi!”.
“Là công chúa tóc vàng”, Conrad nói, quay sang nhe răng với cậu bé đứng bên cạnh.
“Cô là Isi”, Razo nói.
Enna nắm tay áo cô. “Và cô là Ani!”.
Ani cười, cúi xuống, mắt cô ướt nhòe.
“Phải rồi, giờ mọi người gọi cô thế nào nhỉ?”, Razo hỏi.
Ani nhún vai. “Gì cũng được, Razo à!”.
Một vài người thì thầm. “Chà, giờ không thể gọi cô ấy là Isi hay Ani nữa. Cô ấy là một công chúa cơ mà!”.
Enna nhận ra ba người họ đã đi bộ từ lúc bình minh. Chẳng mấy chốc, cả ba lữ khách được mời dùng món hầm hâm lại và bánh mì không còn mới lắm. Ideca tự mình phục vụ họ. Ani nhận thấy đĩa của mình có nhiều hơn thường lệ. Cô cảm thấy lo lắng, cả về dự định nhờ những người làm công giúp đỡ lẫn việc phải đối mặt với những người Kildenree lần nữa, nhưng cô phải cố làm dịu dạ dày đang sôi lên và ăn thật nhanh.
Trong lúc họ ăn, nhiều người lại gần Finn. Vài người nhận ra Finn trong phiên chợ, họ hỏi anh ở đâu và bán thứ gì. Finn trả lời các câu hỏi của họ và anh làm Ani sửng sốt khi tỏ vẻ hài lòng vì được chú ý, đặc biệt từ Enna. Anh thích thú với những gì cô nói hơn là đĩa thức ăn và không ngại ngùng chút nào khi cô chạm vào vai anh.
Khi Ani ăn hết đĩa của mình, cô nhận ra nhiều người làm công đang đem về những cây móc và gậy, đội nón lên, trong khi những người khác chuẩn bị hành lý và rù rì gì đó với nhau.
“Có chuyện gì thế?”, Ani hỏi.
“Mọi người sẽ đi với cô, Isi! À không, thưa… thưa tiểu thư!”. Razo ưỡn ngực, nắm cây gậy đưa ra phía trước bằng cả hai tay. “Mọi người sẽ bảo vệ cô, trong truyền thống gìn giữ hòa bình, tự nguyện và không cần yêu cầu, luôn sẵn sàng với gậy trong tay!”.
Ani đứng dậy.
“Chúng tôi trở về để mong cầu sự giúp đỡ của mọi người. Vậy mà trước cả khi tôi mở lời, mọi người đã sẵn sàng chờ ở cửa!”.
“Đừng ngạc nhiên thế chứ!”, Enna nói, “Giờ cô nên biết rằng những người từ vùng Forest đều rất can đảm và trung hậu. Một cây thông liệu có đuổi chim ra khỏi tán cây hay đuổi rong rêu khỏi vỏ cây không?”.
“Vậy tôi là rong rêu trên vỏ cây mọi người sao?”, Ani bật cười.
Enna ôm lấy eo cô lắc đi lắc lại.
“Công chúa, cô là cây rêu đúng nghĩa nhất mà tôi được biết đấy!”.
“Cảm ơn mọi người vì đã sẵn lòng giúp đỡ. Nhưng trước khi chúng ta đi, tôi muốn mọi người hiểu rõ sự nguy hiểm. Nhóm người Kildenree và nàng công chúa giả kia đã thảm sát phân nửa toán hộ vệ đồng hương. Đây không phải là một trò chơi!”.
“Chà, chúng tôi vẫn sẽ làm thôi!”, Beier nói.
“Mọi người sẽ cùng đi với cô!”, giọng Enna chắc nịch, “Những người từ vùng Forest là người thế nào chứ?”.
“Nhưng…”, Ani đáp.
Enna đưa tay lên cản.
“Isi này, tôi biết cô lo lắng sẽ có người bị hại và cô nghĩ rằng đó là lỗi của cô. Đừng thế! Mọi người đều hiểu sự nguy hiểm. Nhưng chúng tôi là dân xứ Bayern, không ai lùi bước trước trận chiến cả!”.
Một vài người làm công nện đầu gậy xuống sàn. Ai đó hét lên: “Vì Bayern!”.
Ani bật cười, lắp bắp và cuối cùng mới nói được: “Cảm ơn mọi người!”.
Talone gật đầu, bước lên trước.
“Tốt rồi. Mọi người hãy nghe này!”. Sự chú ý chuyển về phía ông. Mấy cậu bé đứng thẳng dậy và ưỡn ngực như thể họ là binh đội chính quy vậy. “Bọn hộ vệ của kẻ giả danh sẽ muốn giết chúng ta trước khi ta có thể vào được hoàng cung. Nhiệm vụ của các bạn là bảo vệ công chúa. Đừng đánh, trừ phi chúng tấn công các bạn, và đừng rời khỏi cô ấy. Mục tiêu của chúng ta là đến được chỗ đức vua. Thật tốt là chúng ta đông người. Chỉ ba chúng tôi thôi thì có lẽ chúng sẽ quăng chúng tôi qua một bên và xé rách cổ chúng tôi trước khi đức vua có thể nghe được câu chuyện!”.
“Việc thuật lại câu chuyện sẽ là nhiệm vụ của tôi!”, Ani nói, “Nếu đức vua không tin, mọi người hãy quay lại đây, đừng gây ra điều gì. Tôi muốn mọi người trở về bình an!”.
Enna quay qua cô. “Tôi sẽ không để cô một mình đâu, tôi đã nói là không!”.
“Tôi nghiêm túc đấy, Enna. Nếu đức vua không tin, chuyện sẽ không hay đâu!”.
“Rồi ta sẽ thấy thôi!”, Enna cứng cỏi.
Ani định mở miệng nhưng Talone nắm khuỷu tay cô. “Công chúa”, ông thì thầm.
Cô gật đầu.
“Với những ai đã sẵn sàng, đến lúc chúng ta khỏi hành rồi!”.
Ani dẫn đầu đoàn người.
Đi trước đám đông trang bị gậy gộc trong bộ quần áo xanh màu lá và khăn trùm đầu cũng màu lá, cô có cảm giác mình như là chú chim báo hiệu mùa xuân hơn một người chỉ huy hay công chúa. Đội quân bé nhỏ gồm những người coi sóc gia súc trong những đôi ủng lấm lem, tay nắm chặt gậy và nhìn quanh với sự lo lắng pha chút tự hào. Talone mang theo thanh kiếm, mắt ông ánh lên màu thép, mái tóc ông điểm bạc, dáng ông rắn chắc như thể bước ra từ những bức tường thành đá. Ông sải bước bên Ani và quan sát con đường một cách cẩn trọng như thể ông đã từng trông coi cánh cổng tây của hoàng cung vậy. Không ai nói gì. Ani thấy gánh nặng trách nhiệm về sinh mạng của họ như áp lực của con gió đè lên lưng. Cô chẳng phải nữ hoàng cũng không phải tướng lĩnh, nhưng họ đã theo cô.
Một bức tường bao quanh cung điện, trên đỉnh được gắn những chấn song nhọn trông như răng nanh, những phiến đá trên nó bị cháy xém từ những trận đánh trong quá khứ. Cánh cổng cung điện đang mở, có vẻ như đức vua không hề sợ bị xâm lấn khi quân đội của ông đang xâm chiếm nước khác. Có mười hộ vệ đang trong phiên gác khi nhóm người của Ani tiến đến.
“Chúng tôi đến đây để xin diện kiến đức vua”, Ani nói.
Tên lính gác đứng trước lắc đầu.
“Không thể được!”.
“Chúng tôi có điều muốn tâu về cuộc chiến. Chúng tôi đã phát hiện ra những thông tin thiết yếu liên quan tới cuộc chiến tranh với Kildenree. Xin anh hãy để chúng tôi qua, hoặc chí ít hãy gửi lời trực tiếp đến đức vua!”.
“Không thể làm điều đó được”, viên lính canh gằn giọng. “Các người ròi khỏi đây nhanh lên!”.
Ani ước – không phải lần đầu tiên như thế – rằng cô được sinh ra với tài năng thuyết phục người khác. Ani chắc rằng Selia có thể qua được những tên lính kia chỉ với một vài từ mê hoặc. Cô thấy Talone nắm chặt chuôi kiếm. Cô sẽ không giết những người lính canh cung điện hoặc để những người làm công mạo hiểm với một cuộc cãi vã vô ích thế này.
“Xin hãy làm on!”, cô nói, ngụ ý với tất cả những lính canh đang chặn ở cửa ngõ, “Ai trong các anh cũng được, chỉ cần gửi cho đức vua một thông điệp thỉnh nguyện. Rằng chúng tôi xin diện kiến đức vua!”.
“Không thể được”, tên lính vẫn chẳng chút nao núng.
Một cơn gió khẽ khều vào tai Ani, gợi ý cách vượt qua. Cô lắc đầu. Một cơn gió giống như cơn đã hình thành nơi cánh đồng chăn ngỗng chống lại Ungolad có thể thổi ngã vài tên lính, nhưng cần phải nhiều hơn thế để chiếm được vị trí của những lính canh này. Sau trò biểu diễn hô mưa gọi gió, chắc cô sẽ bị nhốt trong xà lim dưới hầm cung điện, lắng nghe những con gió qua những chấn song mang theo tin tức về cái chết ở Kildenree.
“Vậy chí ít hãy cho tôi biết điều này…”.
“Cũng không thể cho cô biết gì cả!”, tên lính bướng bỉnh.
“Kẻ nào đang nói giọng của vùng Forest mà cứ không thể, không thể thế hả?”.
Một người làm công bước lên từ giữa đám đông. Anh ta là Offo, một trong những người chăn cừu lớn tuổi, chưa từng nói gì với Ani. Cô đã tự hỏi sao anh lại tháp tùng cô. Với một chút lo sợ, cô đợi nghe Offo sẽ nói gì.
“Ratger đấy phải không? Nhìn kìa Beier, đó là Ratger, từng là thằng nhóc chăn heo của chúng ta đấy!”.
Beier gật cái đầu bờm xờm của mình và giữ vẻ bình thản, chẳng mấy quan tâm.
“Tôi nghe nói anh của nó lấy được một cô gái trong thành, thế rồi thằng nhóc chăn heo chuyển vào đó sống với họ, được trao cho mũi giáo, tấm khiên hồi lễ hội Mặt trăng mùa đông gần ba năm trước!”.
“Thôi ngậm miệng đi, Beier!”, tên lính canh Ratger nói, “Tao phải làm nhiệm vụ. Nếu có kẻ mặc áo nhưng vẻ mặt con buôn tới cánh đồng của mày và nói Làm ơn cho tôi một con heo, mày hẳn cũng sẽ bảo nó nhét cục than vào miệng mà nuốt trọng đi thôi!”.
“Nhưng nếu anh ta là một người bạn cũ và nhờ tao gửi cho con heo một tin nhắn theo cách thật dễ thương, tao sẽ làm với nụ cười trên môi!”.
Môi của Offo cong lên với một nụ cười cường điệu quá mức, để lộ hàm răng lớn và vuông vức như của một con la. Ratger đảo mắt, dậm chân hai lần một cách cáu kỉnh. Anh ta chẳng còn dáng vẻ của một lính canh cam chịu nữa.
“Nghe đây, Ratger!”, Razo nói. Cậu bước tới, tay cầm một cành thông thẳng và cổ bạnh rộng, gằn rõ từng chữ từ thân hình thấp bé của mình. “Đây là cô gái chăn ngỗng, người đã chống lại năm tên trộm cao to để bảo vệ đàn ngỗng một mình. Cậu đã bao giờ từng làm chuyện gì tương tự chưa? Đức vua muốn tôn vinh cô ấy, cậu biết đấy, và ngài sẽ không vui nếu biết rằng cậu đã ngăn cô ấy nơi cửa như thể cô ấy là hạng đầu trộm đuôi cướp cùng với vẻ ta đây của cậu!”.
Ratger liếc nhìn nụ cười châm biếm của Offo và thở dài.
“Thôi cái nụ cười đểu cáng ấy đi, Offo. Tôi không thể đưa các người đến chỗ đức vua. Và tôi cũng không thể chuyển lời. Ngài thậm chí chẳng có ở đây. Mọi người đều đi cả rồi, hành quân cùng quân đội, cũng như chuẩn bị làm đám cưới cho hoàng tử ở nơi nào đó”.
“Nơi nào?”, Ani hỏi dồn.
“Tôi không biết”, Ratger nói với vẻ mỉa mai trên môi, “Không biết làm sao hoàng tử quên mời tôi đi dự đám cưới!”.
“Tatto!”, Enna bất chợt chỉ về phía xa trong sân cung điện, nơi một thị đồng nhỏ đang bước thong dong trong bóng chiều, đong đưa một cái sọt rỗng.
“Tatto!”. Ani cũng hét lên qua vai những lính canh.
Cậu quay lại, thấy nhóm người làm công đang tập trung ở cánh cổng liền nhảy cẫng lên chào họ bằng một nụ cười.
“Đến gặp đức vua, đồ ngốc ạ!”, Enna đáp, “Đức vua đâu?”.
“Tôi không biết, nhưng không phải vì tôi chỉ là một đứa học việc đâu, mà bởi vì không ai thật sự biết điều đó. Tôi chỉ nghe loáng thoáng nơi đó hẳn phải ở một căn nhà ở vùng thôn quê, đủ lớn cho một đám cưới và nằm trên đường ra chiến trận. Tôi đoán họ không mong muốn những vị khách không mời xuất hiện”. Cậu nhìn đám đông một cách ma mãnh, khiến họ hiểu rằng họ cũng là những khách không mời.
“Tôi cần cậu giúp”, Ani nói.
Cậu khoanh tay nhìn cô. “Cô có thật sự là người mà tất cả bọn họ…”, cậu bé phất tay về đám đông người làm công, “… nói về không?”.
“Đứng thế!”, Ani trả lời.
“Tôi cũng nghĩ thế. Tôi kể với bố, rằng cô gái chăn ngỗng không chịu gặp đức vua. Cô ta hẳn phải đang giấu điều gì đó, rằng cô gái chăn ngỗng với cây gậy gãy đôi, với đôi bàn tay xinh xắn…”, Tatto bỗng đỏ mặt và cúi gằm xuống.
“Ratger, có phải anh được lệnh không nói gì với tôi không?”, Ani hỏi.
Ratger liếc nhanh về phía Offo và nhìn Ani. “Cô muốn gì?”.
“Anh có thể cho tôi biết tên của tể tướng không?”.
“Thiaddag”, Ratger đáp.
“Phải rồi. Nhưng có một người tôi đã gặp khoảng sáu năm về trước khi ông đến Kildenree. Ông có còn sống không?”.
“Vậy đó là Odaccar”, một người trong đám lính canh nói, “Ông ta đã từ quan rồi, bỗng dưng bệnh tật gì đó, đại loại thế!”.
“Đúng rồi”, Ratger tiếp lời, “Ông ta đang ở khu phục dịch, bên kia khu nhà từng là chỗ để xe ngựa”.
“A…”, Ani đáp, bắt đầu cảm thấy tí gì đó nhẹ nhõm. “Tatto, tôi cần cậu phải thật nhanh. Chạy đến chỗ Odaccar. Nói với ông ấy tôi là ai, nói ông ấy rằng tôi đang đợi ở đây, chờ được cho qua cổng và muốn gặp ông ấy”.
Cô quay lại Ratger: “Nếu ông ấy cho gọi tôi, tôi được qua đúng không?”.
Tên lính gật đầu, và Tatto chạy đi.
Khi cậu quay trở lại, những lính canh để Ani, Talone, Finn và Enna qua cổng. Những người khác được yêu cầu ở lại. Ani bước vài bước vào trong sân khi nghe Ratger hỏi vọng phía sau: “Giờ thì Offo, nói cho tôi biết cô ta là ai?”.
Tatto dẫn bốn người vào bên trong sân, dọc theo bức tường bao ngoài, nhấn mạnh rằng dẫn họ đi qua cung điện sẽ làm mất đi sự sạch bóng của sàn nhà. Rồi họ đi lên những bậc thang của dãy nhà từng là nơi để xe ngựa. Hành lang trắng được sắp thành hàng với những cánh cửa gỗ thông tự nhiên, hầu hết đều được mở, để lộ ra những phòng ngủ nhỏ, sạch sẽ. Trên mỗi chiếc ghế của từng phòng là khuôn mặt mờ ảo của những người hầu trong lâu đài, các nữ quản gia, những tổng quản, những bầy tôi cấp cao, đang ngồi nhìn ra khung cửa sổ về phía khoảng sân tĩnh lặng. Tóc họ đã bạc trắng như quần áo tang và đôi mắt vô hồn, trông chờ cái chết. Một người phụ nữ quay về phía họ khi họ đi ngang cánh cửa phòng bà. Ani gật đầu. Người phụ nữ quay trở lại với khung cửa sổ.
Gần cuối dãy phòng, họ tìm thấy phòng của viên tể tướng ngày xưa. Ông cũng thế, ngồi trên chiếc ghế và nhìn qua khung kính cửa sổ, nhưng khi ông quay về phía tiếng động nơi cửa, nét ưu tư lộ rõ trên hàng chân mày và đôi mắt ông ánh lên vẻ tò mò. Cô nhớ rằng lần đầu tiên được nghe giọng người Bayern là từ chính miệng ông, cách từng từ ngữ có vẻ như đan lại với nhau, từ nọ nối tiếp từ kia tạo thành một chuỗi đều đều. Cô đã thấy thích thứ âm thanh đó. Giờ cô phải nhắc nhở chính mình, để chắc chắn rằng cô nói với ông bằng chính giọng của người Kildenree.
“Thưa ông, cháu từng được gặp ông khi còn là một cô bé và ông đã đến thăm vương quốc của mẹ cháu”.
Ông gật đầu, chân mày cau lại.
“Cô không phải người mà ta đã gặp cùng với hoàng tử”. Ông xua tay như muốn diễn tả mọi thứ cùng lúc. “Chúng ta đã sửa soạn một đám cưới, ta nhớ điều đó. Nhưng một cô gái khác cưới hoàng tử cơ…”. Ông nhún vai. “Cả hai cô trông từa tựa như nhau”.
Ani chờ ông cho phép để ngồi xuống mép giường và thuật lại câu chuyện về mưu đồ, về những kẻ sát nhân và về cuộc chiến. Người đàn ông lớn tuổi lắng nghe một cách chăm chú, xen vào những câu hỏi và đón nhận những câu trả lời với những vết nhăn hằn sâu trên trán.
“Đó là sự thật, thưa ông!”, Talone nói. “Tôi là nhân chứng cuối cùng của vụ thảm sát!”.
“Và cháu đã thấy hộ vệ của công chúa giả kia cố giết cô gái tóc vàng này những hai lần”, Enna thêm vào.
Viên tể tướng tặc lưỡi.
“Chiến tranh. Đó là thứ đã giết đức vua quá cố và hai người con khác vài năm trước. Đó là điều mà hoàng hậu duyên dáng kia và ta đã cố gắng tránh. Chúng phủ xuống đầu chúng ta như vô vàn loài chim ưng sát thủ. Không thể chịu được chiến tranh. Hừm, nhưng Thiaddag giờ đây không giống thế. Lão thích những thứ như vậy. Không cảm thấy thỏa mãn với chúng. Ăn hết chúng như ăn bánh mâm xôi tráng miệng. Và các người biết ta nghĩ thế nào về Thiaddag không…”. Ông liếc nhìn mọi người, thè lưỡi.
“Họ đã đi về phía bắc”, Ani nói, “Về phía khe núi để xâm chiếm Kildenree. Trong ba ngày nữa, hoàng tử và Selia sẽ cưới nhau. Ông có biết liệu họ đang ở đâu không?”.
“À, phải rồi, miền bắc, đám cưới… Họ sẽ đi đến điền trang ở hồ Meginhard. Chính đức vua đã tổ chức lễ cưới của ông ở đó. Ta đã có mặt. Điều đó đã trở thành truyền thống rồi. Lẽ ra ta không nên lấy làm ngạc nhiên!”. Ánh mắt ông ánh lên những kỷ niệm, đôi môi mấp máy nụ cười.
Ani thở dài. “Hồ Meginhard. Tốt. Chí ít chúng ta cũng biết là ở đâu!”. Cô quay lại nhìn Enna: “Ta có thể đến đó trong ba ngày không?”.
Enna nhún vai. nơi duy nhất cô biết ngoài vùng rừng Forest là kinh thành này. Ani có thể thấy hàm của Talone nghiến lại một cách lo lắng rằng ông không biết địa hình đủ rõ để đưa ra câu trả lời.
“Ba ngày…”, Odaccar nhắm nghiền mắt, như đang cố hình dung ra bản đồ trong đầu. “Đi bộ thì các người có thể đến đó trong ba ngày, có thể là bốn…”.
“Như thế không được!”, Ani chồm về trước và chạm vào tay Odaccar, “Thưa ông, chúng cháu cần có ngựa. Chúng cháu phải đến đó kịp lúc để ngăn cản đám cưới và cuộc chiến. Nếu không những người như Thiaddag sẽ đạt được mưu đồ…”.
Odaccar cau mày.
“Ông đã từng nắm quyền lực lớn nơi vương quốc này. Ông có bạn bè ở khu chuồng ngựa không? Có thể tìm ngựa cho chúng cháu không?”.
“Ta sao? Không, chúng nghĩ rằng ta đã già và vô dụng!”.
“Làm ơn…”, Ani cố không bỏ cuộc, “Chúng cháu không có đủ tiền để mua ngựa. Chúng cháu cũng không đủ thời gian để tìm cách trộm chúng. Cháu phải đến được hồ Meginhard trong thời gian ít hơn ba ngày, và cách duy nhất để có thể làm điều đó là tìm được ngựa ngày hôm nay, với sự giúp đỡ của ông. Ông có nghĩ ra cách nào giúp chúng cháu không ạ?”.
Odaccar vò trán.
“Cũng có thể!”, rồi ông mỉm cười, những nếp nhăn giãn ra thành những đường cong dài dễ chịu, “Có thể nếu họ không biết rằng đó là ta”.
Ông đứng dậy cạnh chiếc bàn nhỏ và lục tìm một tấm giấy da, sai Enna thêm nước vào lọ mực. Bốn người đứng cạnh, xoa tay lo âu khi ông viết nguệch ngoạc trên giấy nhũng nét đậm, cẩu thả bằng một cây viết lông ngỗng te tua. Ông làm một con dấu với cái tay nắm bạc của ngăn kéo nhỏ và phẩy nó trong không khí.
“Cá rằng chúng không biết ta giữ một thứ như thế này!”. Ông ký tên, đóng dấu cuối bức thư.
“Giờ thì, nó là lệnh bài cho các người để có được lũ ngựa. Ta không nghĩ rằng tên tổng quản chuồng ngựa hay hoạnh họe đó dám hỏi xem tể tướng nào đã ký bức thư này”.
Ani nắm lấy tay ông đầy vẻ biết on.
“Ông đã làm một việc thật cao thượng, thưa ông!”, Talone nói.
Odaccar cười lớn, vỗ vào bụng. “Được nhờ cậy là điều tốt, ta nghĩ thế!”. Những nếp nhăn quanh đôi môi và mũi ông tập trung lại như thể chúng hiện diện chỉ để đỡ lấy nụ cười.
Enna cầm tấm giấy da khô. Ani nhờ cô cùng Finn đi tìm người tổng quản chuồng ngựa. Trong lúc đó, Ani nài nỉ Tatto đưa cô và Talone đến cung điện của Selia.
“Cần phải thế, Talone. Nếu chúng ta có thể đến được hồ Meginhard kịp lúc, chúng ta cũng không thể xin diện kiến đức vua trong bộ đồ chăn ngỗng này. Tôi chỉ cần một trong những bộ váy cũ từ tủ quần áo của Selia. Rồi tôi có thể đóng vai công chúa Napralina-Victery và đám hộ vệ có thể đưa chúng ta qua khỏi những cánh cửa”.
“Chờ đã, chờ đã, Isi!”, Tatto lắp bắp, “Cô có biết lẻn vào phòng công chúa là điều nghiêm trọng thế nào không, nhất là với một thị đồng đã tuyên thệ như tôi, người sẽ được nhận tấm khiên và mũi giáo trong hai năm nữa?”.
“Tôi phải lấy một bộ váy phù hợp, Tatto, không thì họ sẽ chẳng bao giờ tin tôi là em của công chúa đến dự đám cưới. Với lại, đó thực ra là phòng của tôi, đúng không nào? Đưa công chúa đến phòng của nàng có trái lại lời thề của cậu không?”.
“Nhưng nếu mọi người bị bắt và họ không tin rằng cô là công chúa…”.
“Chỉ cần nói với họ là tôi đã bỏ bùa cậu!”, Ani đáp. Mắt cô mở to hơn, môi cô mím lên trêu chọc. Dù căn phòng không có gió, Ani vẫn nhận thấy một làn gió nhẹ khiến viền áo, ống tay và đầu khăn choàng sột soạt một cách vô hình. “Chẳng khó để mọi người tin điều đó đâu!”.
Tatto nuốt khan, gật đầu. Talone chăm chú nhìn, và Ani ngượng ngập thả cơn gió đi.
“Tôi có từng kể với ông rồi mà…”, cô nói với Talone.
“Tôi cứ tưởng công chúa chỉ ẩn dụ thôi…”, ông mỉm cười lắc đầu, “Nếu hoàng hậu thấy công chúa…”.
Không ai nghi ngờ khi họ đi qua cung điện, dù cậu thị đồng lau bàn tay ướt đẫm mồ hôi hết lần này đến lần khác, hồi hộp sợ bị túm lại quẳng vào ngục tối. Cuối cùng, cậu ra hiệu về phía một dãy cửa, chỉ cho họ biết và rút lui khỏi hành lang.
Những cánh cửa nặng gấp đôi, làm bằng gỗ hồ đào sẫm, viền của chúng chạm trổ những dây leo và những bông hoa hé nở. Tay nắm bằng đồng thau mở ra và họ vào được bên trong.
Một khung cửa sổ dài hướng ra khoảng sân bên dưới, trải đầy ánh sáng vào căn phòng. Trường kỷ bằng gỗ sẫm với nệm nhưng mỏng, những ngọn chúc đài treo lủng lẳng óng ánh sắc pha lê, những tấm thảm dày in dấu ủng của Ani khi cô bước đi, các bức tường sơn màu gụ và màu cam thẫm, những tấm thảm thêu hình động vật hoang dã với đôi mắt và cặp sừng thêu chỉ vàng, nhiều tấm màn dệt lạ lùng với đủ loại màu sắc tự nhiên trên cửa sổ, mùi sáp ong tinh khiết và tinh dầu hoa hồng phảng phất. Ani chìm đắm trong sự sang trọng quen thuộc, như bị dìm xuống nước không thể thở nổi.
Đây lẽ ra là phòng của mình, cô nghĩ.
“Ông ở đây một lát được không Talone?”, Ani nói. Cô rời phòng chính vào phòng thay đồ và tìm thấy tủ quần áo đầy ắp những chiếc áo choàng. Chúng tỏa ra mùi thơm của đinh hương và oải hương. Không phải tất cả những bộ váy cô mang theo từ Kildenree đều được treo nơi móc áo thép. Bộ váy màu vàng và trắng lộng lẫy nhất đã không còn, đó là bộ đã được người thợ may giỏi nhất chuẩn bị cho cô mặc lúc làm cô dâu. Ani tháo bộ váy có màu xanh nhạt của hồ nước, bộ đã được nhuộm cho hợp với màu mắt của cô, ướm trước ngực rồi nhìn vào tấm gương dài. Cô nghĩ, mình trông như một cô gái chăn ngỗng nâng một chiếc váy tưởng tượng.
Ani tháo khăn trùm đầu và để nó rơi xuống sàn. “Ta sẽ không lẩn trốn nữa”, cô nói với bóng mình trong gương. Hai bàn chân, một trong gương và một là bàn chân thật gạt tấm khăn choàng sang một bên. Tóc cô đang buộc cao giờ gỡ ra, thả rơi xuống. Cô nhặt một cái lược của Selia – thật ra là cái lược của chính cô. Nó được mạ bạc, có khuôn mặt của một chú ngựa và một núm tròn cứng trên cán. Cô chải những lọn tóc rối cho đến lúc chúng thẳng ra. Mặt trời đang chìm dần ở hướng tây, chiếu những tia sáng màu cam rực rỡ từ chân trời lên mái tóc cô. Cô di chuyển và nó lóe lên những tia vàng trong ánh sáng.
Ani ướm chiếc váy lên mình, những tia nắng hoàng hôn làm mắt cô sáng lên. Khuôn mặt cô như một đóa hồng vàng, lộng lẫy hệt như mẹ.
“Nhưng khác!”, Ani thì thầm. “Không phải mẹ. Là chính mình. Ani. Isi!”.
Cô cẩn thận gấp chiếc váy màu xanh, bọc nó trong tấm vải lanh mà cô tháo khỏi buồng ngủ của công chúa. Cô chỉ nhanh chóng nhìn một cách ghen tỵ tấm nệm dày hai gang tay và để cơ thể mình khát khao cảnh tượng đó trong giây lát. Tấm lưng và đôi chân cô vẫn còn in hằn từng thanh mỏng trên chiếc giường nhỏ ọp ẹp những tháng ngày qua.
Ani vừa phát hiện ra đôi dép làm bằng da bê nhuộm màu xám của vỏ sồi thì nghe thấy từ phòng ngoài tiếng kim loại chạm nhau chói tai. Cô hé nhìn qua cánh cửa. Talone đang đứng giữa phòng, thanh kiếm đã tuốt, phía trước ông là Ishta.
Ishta đóng cánh cửa phía sau hắn và khóa nó bằng một tiếng lách cách đáng lo ngại. Hắn cười.
Ani nhớ đến mùi hôi thối từ miệng hắn khi hắn nắm tay cô đặt lên môi trong dịp lễ hội Mặt trăng mùa đông. Ta sẽ cắn đứt một ngón tay, và hàm răng hắn, màu nâu lổn nhổn, tạo nên ấn tượng rằng hắn thối rữa từ trong ra ngoài.
“Ta thấy ngươi còn sống cơ à?”, Ishta nói. Mắt hắn nhìn vào người đội trưởng cũ. Hắn tuốt kiếm khỏi bao và vung nó dưới sánh sáng mặt trời, phản chiếu những tia nắng lên gương mặt Talone. “Đáng yêu làm sao. Ta yêu cái giấc mơ lặp đi lặp lại, để ta được giết ngươi hết lần này đến lần khác!”.
“Ishta”, Ani nói.
Hắn nhìn thấy cô và cặp chân mày nhướng lên, ngạc nhiên nhưng không tức giận.
“Vì danh dự, thưa công chúa!”, Talone nói, “Tôi xin được đấu với hắn một mình!”.
Ani hiểu rằng ông không mong đợi một con gió sẽ thiên vị cho ông trong cuộc đấu này, và cô gật đầu.
“Phải rồi, không cần giúp đâu, công chúa bé nhỏ!”, Ishta nói. “Vị tướng quân tốt bụng đây muốn được chết trong riêng tư!”. Hắn nhếch mép cười nhạo Talone.
“Ta hi vọng mi không thấy giận việc ta giết Dano cái hôm trong khu rừng. Ta nhớ rằng những gì Dano có thể dùng tự vệ là một con dao làm bếp. Mi tạo nên một thứ thối tha thế sao. Hừm, ta chỉ cảm thấy thỏa mãn khi Ungolad đâm xuyên mi!”.
Cơn giận của Talone không hiện trên gương mặt ông. Ông nắm chặt chuôi kiếm và nhún chân một lúc, như thể kiểm tra độ chắc của sàn nhà. Rồi lưỡi kiếm của ông đưa lên, vung qua những tia nắng mặt trời và chém mạnh xuống Ishta. Kiếm của hắn giương ra phía trước, nụ cười chuyển thành vẻ giận dữ. Ishta đáp trả nhát kiếm, tiếng kim loại rung lên, như tiếng chuông của sự chết chóc. Không ai nói gì. Đây chẳng phải trò chơi của những chiến binh trẻ nhằm kiểm tra sức mạnh hay thể hiện mình. Đây là cuộc chiến với kết thúc là cái chết, mỗi đấu sĩ phải quan sát ánh mắt đối thủ, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Lưỡi kiếm của họ chất chứa một ý chí kinh khủng. Với mỗi nhát kiếm, kẻ kia hi vọng sẽ đâm trúng da thịt người này. Mỗi nhát, hai thanh kiếm lại chạm nhau, âm thanh kim loại vang rền tạo nên một thứ giai điệu tinh quái. Ani không thể kiềm chế, đôi chân cô run lên, nhưng cô không dám ngồi xuống. Sức mạnh của cú đánh từ Ishta đẩy Talone ngã xuống. Hắn giữ ông sát xuống sàn, lưỡi kiếm của hắn ép dần vào cổ ông. Ishta liếc lên Ani, và trong tích tắc đôi mắt hắn như muốn nói: Kế tiếp sẽ là ngươi!
Talone đẩy mạnh tên lính về phía sau. Một chiếc bàn với chân đỡ mong manh vỡ vụn ra, đổ sụp dưới sức nặng của hắn. Talone nhanh chóng đứng dậy trước khi lưỡi kiếm của Ishta vung lên cao tấn công ngược lại. Tên lính có ánh lửa trong mắt. Hắn thét lên giận dữ với mỗi nhát kiếm phản công, lặp đi lặp lại đến khi hắn đẩy thanh kiếm với toàn bộ sức mạnh về phía ngực Talone. Talone tránh được nhát kiếm bằng cả thân người. Ishta đã vung một nhát quá mạnh, nghĩ rằng lưỡi kiếm sẽ bị chặn lại bởi Talone. Sức nặng của thanh kiếm và quán tính đã đẩy hắn về phía trước, làm hắn vấp ngã. Talone xoay người, nhẹ nhàng như một con chim ưng đang lao xuống, đâm mũi kiếm xuyên qua người Ishta. Xuyên qua lưng hắn vào tận tim, như cách Ishta đã làm trong rừng với người lính trẻ Adon nhiều tháng trước. Ishta há hốc mồm và thở hắt, đập mặt xuống sàn, không cử động nữa.
“Talone”, Ani gọi.
“Hắn đã giận dữ…”, hơi thở của Talone nặng nề, “Lẽ ra hắn không nên đấu với tôi khi đang giận dữ!”.
Talone kéo cái xác ra sau một chiếc trường kỷ thấp. Nơi Ishta ngã xuống có một vũng máu nhỏ, màu máu đỏ sẫm trên mặt sàn gỗ sậm màu hơn, như trăng non trên nền trời đen kịt. Talone ngồi trên mép một chiếc ghế chân chim thanh nhã và nhìn vào vũng máu sậm.
Người đàn ông này, Ani nghĩ, nên có một mái ấm và một cậu con trai bụ bẫm trên lòng, không phải với một thanh kiếm nhơ bẩn.
“Ông ổn chứ?”.
“Tôi không thích giết chóc!”.
Ani đứng cạnh chân của cái xác, ôm gói đồ vào ngực. “Ta có nên che hắn lại không?”.
“Không, cứ mặc kệ hắn!”, Talone nói.
Ông đứng dậy và đổi thanh kiếm được rèn ở vùng Forest với thanh kiếm đúng nghĩa hơn của kẻ đã chết, giống thanh kiếm ông đã từng đeo khi là hộ vệ của công chúa.
“Đến lúc đi rồi”.
Họ bỏ Ishta lại, kẻ sẽ được phát hiện lúc nào đó bởi một hầu phòng không may, và đóng cánh cửa phía sau lưng.