(Lời thì thầm trong đêm)
Việc Dư Bạch thích Lê Dạ Quang khiến cô chấn động không kém gì anh. Đến nỗi đêm đó cả hai người đều mất ngủ. Dư Bạch không tiếp tục xem phim bộ nữa, còn Lê Dạ Quang thì mài mông trằn trọc mãi trên chiếc giường cứng ngắc, suýt nữa thì để lại vết chai.
Cô vốn tưởng rằng Dư Bạch hay đỏ mặt, căng thẳng khi nói chuyện với mình là bởi vì anh thành thật và ngây thơ, nhưng hóa ra… anh thực sự thích cô sao? Anh thích cô ở điểm gì chứ? Được rồi, cô không cho rằng mình có thể đoán được suy nghĩ của anh. Dù sao hầu hết suy nghĩ của anh đều nằm ngoài trí tưởng tượng của cô.
Vấn đề bây giờ là anh thích cô, sẵn sàng chịu trách nhiệm với cô, nhưng lại không chịu xuống núi. Điều đó có nghĩa là anh thích cô vẫn chưa đủ nhiều sao?
Như vậy có phải là nếu muốn anh xuống núi thì cần phải tác động thêm không?
Ồ, Dư Bạch nói rằng anh sẽ chỉ xuống núi khi cưới vợ.
Điều này khiến Lê Dạ Quang rất bối rối, chẳng lẽ cô thật sự phải sử dụng “mỹ nhân kế” sao? Có điều, người quyến rũ Dư Bạch lại không phải “Trương Tổ Hiền”, “Trần Tổ Hiền” mà lại trở thành “Lê Tổ Hiền” là thế nào? Hơn nữa, quyến rũ người khác thì không sao, nhưng nếu là Dư Bạch thì Lê Dạ Quang lại cảm thấy hơi băn khoăn.
Thứ nhất, cô biết rất rõ mình và Dư Bạch ở hai phía đối lập nhau, cho dù anh không biết cô là ai, nhưng cô lại biết rõ về anh. Thứ hai là vì tính cách của Dư Bạch, Lê Dạ Quang cảm thấy lương tâm của mình sẽ bị tra tấn ngày đêm nếu cô làm điều đó với một người trong sáng và ngây thơ như anh.
Có điều, cô đã dùng tất cả những chiêu trò như quấy rối, dụ dỗ hay đe dọa mà vẫn không có kết quả, thật sự là đã bó tay hết cách.
Một người không có h@m muốn gì như Dư Bạch chỉ có một điểm yếu là phải lòng cô sao?
Cô chỉ có thể ôm một tia may mắn, đó là anh ở trên núi quá cô đơn, hiếm khi nhìn thấy một người phụ nữ như cô, cho nên con tim mới rung động. Chỉ cần anh xuống núi, nhìn ngắm thế giới bên ngoài muôn màu muôn vẻ là sẽ dễ dàng đem lòng yêu người khác.
Nói đâu xa, bảo tàng của họ không thiếu những cô gái xinh đẹp, nhất là những người vừa mới tốt nghiệp cử nhân, sinh viên năm thứ hai đến thực tập. Ai cũng trẻ trung và tươi non mơn mởn.
Suy cho cùng, trên đời này có rất nhiều cô gái xinh đẹp, còn cô thì lại có tâm hồn quá th ô tục.
Sư thầy có thể dẫn ta đến tận cửa nhà Phật, nhưng việc tu hành tùy thuộc vào mỗi người. Lê Dạ Quang quyết định trở thành bậc thầy khai sáng xuất sắc.
Mặc dù ban đêm ngủ không ngon giấc, nhưng Dư Bạch vẫn dậy sớm như thường lệ. Mấy ngày nay thời tiết rất tốt, nếu có thể sửa xong bích họa liền một mạch thì sẽ được nghỉ ngơi thoải mái.
Dư Bạch có một đàn anh khóa trên là giảng viên khoa Khảo cổ của Đại học C, thường xuyên đi theo đội khảo cổ đi khảo sát. Dư Bạch tu sửa bích họa quanh năm đã chán, vẫn luôn muốn đi theo anh ta để tích lũy kinh nghiệm, nhưng đáng tiếc là đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được điều đó. Chẳng hạn như sau Tết năm nay, anh đang chuẩn bị lên đường thì nhận được thông báo từ ông nội, bảo anh đến thành phố Sa để sửa chữa bích họa ở chùa Lư Xá Na.
Hóa ra năm ngoái mưa dầm, các bức bích họa trong chùa đã xuống cấp sau một thời gian dài, lại thêm độ ẩm không khí quá cao khiến bề mặt bị mốc. Các nhà sư trong chùa đã thông báo cho Cục bảo vệ di tích văn hóa địa phương để họ cử người đến phục chế. Song, họ đã sử dụng quá nhiều keo màu, đến mùa thu hanh khô, keo co lại khiến màu sắc trên tranh bị bong tróc. Mùa đông mưa tuyết rả rích, nước tích ở lớp bên trong không thoát ra được, dẫn đến không chỉ bề mặt tranh bị nấm mốc mà lớp đất và vách đá cũng bị tách rời, mục rỗng, có nguy cơ bị bong tróc.
Dư Bạch nhận nhiệm vụ vào thời điểm hết sức quan trọng, một đội gồm năm người các anh đến đây thực hiện trùng tu bích họa lần thứ hai. Họ không những phải phục chế bức tranh mà còn phải xử lý đủ loại vấn đề do sai sót của đội tu sửa trước đó gây ra. Hơn nữa, lại gặp phải mưa tuyết, họ đã ở đây hơn hai tháng mà vẫn chưa hoàn thành công việc.
Hôm nay anh Lưu và Dư Bạch cùng lên núi làm việc, ba đồ đệ xuống núi mua dụng cụ. Lúc họ rời đi, cửa phòng Lê Dạ Quang vẫn đóng chặt. Anh Lưu gọi cô nhưng không thấy cô đáp lời. Dư Bạch bèn viết một tờ giấy nói với cô rằng họ đi lên chùa rồi nhét vào khe cửa.
Sau một đêm hong gió, những phần Dư Bạch vẽ ngày hôm qua đã khô, hôm nay phải tu sửa cõi trời thứ năm và cõi Atula thứ sáu trên áo cà sa. Trong đó, Atula trong đạo thứ sáu đang dựa vào sườn núi Tu Di, đứng bắt tréo chân trên biển rộng, hai tay giơ cao, tay trái nâng vầng mặt trời, tay phải cầm mảnh trăng lưỡi liềm. Do lớp màu đã bong tróc nên vầng mặt trời và hình trăng lưỡi liềm đã bị mất hơn một nửa, nhưng qua phần còn lại có thể thấy được nguyên bản là màu vàng kim.
Dư Bạch chỉ vào chỗ đó, ra hiệu cho anh Lưu nhìn kỹ: “Anh nhìn này, màu vàng kim ở đây không phải nguyên bản, chắc hẳn sau khi tu sửa lại bị rơi ra.”
Nghe anh nói vậy, anh Lưu cũng mới nhận ra điều này. Những người phục chế lúc trước đã dùng keo dán trực tiếp vàng lá lên tường để bớt việc, khiến keo dán còn sót lại rất nhiều ở các mép. Hơn nữa, họ còn không xoa mịn keo khiến vàng lá nhăn nhúm, trông rất xấu xí.
Anh Lưu thở dài, lấy ra một cái xẻng nhỏ cực kỳ tinh xảo, cạo từng tí vàng còn sót lại: “Vậy chúng ta phải quét vàng lên à?” Quét vàng còn tốn nhiều công sức hơn cả dát vàng, nhưng nhìn tổng thể sẽ mịn màng, đồng đều và chắc chắn hơn.
Dư Bạch dựa vào giàn giáo, sửa lại bản thảo đã vẽ trước đó, lắc đầu nói: “Không cần phải quét vàng, phết nhũ vàng đi.”
“Nhũ vàng ư?” Nghe hai từ này, sắc mặt anh Lưu liền thay đổi, gỡ mảnh vàng trên xẻng vừa cạo ra, áng chừng kích thước của vầng mặt trời và mảnh trăng lưỡi liềm trên tường rồi quay lại nhìn Dư Bạch với vẻ không thể tin được: “Hai chỗ này cũng phải to bằng quả táo tàu, dùng nhũ vàng có phiền phức quá không?”
“Anh đi lấy vật liệu đến đây.” Giọng điệu của Dư Bạch vẫn bình thản như thường, nhưng anh Lưu biết rằng từ trước đến giờ, các quyết định của anh trong chuyện tu sửa bích họa đều không có cửa để thương lượng.
Anh ấy chỉ có thể nhỏ giọng lẩm bẩm: “Vàng đắt lắm…” Nếu biết phải tốn nhiều vàng như vậy, hôm qua lúc xuống núi đi chợ phiên, anh ấy không nên tiếc tiền gọi thêm một chút thịt cho bát mì.
Sau khi Dư Bạch sửa xong bản vẽ, trên con đường lát ván bên ngoài vang lên tiếng bước chân đang đến gần. Có điều, tiếng động này không giống với tiếng bước chân của một người cao lớn và cường tráng như anh Lưu. Dư Bạch hơi tò mò. Lúc này, Lê Dạ Quang đã đi đến cửa hang.
Cô đứng ngược sáng, bóng dáng rõ mồn một và thật sống động: “Tôi mang vật liệu đến cho anh.”
Dư Bạch tưởng rằng tối qua anh từ chối lời đề nghị trao đổi của cô, cô sẽ rất tức giận, dù sao ánh mắt cuối cùng cô để lại cho anh thật… đáng sợ. Không ngờ hôm nay cô lại mang vật liệu đến cho anh, hơn nữa…
Dư Bạch lặng lẽ quan sát Lê Dạ Quang, vẻ mặt cô rất thản nhiên, như thể không có chuyện gì xảy ra. Nếu có điều gì khác biệt thì đó là hôm nay trông cô xinh đẹp hơn, tuy vẫn để mặt mộc và mặc quần áo bình thường, nhưng mái tóc hơi xoăn buông xõa trên vai, làn da trắng nõn có màu hồng khói nhạt, nụ cười tươi tắn hoàn toàn khác với tối hôm qua.
Anh dè dặt nhận lấy túi vật liệu từ tay Lê Dạ Quang. Ngón tay út của cô dường như vô tình quệt vào lòng bàn tay anh. Sống lưng Dư Bạch bỗng cứng ngắc, không dám suy nghĩ nhiều, vội vàng lên tiếng: “À… anh Lưu đâu?”
Lê Dạ Quang cười duyên, đáp: “Mấy người Tiểu Trừ mua nhầm dụng cụ, anh Lưu phải đi chợ để đổi lại, nên nhờ tôi cầm vật liệu lên cho anh.” Lời cô nửa thật nửa giả. Nhóm Tiểu Trừ quả thực đã mua nhầm dụng cụ, anh Lưu cũng thực sự đi đổi lại dụng cụ, nhưng việc đi đưa vật liệu cho anh là do cô chủ động xin ra trận.
Tai Dư Bạch đỏ bừng, thầm nghĩ chẳng lẽ anh Lưu biết mình thích Lê Dạ Quang nên cố ý tạo cơ hội? Nhưng chẳng lẽ anh ấy còn không hiểu rõ tính cách của anh hay sao? Ở một mình với cô thế này, anh sẽ rất căng thẳng, nhất là sau chuyện tối qua.
Thấy anh đỏ mặt, Lê Dạ Quang mừng thầm. Cô băn khoăn lo lắng suốt đêm, không biết Dư Bạch có thật sự thích mình hay không, liệu kế hoạch của cô có khả thi không? Bây giờ xem ra, không chỉ khả thi mà là hoàn toàn có có thể thực hiện được.
Bích họa đã được tu sửa gần xong, những chuyện như kiện cáo và bồi thường hãy cút sang một bên, giờ đây không ai có thể ngăn cản tương lai huy hoàng của cô nữa.
Dư Bạch không dám nhìn cô, cũng không dám nói thêm gì nữa. Anh xoay người đi đến giàn giáo bắt đầu chuẩn bị vật liệu. Lê Dạ Quang lặng lẽ đi đến bên cạnh anh. Có câu, đàn ông thích nhất là được ngưỡng mộ, mà cô đã làm việc với các nhà nghệ thuật, nhà đầu tư và các bảo tàng lớn quanh năm, những chiêu trò tâng bốc trong kinh doanh đã trở thành tố chất chất cơ bản.
Vì thế khi Dư Bạch lấy từ trong túi ra một chai thủy tinh nhỏ chứa chất lỏng màu vàng óng ánh, cô liền hớn hở reo lên đầy kinh ngạc: “Trời ơi, nhìn màu sắc này mà xem, vàng óng, sáng bóng mà không quê mùa, còn trong suốt như pha lê như thể chứa đựng vô số thứ. Chao ôi, bên trong còn có những chấm bong bóng nhỏ nữa kìa. Đáng yêu quá đi mất. Đây là công thức độc đáo của riêng nhà họ Dư sao?”
Bàn tay cầm chai thủy tinh của Dư Bạch khựng lại trong không khí. Mặc dù bình thường anh không hiểu cách đối nhân xử thế, nhưng giây phút này, anh có thể khẳng định rằng Lê Dạ Quang thật sự là một người khác hoàn toàn với trước đây.
“Cái này là… mật ong.”
Lê Dạ Quang cứng họng.
Chiêu trò nịnh nọt trong thương nghiệp thất bại, cô khẽ hất tóc, bình tĩnh chữa thẹn: “Ồ… mật ong à, anh cần mật ong để làm gì vậy?”
Chiêu thức thứ hai của các cô gái xinh đẹp ngọt ngào ngốc nghếch là đặt câu hỏi vô tri.
“Để làm nhũ vàng, tu sửa bích họa.” Dư Bạch trả lời, sau đó lấy ra từng thứ trong túi, đặt lên giàn giáo, gồm có mật ong, một xấp vàng lá, một chiếc bát sứ trắng nông, một chai rượu trắng và một chiếc đèn cồn.
Nhìn thấy những thứ này, Lê Dạ Quang không cần giả vờ ngốc nữa mà là ngốc thật. Theo hiểu biết của cô, hội họa được thực hiện bằng sơn, màu acrylic, màu nước, bột màu… và bột màu khoáng chuyên dùng cho bích họa, nhưng mật ong và rượu trắng khiến cô lấy làm khó hiểu.
Dư Bạch liếc nhìn cô, thấy vẻ mặt cô ngơ ngác, đôi mắt mở to, trông rất đáng yêu, trong lòng anh không khỏi xao động, kiên nhẫn giải thích: “Thếp vàng và quét vàng là hai cách dán vàng lá trực tiếp lên tường, đây là phương pháp mới. Còn những bức tranh tường này là bích họa từ thời Bắc Chu. Vào thời đó, độ tinh khiết của vàng không cao, không sáng bóng, cho nên vàng lá được chế thành nhũ vàng, không chỉ khiến màu vàng mềm mịn mà còn chắc và bền hơn.”
Nói đoạn, anh đổ một ít mật ong vào bát sứ rồi dùng ngón trỏ và ngón giữa chấm lên miếng vàng lá, liên tục xoay tròn, mài trong bát, sau đó lại chấm miếng vàng lá vào mật ong rồi lại mài, cứ lặp đi lặp lại như vậy cho đến khi nhúng hết một xấp vàng lá dày…
Anh làm việc rất kiên nhẫn, từng chút một, như thể thời gian trôi qua đối với anh không là gì cả. Lần này Lê Dạ Quang luôn ở bên cạnh Dư Bạch, không còn cảm thấy nhàm chán như trước nữa, cứ thế mải mê nhìn những động tác chậm rãi mà tập trung, nhẹ nhàng và tinh tế như dòng nước chảy của anh.
Cô là người luôn đặt hiệu quả lên hàng đầu trong cuộc sống và công việc, nhưng Dư Bạch đã cho cô thấy một thế giới không chú trọng hiệu quả, không gọn gàng sáng sủa, cũng không có chuyện một người hô hào, trăm người hưởng ứng, thậm chí còn rất cô đơn kham khổ, thời gian dài đằng đẵng. Còn anh là người duy nhất bảo vệ thế giới đó.
Khi tất cả những miếng vàng lá đã được mài mịn, Dư Bạch mới từ từ rót rượu trắng vào bát sứ, sợ cô không hiểu nên anh vừa mài vừa kể: “Thêm rượu vào, mật ong thừa sẽ nổi lên, lại cho thêm nước rồi để lắng trong vài giờ, sau đó rửa sạch phơi khô là có nhũ vàng.”
Nói rồi, anh đưa chiếc bát sứ cho cô xem. Hơi rượu bốc lên cay xè cả mắt, Lê Dạ Quang không khỏi nhắm mắt lại. Khi cô mở mắt ra, Dư Bạch đã ở gần trong gang tấc.
Trông anh hơi mệt mỏi, lông mày khẽ nhíu lại, nhưng trong mắt vẫn ánh lên tia hy vọng. Trong núi không có ai cổ vũ cho anh, chỉ có bản thân anh luôn mong chờ mỗi lần tái xuất hiện đầy huy hoàng.
Lê Dạ Quang nghĩ bụng, có lẽ không thể dùng thủ đoạn quyến rũ một người như Dư Bạch, những màn trình diễn vòng vo và vụng về đó đều trở nên lố bịch trước sự chân thành của anh. Để quyến rũ một người nghiêm túc như anh đương nhiên là cũng phải nghiêm túc rồi. Cô lại nhắm mắt lại, nghiêng người hôn lên môi anh.