Ani không thể di chuyển, hai chân nàng công chúa bé nhỏ nặng trịch như đeo đá. Cô cúi đầu căng thẳng, lắng nghe tiếng tiếng váy của Selia sột soạt, tiếng dòng người thỉnh cầu đang di chuyển trong tư thế cúi đầu. Khi những người phụ nữ đó rẽ sang hành lang khác, Ani ngẩng đầu lên, thấy một thị nữ của đức vua đang ra hiệu cho cô bước vào.
Selia đang ở đây, trong cung điện của ta, mặc trang phục của ta.
“Vào đi, đến lượt cô đó”, thị nữ nói.
Selia đang ở đây, điều đó chứng tỏ cô ta đã giết hết bọn họ – Talone, Adon, Dano, Radal, tất cả.
“Bước nhanh nào cô gái. Còn một hàng dài đến tận ngày mai cơ!”.
Ani nín thở bước vào trong. Đó là một căn phòng dài và hẹp có một cửa sổ trên trần đổ những tia nắng chói lọi xuống sàn nhà lát cẩm thạch màu xám. Ani muốn ngắm nhìn sự chói lóa xa hoa này. Nhưng hình ảnh Selia cứ hiện diện trong tâm trí cô, như thể đang ngắm ngọn lửa sáng rực thì đột ngột quay sang bóng tối vậy. Cô bước về phía trước mà hầu như không nhìn thấy gì.
Ani biết có lính canh ở mỗi góc hành lang và bên cạnh mỗi cột nhà sáng loáng kia nhưng cô không để mắt tới họ. Ungolad chỉ có thể ở đâu đó bên cạnh Selia. Thuộc hạ của hắn ta đang ở trong thành phố tìm kiếm cô, còn cô thì đã đến được cung điện của nhà vua, chú chuột sắp với được miếng pho mát rồi, cô sẽ thông báo về nhân thân của mình trước họ, mời họ cứ thử làm cái việc đơn giản là giết chết cô như những người đồng hành của cô. Ani dừng lại, e sợ rằng nếu tiếp tục di chuyển thì cô sẽ bỏ cuộc mất.
“Lại gần đây chút nữa, cô gái!”, đức vua lên tiếng.
Đức vua là một người đàn ông to lớn. Ông có vẻ rất cao, ngay cả khi đang ngồi. Đôi tay to và khỏe của ngài đặt trên chiếc ghế bành được chạm trổ tinh vi. Ani tưởng tượng rằng nếu cần, ngài vẫn có thể cầm gươm ra chiến trường. Ngài có vẻ mệt mỏi nhưng dễ gần, có lẽ bởi vẻ do dự, e dè của cô. Ani tiến thêm vài bước và nhún chân cúi chào một cách cung kính nhất – cách cúi chào chỉ áp dụng cho nghi lễ hoàng gia cô vốn được dạy dỗ cách đây nhiều năm. Không người thầy nào có thể chuẩn bị tinh thần cho cô về cuộc gặp gỡ kỳ lạ này, cuộc gặp gỡ một vị vua, nhưng trong trang phục của thường dân, đi ra từ trong rừng với đôi bốt mượn của một chàng trai, đôi lông mày vẽ bằng than củi và một giọng nói bắt chước.
“Lòi thỉnh cầu của cô là gì?”, người thị nữ nhắc.
“Tôi_ không biết!”, cô nói với giọng rất nặng của người sống ở vùng rừng thẳm. Ngu ngốc, thật là ngu ngốc. Ani tự mắng bản thân mình. Cô không thể để lộ thân phận với đức vua bây giờ được bởi cô biết Selia đã thành công trong việc xâm nhập vào cung. Cô có chứng cứ gì chứ? Một khi cô nói ra, tất nhiên đức vua sẽ gọi Selia đến để giải thích. Selia và tất cả những tên lính gác sẽ phủ nhận câu chuyện của cô và Ani sẽ bị tống vào tù vì tội mạo danh hay tệ hơn sẽ được thả ra như một kẻ điên và ngay lập tức rơi vào tay của Ungolad. Không có sự lựa chọn nào cả. Ani cảm thấy mất phương hướng.
Đức vua thở dài: “Cô mới đến thành phố này?”.
“Vâng, thưa bệ hạ”.
“Cô có nơi nào để ở chưa?”.
“Dạ chưa ạ!”, cô thú nhận.
“Cô có thể làm gì?”.
Nghĩ đến việc có thể tìm thấy Falada, Ani trả lời một cách đầy hi vọng: “Tôi có thể làm việc với những chú ngựa”.
Đức vua ra hiệu cho một viên cận thần đang đứng bên phải ngài.
“Giờ không cần thêm người làm việc ở chuồng ngựa thưa bệ hạ!”.
Viên cận thần là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt xương xương. Ông nhìn một mảnh giấy da dán trên tấm bảng nhỏ. “Tuy vậy, cậu bé chăn ngỗng đang rất đơn độc và lẻ loi với bầy ngỗng năm mươi con”.
“Tốt”, đức vua ra hiệu cho Ani đi theo viên cận thần ra khỏi phòng.
“Khoan đã, muôn tâu bệ hạ. Cháu… cháu có một thỉnh cầu. Cháu có thể nói chuyện với Tể tướng một phút không ạ?”.
Nhà vua ra hiệu cho viên cận thần đang chờ đợi một cách kiên nhẫn. “Được, như cô muốn!”.
Ani chớp mắt, ngạc nhiên không tin được đức vua lại đáp ứng lời thỉnh cầu của cô nhanh chóng như vậy. Cô cảm ơn ngài và nhún chân cúi chào lần nữa khi người thỉnh cầu khác đang sẵn sàng bước vào. Khi cô đứng thẳng lên, cô nhận ra có nét gì đó khác lạ trên khuôn mặt đức vua. Có vẻ như đây là lần đầu tiên ngài nhìn kỹ cô và những nếp nhăn quanh miệng ngài dường như hằn sâu thêm. Cô cảm giác như đức vua đang dò xét kiểm tra và khuôn mặt cô lập tức đỏ lựng lên.
“Tốt”, đức vua lặp lại lần nữa và thoáng mỉm cười với cô trước khi thị nữ nhắc ngài tập trung. Sau sự hào nhoáng, chói lòa của căn phòng đón khách, những bức tường gỗ và những tấm thảm thêu sẫm màu của hành lang giúp Ani cảm thấy dễ chịu phần nào. Cô sắp đi gặp Tể tướng. Cô chờ đợi viên cận thần sẽ dẫn đường cho cô nhưng thay vào đó, ông ta gọi một cậu bé hầu cận nhỏ tuổi, hướng dẫn cậu ta đưa Ani tới khu nhà nghỉ dành cho tôi tớ trong cung ở phía tây và dợm người quay trở lại phòng khách của nhà vua.
“Đọi đã, thưa ngài. Đức vua nói tôi có thể nói chuyện với tể tướng mà”.
“Ta là tể tướng đây”.
“Không phải ngài. Ý tôi là tôi đã gặp tể tướng một lần khi tôi còn nhỏ…”.
Tể tướng thở dài một cách khó chịu. “Có lẽ đó là người khác. Ta là Thiaddag, tể tướng của Bayern trong bốn năm qua. Xin lỗi, ta không thể rời bỏ nhiệm vụ của mình để sum họp với cô và người bạn cũ của cô được”.
Ông ta phẩy phẩy tay vừa như chào, vừa như xua cô đi và quay trở lại phòng với đức vua.
“Thôi đi nào!”, cậu bé nói.
Ani lưỡng lự. Làm việc với cậu bé chăn ngỗng không nằm trong kế hoạch của cô. Nhưng lúc này, kế hoạch của cô đã gần như sụp đổ bởi sự xuất hiện của Selia và vị tể tướng mới. Cô phải tìm cách ở lại thành phố này cho tới khi có thể tìm ra và giải cứu Falada.
“Vâng, được rồi!”, cô nói và theo sau cậu bé.
Khi họ bước ra ngoài sân, dưới ánh nắng mặt trời, cậu bé dừng lại, vươn vai hít đầy lồng ngực, mỉm cười với một ngày nắng nóng như thiêu đốt. Cậu ta gợi cho Ani nhớ tới loài chim cổ đỏ bởi chiếc áo dài màu đỏ, mái tóc thả lỏng giống như những chiếc lông vũ.
“Tôi tên là Tatto. Tôi là con trai của viên đội trưởng dẫn đầu hai mươi người lính, bởi vậy nên tôi được làm một người hầu trong cung dù chỉ mới mười hai tuổi”.
“Ồ, xin chúc mừng!”, Ani nói.
Cậu ta nhìn chằm chằm vào cô để xem trong lời chúc mừng kia liệu có ý chế giễu không. Ani rùng mình, cô cũng không biết liệu có tốt không khi trở thành một người hầu ở tuổi mười hai. Cậu bé lắc đầu và lẩm bẩm: “Đúng là dân trong rừng!”.
Cậu bé nói rất nhiều lúc họ đi bộ xuống những con đường dốc của thành phố, giới thiệu cho cô biết những nhiệm vụ phức tạp của một người hầu trong cung và đủ thứ chuyện linh tinh về chốn kinh đô phồn hoa này. Một lúc lâu sau, họ đến bức tường thành cao ngất và bắt đầu đi dọc theo đó.
“Phía bên kia bức tường là đồng cỏ, có bò, cừu, ngỗng và các loại gia súc, gia cầm nuôi ở đó. Đấy là nơi cô sẽ làm việc!”.
“Thế đâu là nơi nhốt ngựa?”, Ani hỏi.
“À, chúng phía sau cung điện, một mảnh đất rộng đến nỗi cô phải chạy mới qua hết nó trước bữa sáng”.
Phía sau bức tường cung điện, Ani nghĩ thầm một cách rầu rĩ, đó là cả một vấn đề.
Cuối cùng Tatto dẫn cô tới một ngôi nhà dài cao hai tầng, những bức tường sơn màu vàng giống màu chiếc áo cô đang mặc. Người phụ nữ trong ngôi nhà đó ốm và có đôi mắt đờ đẫn. Khi nói, giọng bà kéo lê ra khỏi cổ họng một cách do dự, ngắt quãng bởi những lần dừng và tiếng ậm ừ. Bà tự giới thiệu mình tên Ideca, quản lý những người làm công khu phía tây, bà cảnh báo Tatto không được la cà trên đường về, nếu không chỉ huy của cậu sẽ trả cậu lại khu hầm ở nhà bếp. Tatto quắc mắt nhìn bà vì đã bôi xấu hình ảnh cậu, rồi chạy ào ra cửa.
Ideca nhìn Ani. “Cô sẽ không, ừmm… nhớ nhà, nhớ khu rừng của cô mà bỏ trốn chứ?”.
“Không, tôi sẽ không bỏ trốn đâu!”, Ani đáp.
“Tôi không biết sao cô lại đến thẳng chỗ đức vua thay vì đến trực tiếp đây. Cô cho rằng đó là một lối vào rộng mở và cô sẽ được đối xử khác ư? Không! Tất cả chúng ta đều phải làm việc. Những gì chúng ta phải làm ở đây là làm việc và làm việc!”.
Ani gật đầu, hi vọng điều đó đã đủ cho câu trả lời.
Ideca mím môi. “Đây là nơi cô lấy thức ăn của mình, vào buổi sáng và buổi tối, vì vậy giờ cô có thể bắt đầu luôn được rồi đấy, ừm…”. Bà ném cho cô một tô súp đậu và một ly nước lớn. Ani chộp ngay lấy ly nước uống ừng ực để rồi sau đó cô ước gì mình chừa lại một vài ngụm để giúp tiêu hóa tô súp nguội lạnh.
Ideca dẫn Ani lên lầu, đến một tủ quần áo bừa bộn đưa cô chiếc váy thừa và chiếc áo dài, cả hai đều màu cam nhạt như hoa hồng. Một cây gậy dài cong một đầu để lùa bầy ngỗng thành đàn, một chiếc mũ với vành bằng rơm và dải ruy băng để buộc lại dưới cằm. Ani nghĩ, chiếc mũ đó sẽ là vật ngụy trang lý tưởng cho mái tóc của cô.
“Cô sẽ sống trong ngôi nhà thứ ba tính từ phía nam, phía bờ tường. Thời gian còn lại của ngày hôm nay cô được tự do. Hãy trở lại đây vào sáng sớm ngày mai”. Bà đẩy Ani ra ngoài và đóng cửa lại.
Đối diện với ngôi nhà của bà là một dãy nhà ở khác, mỗi nhà có một cửa sổ và một cửa ra vào riêng biệt. Ani tìm thấy ngôi nhà thứ ba, bước vào. Ngôi nhà không khác gì một căn phòng, một căn phòng rất nhỏ. Nếu cô dang thẳng tay ra, cô sẽ chạm vào bức tường hai bên.
Căn nhà dùng chung hai bức vách bằng gỗ với hai căn bên cạnh và mượn bức tường thành phía tây làm tường sau. Nó ám mùi thị thành – mùi rác, mùi khói bụi, thức ăn, mùi của người và động vật sống quá gần nhau. Ngôi nhà nằm ngay bên cạnh con đường lát đá cuội và cô cảm thấy như thể mình vẫn đang đứng trên đường vậy. Bất kỳ lúc nào người bán hàng rong cũng có thể bước vào cửa nhà cô hay bọn trẻ chơi trò đuổi bắt có thể bò qua cửa sổ và nhảy qua giường để trèo lên những phiến đá cứng của bức tường sau.
Một chiếc giường nhỏ, một chiếc bàn và ba cái móc bằng sắt treo trên tường là tất cả đồ đạc có trong phòng. Ani nhớ đến nơi ở của cô ở cung điện Đá Trắng, chỉ cần căn phòng đầu tiên đã rộng gấp mười lăm lần nơi này, và cô mường tượng những bức tường phòng mình, tường màu trắng sáng với những tấm thảm thêu hình trẻ con, chim chóc, hình những ngọn đồi mùa thu hòa quyện vào nhau. Những tấm thảm dưới chân cô như dòng suối tràn bờ, chiếc giường êm với rất nhiều gối và chăn lông ngỗng, tủ sách trên tường, những chú mèo dưới chân, đồ ăn bày sẵn trên bàn, một thị nữ đứng ở cửa luôn chực chờ nói: “Công chúa có cần nô tì giúp thay áo quần không ạ?”.
Giờ không còn vương miện công chúa, không còn là công chúa nữa. Khuôn mặt những thị nữ tan biến vào viên đá tròn trên tường. Hiện thực lại quay về, ảm đạm, khó khăn, buồn bã. Ani ngồi trên giường và liếc nhìn đôi tay mềm mại, thuôn dài của mình.
Sau khi đi bộ qua lại, lên xuống các hang cùng ngõ hẹp, ngửi những mùi vị cay xè của thịt bò trên phố bán thịt, mùi hoa nồng nàn đến chóng mặt của hàng trăm giỏ hoa bày bán trong những cửa hàng, Ani cuối cùng cũng tìm thấy trung tâm chợ phiên bằng cách đi theo tiếng ồn. Mọi người trên những chiếc xe ngựa yên tĩnh tối qua giờ đã chuyển thành những người bán hàng rong náo nhiệt trong thành phố, vẫy tay chào hàng với những người đi qua, la hét từ chỗ ngồi trên xe, thậm chí đứng lên và rao lanh lảnh. “Táo đây, táo đây, thảo mộc đây, mứt hạnh nhân đây. Chăn bông đây, chăn cho mùa đông đây, mua chăn cho mùa đông sắp đến nào…”.
Ani tìm thấy những người bạn đường của mình, họ đang buôn bán rất nhộn nhịp, với một nửa các túi hàng đã hết. Đám đông người mua đang chuyền tay nhau những chiếc áo len nhuộm màu của bà Gilsa. Ngay cả Finn cũng nói huyên thuyên gì đó và vẫy vẫy chiếc áo len trên không. Cô nhận ra anh chàng đang vẫy chào mình. Cô tiến lại gần, vẫn cảm thấy lâng lâng bởi tiếng ồn và sự náo nhiệt của phiên chợ.
“Xin chào, Isi”. Anh chào cô trước, lúc này cô mới nhớ ra rằng Isi là tên mình. Nhóm của anh đã bán được khá nhiều hàng, mặc dù vẫn còn gần một nửa và họ sẽ phải ở lại đây cho đến hết phiên chợ.
“Phiên chợ tháng tới thế nào cũng bán nhanh hơn”, cô gái với chiếc khăn màu đỏ nói, “Lúc đó thời tiết sẽ lạnh giá và mọi người sẽ sợ cái lạnh của mùa đông, hối hả mua áo len cho xem!”.
“Finn, tôi đã tìm được việc ở đây!”. Ani cố gắng nói khẽ nhưng thật ra cô cũng gần như phải hét lên để Finn có thể nghe thấy trong sự ồn ào náo nhiệt quá mức này.
“Tôi sẽ chăm sóc bầy ngỗng của đức vua”. Cô cười, mặc dù đó là một công việc lao động tay chân bình dị nhưng với cô nó có vẻ thật cao quý, và cô nghe thấy giọng nói hài lòng của Tatto: “Đó là một công việc tốt đấy”.
“Tôi chỉ muốn đến để nói với anh điều đó, để anh không phải lo lắng rằng tôi đã đi đâu mất…”.
Finn vỗ vai cô và nhìn đầy vẻ trêu chọc. Rồi anh dụi mắt, cười bí hiểm. Cô tự hỏi không biết điều này có nghĩa gì, chỉ hi vọng rằng vết than vẽ trên chân mày không bị mờ đi.
“Thôi, tôi nên đi thì hơn. Cảm ơn lòng tốt của anh nhé!”. Cô quay người định đi nhưng ngay lập tức trở lại và nói thầm vào tai Finn. “Finn, có thể sẽ có người biết anh quen tôi, họ sẽ đến tìm anh hay mẹ anh. Họ sẽ giả vờ là bạn tôi, hỏi tôi đang ở đâu, làm ơn đừng nói cho họ biết nhé”. Cô mỉm cười một cách đau khổ. “Tôi chỉ có anh và bác Gilsa là bạn ở vương quốc này thôi”.
Finn gật đầu: “Tôi cho cô một ít đồ ăn trưa nhé!”. Anh lôi trong xe ra một quả táo xanh căng mọng, mùi giống như mùi gắt của cỏ ướt ở các dòng suối trong rừng. “Chúc may mắn!”, anh nói, đưa cô quả táo và quay lại với công việc bán hàng của mình.
Ani lách qua những bãi đậu xe, những chiếc xe ngựa, xe chở hàng, những tay lái buôn, những người bán hàng từ ngoại ô, và những người dân thành phố cũng ra ngoài để tham gia mua bán. Một đám đông nhỏ đang tụ tập quanh người đàn ông tung hứng bóng. Một trong số những quả bóng biến thành một chú bồ câu, nó bay qua vòng tròn nhỏ. Ani đứng xem, miệng há hốc.
“Thủ thuật thôi!”.
Người phụ nữ với chiếc khăn trùm đầu màu xanh vẫy tay với Ani. Bà ta ngồi trên một chiếc mền đang để chật cứng các loại rễ cây, những chùm quả mọng và đống lá khô đến nỗi bà không thể nào di chuyển được.
“Tất cả chỉ là kỹ xảo thôi”, người phụ nữ chỉ vào người tung hứng, “Không phải phép thuật thật sự đâu”.
“Ô vâng, tất nhiên!”, Ani nói.
Người phụ nữ liếc nhìn cô và ho khẽ, hay có lẽ là mỉm cười.
“Bên trong cô thì lại có điều đó phải không?”.
Ani cau mày.
“Bên trong con người cô, tôi nghĩ là có nhiều thứ hơn cô nghĩ…”.
“Bà nói gì, ý bà… Thứ tôi có liệu có phải là phép thuật không?”.
“Cô có biết mình có gì không?”.
Ani nhún vai.
“Tôi cũng nghĩ cô muốn mua thứ gì đó ở đây”.
Bà phủi bàn tay bẩn của mình trên đống hàng hóa đã được gom lại.
“Vâng, tôi muốn mua một ít rễ cây gai để làm thuốc nhuộm”, Ani nói, “Nhưng tôi không có tiền”.
Người phụ nữ khịt khịt mũi: “Đổi quả táo đi”. Bà lấy từ đống đất ra một đoạn rễ cây. “Đây là tất cả những gì tôi có. Mà tôi thì lại không có nhu cầu với thứ này!”.
Họ trao đổi hàng hóa và trước khi Ani có thể hỏi thêm câu gì, bà đã xua cô đi.
Ani tìm đường đến bức tường thành trong sự lộn xộn của phiên chợ. Cô đi dọc theo hướng tây, tay trái miết theo phiến đá. Khi đi khỏi chợ chưa xa lắm, cô thoáng thấy những vật gì đó dài dài treo trên tường. Ani chớp mắt nhìn, cố đoán xem đó là gì, nhưng trước khi thấy rõ, cô đã ngửi thấy mùi của nó.
Những cái xác chết bốc mùi dưới ánh nắng gay gắt. Mùi thịt ôi và máu tươi xộc vào cổ họng cô. Người cô run bần bật, ước gì có thể quay lại đường cũ, cô cố chạy thật nhanh qua và chỉ dừng lại cách đó một khoảng xa. Một người đàn ông đứng dựa vào tường, nhai miếng bánh bích quy và nhìn những gì treo trên bức tường.
“Xin lỗi, thưa ngài…”, cô lắp bắp.
Người đàn ông nhìn cô từ trên xuống dưới và nói: “Tôi không phải là quý ông đâu, đừng gọi tôi bằng cách đó. Cô gái, cô đến từ vùng đất trong rùng à? Tôi là Amout!”.
“Amout, ông làm ơn nói cho tôi biết tại sao những… những cái xác ấy lại bị treo lên đó vậy?”.
Ông nhún vai. “Những kẻ phạm tội. Có thể là giết người, lấy trộm gia súc, hay bắt một cô gái. Nói chung là làm những điều xấu. Nhưng không phải sự hèn nhát. Kẻ nào phạm tội hèn nhát thì theo luật của đức vua sẽ bị chôn trong bùn cho đến chết. Sẽ là cái chết bị che giấu. Đó là tục lệ!”. Ông ta cười với cái miệng đầy bánh và vỗ đầu cô. “Kinh thành không giống như khu rừng nhỏ của cô, phải không cô bé? Nhưng cô sẽ phải làm quen với nó thôi”.
Ani bước đi không dám ngoảnh lại. Cô nhận ra rằng mình thậm chí còn không biết liệu những kẻ phạm tội có bị giết ở Kildenree hay không. Có lẽ là có. Có lẽ điều đó được giấu diếm không cho cô biết, nằm ngoài thế giới của cô. Có lẽ mẹ cô đã nghĩ rằng cô quá yếu đuối để nhận biết về thế giới.
Sau một hồi đi bộ rất lâu, Ani cũng về tới khu nhà của người làm công. Cô gõ cửa nhà Ideca để xin một ít giấm. Cô có một ít giấm trong chiếc ly mượn sau một hồi nghe bà càm ràm than phiền và trách mắng qua loa.
Ani bước vào căn nhà thứ ba trong dãy nhà. Để tránh sự buồn tẻ và không gian tù túng, cô bắt tay vào làm việc. Ở hội chợ, cô đã đổi được một thứ rễ cây gai màu nâu. Nó vốn bị lu mờ và lãng quên giữa những quả mọng, rễ cây và những thứ có màu sắc rực rỡ mà người Bayern tìm thấy.
Với hòn đá cuội dẹt, Ani cắt những chuỗi rễ màu tối, mọng nước cho vào lỗ hõm trên sàn nhà rồi đổ lên đó vài giọt giấm để được thứ thuốc nhuộm như từng làm ở nhà bà Gilsa. Cô dùng ít cỏ bó lại làm cọ, rồi cẩn thận quét hỗn họp thuốc nhuộm lên đôi chân mày sáng màu của mình. Để nhuộm màu cho mái tóc, cô cần nhiều rễ cây hơn cô tưởng. Trong quá trình nhuộm, màu dính khắp tay và người cô. Nhưng vẫn phải làm. Cô lau sạch vết thuốc nhuộm khô bằng lớp vải trong của chiếc váy và nằm co tròn trên giường. Thậm chí trong giấc ngủ, cô cũng nhận ra thanh nan lát giường đang đâm vào lưng mình qua lớp nệm mỏng.