Từ Hàng Châu đến Bắc Kinh, rồi từ sân bay quốc tế Bắc Kinh bay đến Vancouver, chuyến bay dài mười hai tiếng khiến cô mệt mỏi rã rời. Cô cảm thấy chân mình sưng lên như củ cải, mỗi lần ấn vào là một vết lõm hiện ra. Ngồi thẳng suốt mười hai tiếng ở ghế hạng phổ thông, lưng đau, eo mỏi, thật chẳng khác nào cực hình. A Sầm vừa đấm nhẹ vào bắp chân vừa bực bội nghĩ.
Không phải cô làm quá, nhưng cô rất sợ phải ngồi máy bay đường dài. Cô nhớ lại cách đây không lâu, người bạn thân Mộc Mộc đã khuyên nhủ thế nào và cách mình đã xiêu lòng ra sao, rồi cuối cùng lại bị “leo cây” ngay trước ngày lên máy bay.
Chuyện xảy ra khoảng nửa năm trước.
“Dù là mười hai tiếng dài thật đấy, nhưng hai đứa mình ngồi cạnh nhau, xem phim, trò chuyện, thời gian sẽ trôi qua nhanh thôi.” Mộc Mộc nằm dài trên giường A Sầm, khẳng định chắc nịch, “Hơn nữa, cậu thử nghĩ xem, báo chí đều nói đây là chuyến ra khơi cuối cùng của con tàu Klein. Qua lần này là không còn cơ hội nữa đâu! Đây là một chất liệu tuyệt vời!”
Trong những chuyến du lịch bằng du thuyền, càng đặt sớm thì giá càng rẻ. Thế nên A Sầm và Mộc Mộc đã đặt trước nửa năm chuyến đi trên tàu “Klein Vĩnh Hằng”. Đây là chuyến hành trình tám ngày bảy đêm, xuất phát từ cảng Vancouver, đi lên phía Bắc đến Alaska.
Mộc Mộc luôn mơ ước về một chuyến du lịch trên du thuyền – ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi thỏa thích, không phải lo lắng về chỗ ở hay đồ ăn, lại còn có thể diện đẹp chụp ảnh trên boong tàu. Vì vậy, cô đã tìm kiếm đủ các mẹo du lịch tiết kiệm trên mạng với từ khóa “du lịch du thuyền giá rẻ”.
Cả Mộc Mộc và A Sầm khi đó đều là những sinh viên mới tốt nghiệp hơn một năm, chưa có nhiều tiền, hơn nữa chi phí sinh hoạt ở Hàng Châu cũng không thấp.
Những chiếc du thuyền có cơ sở vật chất tốt với boong tàu hiện đại và hành trình đẹp thường có phòng có ban công với giá mỗi người khoảng năm nghìn tệ, chưa kể tiền vé máy bay. Dù là người khá thoáng tay trong chi tiêu như Mộc Mộc cũng thấy lấy một nửa số tiền tiết kiệm ra để chơi đúng là hơi liều, nên cô vẫn phân vân.
Cho đến khi cô lướt thấy một tin tức trên trang web du thuyền: Tàu “Klein Vĩnh Hằng” lần đầu ra khơi năm 1980, đến nay đã phục vụ gần bốn mươi năm trên biển. Là một trong những du thuyền sang trọng nhất thời ấy, nó sẽ ngừng hoạt động vào tháng 10 năm 2020. Chuyến hành trình tám ngày bảy đêm từ Vancouver đến Alaska vào ngày 10 tháng 9 năm 2020 sẽ là chuyến ra khơi cuối cùng của “Cung điện trên biển” này. Giá ưu đãi lớn, ai đến trước thì có giá tốt…
Bên dưới có một liên kết, khi bấm vào, cuộn xuống, cô thấy phòng có ban công chỉ hơn hai nghìn tệ. Mộc Mộc không thể tin nổi vào mắt mình. Giá này thật khó tin! Cô thử thêm vào giỏ hàng và thực hiện đến bước thanh toán cuối cùng, giá vẫn giữ nguyên, chứng tỏ giá này là thật.
Dù giá rẻ, nhưng vẫn là hơn hai nghìn tệ. Mộc Mộc cố nén sự hào hứng muốn đặt phòng và vé máy bay ngay lập tức, rồi lên mạng tìm thêm thông tin.
Khi tìm kiếm từ khóa “đánh giá tàu “Klein Vĩnh Hằng””, hàng loạt mục trên diễn đàn hiện ra:
“Tiền nào của nấy thôi, tàu cũ kỹ, cơ sở vật chất lạc hậu. Tàu thì lớn nhưng toàn người già nước ngoài, không có bar để nhảy nhót, nước uống cũng phải mua thêm, giới trẻ sẽ thấy rất chán.”
“Đồng ý với lầu trên, quảng cáo hay nói tàu là cung điện trên biển từ năm 1980, nhưng bây giờ là 2020 rồi, vẫn như năm 1980, khác nào lừa đảo? Tôi định tạo ra những kỷ niệm lãng mạn với bạn gái, cuối cùng lại trôi dạt trên biển tám ngày, và cãi nhau tám ngày… thật không muốn nhớ lại.”
“Nói thật thì tôi không đòi hỏi nhiều về đồ ăn, nhưng nhà hàng cũng khá ngon. Tuy nhiên phòng của tôi thì đèn luôn tối, chập chờn như nhà ma, bên trong còn có mùi khó chịu không tả nổi, đánh giá kém!”
…
Mộc Mộc còn mở một số ảnh du khách đăng lên, đúng thật, ảnh chụp bằng điện thoại trông ánh sáng rất kém. Thảm đỏ sậm màu, giấy dán tường vàng úa, đèn chùm pha lê cổ điển nhìn xa hoa nhưng trong ánh sáng yếu lại trở nên kỳ quái. Có cảm giác… phong cách Gothic, đúng vậy, phong cách Gothic, cứ như ma cà rồng có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Mộc Mộc hơi phân vân, hành trình này thực sự rất hấp dẫn. Đi Alaska vào giữa tháng 9, nếu may mắn có thể nhìn thấy cực quang. Hơn nữa, đó là mùa thu ở Bắc Mỹ, hành trình sẽ dừng lại ở hai thành phố để du khách có thể vào thành phố ngắm lá phong.
A Sầm và Mộc Mộc sống chung trong một căn hộ hai phòng nhỏ ở Hàng Châu. Lúc này, Mộc Mộc ôm máy tính đến gõ cửa phòng A Sầm. Cửa mở.
“A Sầm, giúp mình nghĩ xem… không đúng, chuyện này cũng liên quan đến cậu.” Mộc Mộc ngồi xuống giường A Sầm rồi bắt đầu kể.
Mộc Mộc kể hết mọi chuyện về chuyến du thuyền. Cả Mộc Mộc và A Sầm đều độc thân, hễ đi chơi xa là thường đi cùng nhau.
“Giá đúng là rẻ thật.” A Sầm xem những bức ảnh có vẻ kỳ lạ đó cũng thấy hơi hứng thú. Những “đánh giá xấu” chẳng những không làm cô nản lòng mà còn có sức hút vô cùng đặc biệt với cô.
Hiện tại cô là một nhà văn viết tiểu thuyết kinh dị trinh thám toàn thời gian, nhưng không phải kiểu nổi tiếng gì. Nói đúng ra, cô vẫn chưa đủ sống nhờ nghề này. A Sầm đã nghỉ công việc toàn thời gian được nửa năm, hiện tại cô vẫn đang dựa vào số tiền tiết kiệm trước đây để duy trì ước mơ. Thế nên dù trong tài khoản còn vài chục nghìn, cô vẫn ăn uống rất tiết kiệm, bởi vì biết rằng số tiền này sẽ dần cạn kiệt.
A Sầm không được đào tạo bài bản về viết lách; cô học ngành khoa học khi còn ở đại học, chỉ thỉnh thoảng rảnh rỗi thì viết lách chút đỉnh. Vì ngành của cô dễ tìm việc nên cô cũng nhanh chóng có công việc ổn định. Nhưng sau gần một năm làm việc, cô nhận ra cuộc sống chỉ toàn là làm thêm giờ, hầu như không có thời gian riêng, khiến cô vô cùng chán nản, uể oải, đôi lúc còn nghi ngờ mình đã mắc chứng lo âu.
Dần dần, A Sầm nhận ra đây không phải cuộc sống mà mình muốn. Trước đây còn có thời gian viết lách như một cách giải tỏa cảm xúc, nhưng giờ cô đã một năm không vào diễn đàn, số ít người theo dõi trước đây cũng đã rời đi. Nghĩ đến đây, cô càng thêm thất vọng.
Vì thế, A Sầm đã đưa ra một quyết định khiến mọi người đều ngỡ ngàng – cô từ bỏ công việc, trở thành một nhà văn viết lách không tên tuổi, ẩn mình tại nhà.
Sự phản đối lớn nhất đến từ bố mẹ cô. Vì hành động bất ngờ này, họ gần như muốn cắt đứt quan hệ với cô. Họ không hiểu tại sao một đứa con gái vốn ngoan ngoãn từ nhỏ lại đột ngột “nổi loạn” như vậy, vừa tự lập về tài chính đã tự đưa ra những quyết định lớn. Thậm chí họ còn dọa rằng nếu cô không quay lại làm việc, cô sẽ phải ra đường sống, không được ở nhà.
Nhưng bố mẹ cô lại không hiểu rõ con mình. A Sầm trông có vẻ hiền lành, nhưng thực tế lại rất cứng đầu, có quyết tâm và sự kiên trì mãnh liệt với lối sống mà cô đã chọn.
A Sầm chuyển đến Hàng Châu ở cùng Mộc Mộc. Hai cô gái cùng nhau thuê một căn hộ hai phòng nhỏ và bắt đầu cuộc sống của riêng mình.
Mộc Mộc là một nhân viên văn phòng bị công việc ở Hàng Châu đè nén đến mức gần như kiệt sức. Cô không có can đảm để liều lĩnh như A Sầm, nhưng lại là người duy nhất ủng hộ cô.
“Nếu mình cũng có một điều gì đó mình thích đến vậy, có lẽ mình cũng sẽ từ bỏ công việc này mà theo đuổi nó. Nhưng mình hình như chỉ thích kiếm tiền rồi tiêu tiền thôi, nên nghỉ việc chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng cậu biết không, mình tin cậu sẽ sống được bằng nghề viết lách, chỉ là vấn đề sớm hay muộn thôi, vì thế mình ủng hộ cậu.” Lúc đó, Mộc Mộc vừa ăn khoai tây chiên vừa nói một cách thoải mái, nhưng A Sầm thì suýt rơi nước mắt vì xúc động.
Lúc đầu mọi việc diễn ra khá thuận lợi. A Sầm bắt đầu sáng tác trong căn phòng trọ không thấy ánh sáng ở Hàng Châu, làm việc không biết mệt mỏi, cập nhật mỗi ngày hàng chục nghìn từ không thành vấn đề. Khi tác phẩm dài đầu tay hoàn thành, lượng xem tích lũy cũng khá tốt, thu hút được một số lượng người theo dõi và đánh dấu.
Ban đầu, A Sầm đầy tự tin chuẩn bị viết cuốn thứ hai, nhưng rồi khó khăn bắt đầu xuất hiện: cạn kiệt ý tưởng, tinh thần kiệt quệ, sức khỏe cũng kém đi. Dù cuốn đầu có kiếm được chút tiền, nhưng chỉ đủ mua vài cốc trà sữa. Ngoài nỗi lo lắng về việc tiền tiết kiệm sẽ cạn kiệt, A Sầm còn sợ mình sẽ không nghĩ ra ý tưởng hay nữa, bởi vì cuốn đầu đã sử dụng gần hết ý tưởng tích lũy nhiều năm. Ngồi cả ngày trước màn hình, viết được vài từ lại xóa đi, cô không hề hài lòng.
Nhìn vẻ mặt có chút dao động của A Sầm khi xem ảnh du thuyền, Mộc Mộc tiếp thêm lửa: “Cậu nghĩ mà xem, ở trên con du thuyền kinh dị như vậy bảy, tám ngày, chắc chắn cảm hứng sẽ dồi dào. Cậu nên ra ngoài giải tỏa một chút, coi như là đi thực tế lấy tư liệu!”
A Sầm cũng nghĩ vậy. Cô đã tách biệt với thế giới bên ngoài quá lâu rồi. Số tiền còn lại đủ để cô sống thêm một năm, ngoài tiền thuê nhà, cô gần như không có chi tiêu gì lớn, một ngày ăn một bữa, không uống trà sữa. Nếu có thể dùng một phần tiền để ra ngoài nhìn ngắm thế giới, có thể kích thích cảm hứng, biết đâu sẽ giúp cô có thêm ý tưởng cho các cốt truyện sau này.
Thế là, vào một đêm cách chuyến ra khơi cuối cùng của tàu “Klein Vĩnh Hằng” nửa năm, hai cô gái phấn khởi đặt phòng và vé máy bay. Sau đó, họ bắt đầu chờ đợi và háo hức.
Cho đến ngày trước khi lên máy bay.
Sếp của Mộc Mộc đột xuất yêu cầu cô đi công tác, kể cả đã xin nghỉ từ trước cũng không được. Vì tám ngày nghỉ này, suốt nửa năm Mộc Mộc gần như làm việc không ngừng nghỉ, hầu như cuối tuần nào cũng phải đi làm thêm để sếp có thể duyệt cho cô.
A Sầm vẫn nhớ khi ấy, Mộc Mộc uể oải bước ra ban công, mở cửa sổ, A Sầm lập tức lao đến ôm lấy eo cô, “Đừng nghĩ quẩn nhé!”
Mộc Mộc nhìn thành phố bê tông cốt thép thì thở dài, quay lại nhìn A Sầm, cười tự giễu: “A Sầm, chúc cậu chơi vui vẻ. Nhớ chơi luôn phần của mình nữa nhé. Nhớ chụp nhiều ảnh!”
…
Sân bay Vancouver lúc này khá vắng vẻ, vì không phải mùa cao điểm, cũng không phải dịp nhập học của sinh viên hay kỳ nghỉ lễ Quốc khánh “11” của Trung Quốc. Thủ tục nhập cảnh cũng rất dễ dàng. Hải quan chỉ xem vé máy bay khứ hồi và email đặt chỗ trên du thuyền của A Sầm rồi cho cô qua.
Du thuyền sẽ rời cảng vào lúc 5 giờ chiều, vẫn còn vài tiếng nữa. Thông thường, chỉ cần đến cảng trước hai giờ là đủ, nhiều người tranh thủ dạo quanh thành phố Vancouver trước khi lên tàu.
Nhưng A Sầm không quen ai ở đây, cũng chẳng rành đường, nên cô quyết định lên một chiếc taxi, nói tên cảng và tên du thuyền cho tài xế.
Vào giữa tháng Chín, Vancouver đã bước vào mùa thu, mưa liên tục kéo đến, bầu trời xám xịt, tầng tầng lớp lớp. Con tàu “Klein Vĩnh Hằng” dần hiện ra trong làn mưa mờ ảo. Chiếc tàu khổng lồ đang yên lặng neo đậu tại cảng số tám.
Trên lan can, boong tàu, thậm chí cả đỉnh mũi tàu, từng hàng hải âu đang đậu trông rất thảnh thơi.
So với các du thuyền hiện đại ngày nay, con tàu này vẫn không hề nhỏ. Có thể tưởng tượng khi mới ra mắt, con tàu hẳn đã gây chấn động lớn. “Khổng lồ” không phải là đặc điểm duy nhất của nó.
Trên đường đến đây, A Sầm đã tìm hiểu về lịch sử của con tàu. Người ta nói rằng ngay từ khi thiết kế, “Klein Vĩnh Hằng” đã gây ra nhiều tranh cãi. Bên trong tàu có vô số cửa nhỏ và lối đi hẹp, giống như hệ thống mao mạch trên cơ thể người. Thiết kế này nhằm giúp nhân viên di chuyển dễ dàng, hạn chế gặp mặt hành khách, để các vị khách VIP có thể thoải mái tận hưởng kỳ nghỉ.
Tuy nhiên, một số nhà bình luận cho rằng thiết kế này chỉ tạo điều kiện cho kẻ trộm ẩn náu. Còn một số giáo sĩ thì bày tỏ sự bất an, cho rằng nhiều cửa và hành lang trong tàu giống như lối dẫn đến một thế giới khác. A Sầm nghĩ thầm rằng có lẽ họ đang ngầm ám chỉ đến “địa ngục”.
Một câu chuyện thú vị khác là trước chuyến hành trình đầu tiên, con tàu này gặp nhiều trục trặc kỹ thuật, chiếc đinh đầu tiên được đóng vào mũi tàu cũng biến mất một cách kỳ lạ. Điều này khiến xã hội xôn xao, vì chiếc đinh vốn chỉ mang tính trang trí lại được coi là biểu tượng may mắn, giúp tránh những tai nạn trên biển.
Xuống taxi, A Sầm tìm thấy nơi gửi hành lý. Hành khách và hành lý được vận chuyển riêng biệt. Cô đưa vali cho nhân viên, họ hỏi số phòng rồi gắn số thẻ vào hành lý, ra hiệu cho cô có thể vào cảng làm thủ tục lên tàu. Hành lý sẽ được chuyển thẳng lên phòng cô.
A Sầm chỉ mang theo một túi nhỏ đeo chéo để đựng điện thoại, ví và hộ chiếu. Thủ tục check-in không mất nhiều thời gian nhờ có nhiều tình nguyện viên hướng dẫn.
Cô đến khá sớm, trước giờ tận bốn tiếng. Cô tưởng mình sẽ phải ngồi đợi trong tòa nhà này, nhưng nghe loa thông báo rằng khách có thể lên tàu, ngồi chờ tại nhà hàng trên tầng 22 và ăn chút gì đó trong lúc chờ dọn phòng.
Trên máy bay, A Sầm không ăn gì vì không muốn bị đầy bụng khi phải ngồi suốt 12 tiếng, nên chỉ uống trà nóng. Giờ đây, cô thực sự thấy đói.
Du thuyền có tổng cộng 25 tầng.
Khoảng mười mấy tầng giữa là phòng nghỉ cho khách. Các tầng cao và thấp là khu vực công cộng phục vụ nhu cầu giải trí, ăn uống. Tầng 21 là quán bar, tầng 22 là nhà hàng, tầng 23 có hồ bơi và suối nước nóng, tầng 24 là spa, phòng gym và suối nước nóng riêng. Tầng 5 có phòng trưng bày và boong ngắm cảnh, tầng 6 là sòng bạc, tầng 7 là rạp hát và nhà hàng cao cấp.
Tầng 25 là khu vực riêng, có tầm nhìn đẹp nhất và chỉ có duy nhất một phòng. Giá phòng này gần như cao ngất ngưởng, khi A Sầm và bạn cô tìm phòng để đặt, thấy giá phòng này thì chỉ biết tròn mắt ngạc nhiên, nhưng hiển thị lại là “sold out” – chắc là do một đại gia nào đó đặt dài hạn.
Các tầng còn lại là phòng khách thông thường, phòng của A Sầm ở tầng 8, phòng 808 – một con số may mắn. Khi còn học đại học, A Sầm đã thích số 8 vì khi lật ngược lại, nó trông như biểu tượng vô cực, mang ý nghĩa là không giới hạn.
Tại nhà hàng trên tàu, A Sầm thấy khá đông người. Đúng như lời đánh giá trên mạng, hành khách chủ yếu là những cụ già. Họ chậm chạp lấy đồ ăn trên quầy buffet, một số còn ngồi chơi bài trên bàn ăn. Lúc lấy thức ăn, A Sầm còn đỡ giúp một bà cụ quả cam sắp rơi xuống đất. Bà cụ nhìn cô gái châu Á tóc đen với ánh mắt đề phòng, không hề nói cảm ơn. A Sầm chỉ nhún vai, không bận tâm.
Ăn xong và chờ thêm một lúc, các phòng đã được dọn xong, cô có thể trở về phòng mình.
A Sầm quẹt thẻ mở cửa phòng, thấy vali đã được nhân viên đặt ở giữa phòng. Căn phòng nhỏ có một giường đôi, một ghế sofa nhỏ, một tivi treo tường. Cạnh cửa có một tủ quần áo và khu vực vệ sinh hình tam giác. Cô đặt túi xách xuống rồi đẩy cửa ban công ra.
Thật đáng đồng tiền bát gạo.
Trước mặt là một vùng biển rộng lớn, như thể những cảm xúc bị kìm nén bấy lâu đột nhiên được giải phóng. A Sầm hít thở sâu, giơ tay vẫy chào bầu trời và biển khơi như một đứa trẻ. Những con hải âu lượn vòng trên trời thỉnh thoảng kêu lên, như thể đáp lại lời chào của cô.
Ban công rộng rãi hơn nhiều so với tưởng tượng, A Sầm vịn vào lan can nhìn xuống biển. Mặt biển tuy lặng yên nhưng vẫn có sóng dập dềnh, duy trì một sự cân bằng rất kỳ lạ. Cả một vùng trời mưa mờ mịt nhưng mặt biển lại xanh thẫm. Đường chân trời là nơi giao nhau giữa màu xanh đậm và xám, thấp thoáng là đường chân trời của thành phố Vancouver. Trong mưa, mọi thứ đều mang vẻ trang nghiêm. Con tàu vẫn chưa khởi hành.
Trở lại phòng, A Sầm có chút buồn chán, định sắp xếp lại hành lý và lấy một chiếc áo khoác dày ra.
Vừa mở vali để lấy đồ, cô phát hiện ra hành lý của mình có dấu hiệu bị ai đó lục lọi. Hành lý cô chủ yếu là quần áo và giày dép, không có đồ vật gì quá giá trị, nhưng bên trong có máy tính, khiến cô hơi lo lắng.
Cô nhanh chóng mở vali để kiểm tra xem có mất mát gì không. Máy tính vẫn ở đó, quần áo giày dép đều đủ, túi đồ vệ sinh cá nhân cũng không thiếu. Nhưng lại có thêm một vật lạ.
Đó là một quả bóng tròn nhỏ với màu sắc tối sẫm kỳ lạ.
Cô cầm quả bóng lên xem xét. Nguyên bản có lẽ nó có màu đỏ, nhưng bị phủ bởi những vết bẩn sẫm màu nên trông rất cũ. Bề mặt quả bóng giống chất liệu của một quả bóng tennis, có vài vết răng động vật. Những vết bẩn này là màu đỏ thẫm, giống vết rượu vang khô, hoặc… giống như vết máu khô. Ý nghĩ này khiến A Sầm tự mình giật mình. Rồi cô tự nhủ mình có lẽ đã quá nhạy cảm. Có thể đây là trò đùa của một đứa trẻ nào đó, hoặc do con chó của ai đó tha vào.
Nghĩ vậy, A Sầm thấy hơi tiếc cho chú chó. Có khi đây là món đồ chơi yêu thích của nó. Cô lắc nhẹ quả bóng trong tay rồi ném nhẹ xuống sàn, tưởng tượng nó sẽ nảy lên trở lại.
Quả bóng nảy lên một lần, có lẽ do quá cũ nên không còn độ nảy, rồi nó lăn vào khe tủ. A Sầm phải nằm rạp xuống sàn để với tay tìm.
Ngoài trời âm u, trong phòng ánh sáng yếu, A Sầm nheo mắt tìm trong khe tối mịt, nhưng quả bóng như biến mất. Cô thậm chí đã sờ đến tận tường mà vẫn không thấy. Đúng lúc ấy, trong khe tối bỗng xuất hiện một đôi mắt đỏ như máu nhìn thẳng vào A Sầm. Ngay sau đó, một sức mạnh vô hình siết chặt lấy tay cô trong khe, kéo mạnh khiến vai cô va mạnh vào mép tủ. A Sầm kêu lên, cảm giác ớn lạnh chạy khắp người.
Ngay lúc ấy, tiếng kêu của cô bị lấn át bởi âm thanh vang dội hơn – tiếng còi báo hiệu du thuyền khởi hành.
Tiếng còi kéo dài, rồi loa phát thanh bắt đầu phát thông tin, sức mạnh giữ chặt tay cô cũng biến mất. Cô lập tức rút tay về, quả bóng vẫn nằm yên dưới chân cô, như thể chưa bao giờ lăn vào trong.
A Sầm đứng dậy bật đèn, cố trấn tĩnh. Cô lại nằm xuống nhìn vào dưới tủ để tìm nguyên nhân của lực kéo, nhưng chỉ thấy bụi, lông vụn và một lỗ thông gió dài hình quạt.
Liệu có ai trốn sẵn ở đó không? Cô nghĩ, nhưng ngay lập tức phủ nhận.
Không thể nào. Cô ướm thử khoảng cách rộng nhất của lỗ thông gió; ngay cả một đứa trẻ cũng khó có thể thò tay qua.
Vậy đó là gì?
Cô ngồi bệt trên sàn, nhìn quả bóng nằm yên bên cạnh. Loa vẫn đang thông báo các lưu ý và giờ mở cửa của nhà hàng, hồ bơi, nhưng cô không nghe được gì.
Cô tự nhủ, có lẽ là chuyến bay dài khiến cô sinh ra ảo giác? Hoặc do cột sống bị chèn ép quá lâu? Trước đây, khi thức trắng đêm viết sách, cô cũng từng gặp những ảo giác tương tự, như nghe tiếng động lạ hoặc thấy bóng cây ngoài cửa sổ trông như quái vật.
Nhưng cảm giác đau âm ỉ ở vai như nhắc nhở đó không phải là ảo giác; vừa rồi có gì đó thật sự đã cố kéo cô vào. Còn đôi mắt đỏ rực đó… ánh mắt đầy giễu cợt và hận thù… khiến người ta rợn tóc gáy. Nhưng cô không muốn nghĩ quá nhiều. Có lẽ là thần kinh cô yếu đi. Cô xoa nhẹ vai rồi quyết định ra ngoài đi dạo một chút.
Lúc này, tàu đang chầm chậm rời cảng, mưa cũng đã ngớt. Cô quyết định lên boong quan sát ở tầng 5, nơi tầm nhìn rộng hơn ban công. Cô muốn ngắm đường chân trời của thành phố dần dần biến mất. Nhiệt độ ngoài trời chưa tới 20 độ, gió biển lại thổi mạnh, A Sầm khoác thêm một chiếc áo len trắng rồi mang theo thẻ phòng bước ra ngoài.
Hành lang dài của khoang tàu kéo mãi không thấy điểm dừng, có vài xe đẩy giống loại xe của dịch vụ phòng khách sạn, trên đó có các gói dầu gội và sữa tắm nhỏ.
Trên đường, A Sầm gặp Jessica, người phụ trách dịch vụ phòng cho tầng này. Jessica đã từng nhiệt tình tự giới thiệu và nói rằng có gì cần cứ tìm cô ấy. Hai người chào hỏi, A Sầm hỏi thêm về giờ mở cửa của nhà hàng buffet. Jessica kiên nhẫn mỉm cười, nhắc lại những gì vừa phát thanh.
Lên đến tầng 5, trên boong quan sát, có dãy ghế nằm xếp hàng ngoài mép boong. Vài cụ ông cụ bà ngồi đó, trên tay cầm ly cocktail.
Đám hải âu theo tàu bay lượn là đà trên mặt biển, sải rộng đôi cánh xám trắng dài hơn nửa mét. Gần chỗ A Sầm đứng bên lan can có một con hải âu đứng yên, không theo đàn đuổi theo sóng biển. Nó lặng lẽ đậu trên lan can, mắt hướng ra biển.
Có lẽ do con hải âu này quá đỗi yên tĩnh, A Sầm cảm nhận được nét ưu tư trong đôi mắt của nó. Hải âu quay đầu, hai ánh mắt họ chạm nhau. Gió thổi tung vạt áo trắng và mái tóc đen mượt của A Sầm. Con hải âu ngắm nhìn cô từ đầu đến chân. Cô thấy chiếc mỏ nhọn màu cam của nó thật thú vị, mỏ cong ở ngoài, trông như một cái móc nhỏ.
Cô nhẹ nhàng vẫy tay với chú hải âu, “Xin chào.” Hải âu không đáp lại mà dang cánh lao thẳng xuống biển rồi lập tức được gió nâng lên, bay cao vút lên trời một cách uyển chuyển. A Sầm mỉm cười vỗ tay, không ngần ngại khen ngợi: “Tuyệt quá!” Hải âu liếc nhìn cô, dường như cô nghe thấy một tiếng khẽ khịt phát ra từ cổ họng nó, như thể coi thường lời khen của con người. Cô tiếp tục vẫy tay, hy vọng nó sẽ thể hiện thêm vài kỹ năng bay lượn, nhưng hải âu chẳng làm như ý muốn của cô, nó chỉ vỗ cánh rồi bay xa dần, sau đó dần dần biến mất.
Nhìn ngắm đàn hải âu một lúc lâu, A Sầm bắt đầu cảm thấy chán. Khi quay lại, cô đi ngang qua một ông cụ người da trắng với bàn cờ trước mặt, nhưng không có ai ngồi đối diện. Cô nhìn ông thêm vài lần, cả hai có một khoảnh khắc đối diện nhau. Dường như ông cũng đang quan sát cô, có lẽ đã thấy cảnh cô vui đùa trẻ con với chú hải âu khi nãy.
Ông cụ không cảm thấy ngại ngùng khi mắt chạm mắt, rất lịch sự bắt chuyện:
“Cô gái đáng yêu, cô có biết chơi cờ không?”
A Sầm có chút lúng túng, biết việc nhìn chằm chằm ông khi nãy có vẻ không lịch sự lắm, nên vội nói: “Xin lỗi vì đã làm phiền ông. Tôi không biết chơi cờ vua. Ông đang chờ ai sao?”
Ông cụ chỉnh lại chiếc mũ, chân thành than thở: “Ồ, thật đáng tiếc, không thể mời cô chơi cờ với một ông già như tôi. Đúng là tôi đang chờ một người bạn cũ, nhưng ông ấy bận, có lẽ lát nữa mới đến. Nếu cô không phiền thì ngồi lại cùng tôi trò chuyện nhé.” Ông cụ vừa nói vừa ho, lấy khăn tay từ túi áo để che miệng.
Sau khi ho một lát, ông tiếp tục: “Tôi có thể mạo muội hỏi tên cô được không? Cô có gương mặt Á Đông rất đáng yêu. Mùa này rất ít người châu Á chọn du thuyền này, lại còn là một cô gái trẻ trung xinh đẹp. Cô đến từ Trung Quốc phải không?”
A Cẩn biết người nước ngoài hay khen ngợi, nhưng được khen như vậy cũng khiến cô hơi lúng túng, trả lời: “Vâng, đúng vậy. Tôi… xuất hiện trên con thuyền này hoàn toàn là do bốc đồng. Cảm ơn ông vì lời khen. Tôi tên là A Sầm…”
Cô chậm rãi phát âm từng âm tiết: “A—SẦM—”
Ông cụ cười vui vẻ: “Rất vui được gặp cô. Cô cứ gọi ta là Francis. A Sầm, phải không?” Thật ngạc nhiên, Francis phát âm rất chuẩn.
A Cẩn khen ngợi: “Ông phát âm chuẩn lắm.”
“Cảm ơn.” Ông không tỏ vẻ tự mãn mà chỉ tiếp tục câu chuyện, “Cô vừa nói mình lên con thuyền này do bốc đồng, tôi có thể hỏi điều đó nghĩa là gì không?”
“À, nói thật là, vé con tàu này rẻ hơn mấy chuyến khác…” A Sầm thành thật nói, “Thêm vào đó, tôi là một tác giả viết truyện kinh dị, muốn tìm kiếm chút cảm hứng.”
“Ra vậy, thật thú vị.” Francis gật gù thích thú, “Vậy thì tôi chỉ có thể nói rằng cô đã chọn đúng. Tôi cũng biết vài truyền thuyết về con tàu này.”
A Sầm nghe vậy càng tò mò, liền gật đầu khuyến khích ông kể tiếp, ông cũng không làm cô thất vọng:
“Tôi nghe nói đây là một con tàu bị nguyền rủa.”
“Người phụ nữ Gypsy đã nguyền rủa con tàu này tên là Didi, xin lỗi vì trí nhớ của tôi không còn tốt lắm, nhưng tôi chắc chắn bà ấy tên là vậy. Người ta nói hồn ma của bà ấy vẫn còn lởn vởn trong các khoang tàu.
“Và vào lúc 00:08 sáng, đừng rời khỏi phòng. Nếu không, cô sẽ thấy bà ấy than khóc…” Francis có chút u ám, cố tình hạ giọng để tăng phần huyền bí.
A Sầm không kìm được mà nắm chặt tay khi đang say sưa nghe, đột nhiên tiếng còi tàu vang lên:
“Bíp bíp—”
Cô giật mình hoảng hốt, rồi nhận ra đó chỉ là tiếng còi của du thuyền. Lúc này, ông Francis bật cười. A Sầm nhận ra mình vừa bị trêu nên đỏ mặt, cô định nói gì đó.
Francis chỉ tay về phía một ông cụ khác đang tiến lại gần, “Bạn tôi đến rồi.”
A Cẩn vội vén tóc ra sau tai, đứng lên hơi luống cuống, “Ồ, vậy tôi sẽ không làm phiền nữa. Chúc ông và bạn chơi cờ vui vẻ! Cảm ơn câu chuyện của ông, rất gợi cảm hứng cho tôi.”
Francis không vội, lục lọi túi, lấy ra một vật gì đó rồi đưa ra trước mặt A Sầm.
“Rất vui được gặp, hãy nhận món quà kỳ quặc từ một ông già kỳ quặc. Đây là chiếc đinh tán đầu tiên của con tàu. Vì vài lý do không quan trọng, nó do tôi giữ lại. Dĩ nhiên, nó không có giá trị về tiền bạc, chỉ là một chiếc đinh tán bình thường thôi. Cô không cần phải lo lắng hay ngại ngùng.”
A Cẩn hơi ngập ngừng. Cô nhớ lại câu chuyện về chiếc đinh đầu tiên của tàu Klein bị mất trộm.
Chiếc đinh đầu tiên? Chẳng phải đã mất rồi sao? Cô nghĩ.
Hơi ngờ vực, cô đưa tay ra nhận chiếc đinh tán khá to. Ngay khi ngón tay cô vừa chạm vào, Francis bất ngờ rút tay lại, nét mặt trêu đùa pha chút hối tiếc, nói: “Thôi vậy. Xem như ông già này đãng trí. Ai lại dùng đinh tán làm quà gặp mặt chứ?”
Sự thay đổi bất ngờ của ông khiến A Cẩn ngơ ngác, sau đó cô lịch sự nói: “Không sao, tôi thấy cũng rất đặc biệt.”
Francis chăm chú quan sát biểu cảm của cô khi cô nói câu này, khiến cô hơi bối rối. Ánh mắt ông chuyển từ tiếc nuối sang một sự quan sát dịu dàng
Sau đó, ông lại đưa chiếc đinh tán ra, “Cô thật bất ngờ, không phải sao?” Cô nghĩ ông đang nói về việc cô thấy chiếc đinh tán đặc biệt nên thấy không có gì quá lạ.
Cô cầm chiếc đinh tán lên nhìn kỹ, thấy có khắc một vài chữ số kỳ lạ, có lẽ là năm sản xuất và nơi sản xuất. “Cảm ơn ông, tôi rất thích… cái đinh này?”
Cô thực sự không nghe rõ từ “đinh tán” mà Francis nói bằng tiếng Anh, chỉ biết cách gọi thông thường của nó là “đinh.”
“Đúng vậy, đinh tán.” Francis xác nhận.
“Đinh tán, được rồi, tôi nhớ từ này rồi.” A Sầm gật đầu.
Từ xa, một ông lão run rẩy bước tới, trông như chỉ cần boong tàu chao nhẹ là sẽ ngã xuống biển.
“Ôi trời, cuối cùng ông cũng đến rồi, tôi đã đợi ở đây cả ngàn năm rồi. May mà có cô A Sầm xinh đẹp nói chuyện cùng tôi.” Francis nháy mắt với A Sầm, rồi giới thiệu:
“Đây là người bạn cũ của tôi, Charles. Cô có thể gọi ông ấy là lão Charles. Đừng nhìn bề ngoài mà nghĩ ông ấy già, tuổi tôi còn lớn hơn ông ấy nhiều.”
Charles nhìn thấy chiếc đinh trong tay A Sầm thì thoáng ngạc nhiên, nhưng nhanh chóng che giấu sự ngỡ ngàng, nói: “Ông chủ đừng đùa thế chứ.”
Rồi ông quay lại đưa tay về phía A Sầm, “Chào cô A Sầm, cảm ơn cô đã nói chuyện cùng ông chủ nhà tôi.”
A Sầm bắt tay ông, nói: “Không có gì đâu, Francis vừa kể cho tôi một câu chuyện ma rất thú vị. Còn tặng tôi một chiếc… đinh tán rất đáng yêu. Vậy tôi không làm phiền các ông nữa.” Nói rồi cô đứng dậy rời đi. Đi chưa được xa, cô đã nghe thấy cuộc trò chuyện của hai ông già.
“Ôi, đừng gọi tôi là ông chủ trước mặt người khác nữa, tôi đã bảo ông bao nhiêu lần rồi.”
“Vâng, thưa ông chủ.”
…
A Sầm về phòng liền chợp mắt một lúc. Vừa tỉnh dậy chưa được bao lâu, còn đang ngẩn ngơ nhìn bức giấy dán tường hơi ngả vàng thì chuông điện thoại phòng reo lên.
“Cho hỏi đây có phải là phòng cô A Sầm không?” Đầu dây bên kia phát ra tiếng xì xào. “Đây là Charles. Xin lỗi đã làm phiền cô.”
“Là tôi đây. Ông Charles, sao ông biết số phòng của tôi vậy?” Giọng A Sầm vẫn còn ngái ngủ.
“Chuyện này đâu khó, chỉ cần hỏi trung tâm phục vụ là biết, đừng xem nhẹ sự kiên trì của ông già này nhé. Cứ gọi tôi là Charles thôi.” Charles cười ở đầu dây bên kia.
“Ha ha, được thôi. Vậy ông tìm tôi có việc gì sao?” A Sầm vừa nói vừa dụi mắt, ngồi dậy.
“Hy vọng tôi không làm phiền đến việc sáng tác của cô… Tôi nghe ngài Francis nói, cô là một tiểu thuyết gia rất xuất sắc.” Charles lịch sự nói.
“…”
A Sầm định khiêm tốn đôi chút, nhưng tiếng Anh không phải ngôn ngữ mẹ đẻ nên chưa nghĩ ra cách nói. Ngay lúc đó, cô nghe Charles tiếp tục: “Là thế này, tôi muốn mời cô lên tầng 25 dùng bữa tối cùng chúng tôi khi mặt trời lặn. Khi mặt trời lặn, hy vọng cô chưa quá đói.” Charles nhấn mạnh từ “mặt trời lặn” hai lần, khiến A Sầm không hiểu tại sao ông lại nhấn mạnh như vậy.
“Ồ…” A Sầm đoán từ “chúng tôi” hẳn là chỉ Francis và Charles, nhưng điều khiến cô bất ngờ hơn là họ lại là khách ở tầng 25?! Cô có hơi muốn từ chối, nhưng lại nghĩ rằng Francis và Charles là những ông lão hài hước và vui tính, không giống người xấu. Vì vậy cô đắn đo.
“À phải, cậu chủ và ông chủ có chút mâu thuẫn, lát nữa cô đừng nhắc đến ngài Francis trước mặt cậu chủ. Vậy hẹn gặp lại.” Charles không đợi A Sầm từ chối mà tự tin cúp máy.
A Sầm vẫn còn cầm ống nghe, đầu dây bên kia đã phát ra tiếng “tút tút”, khoan đã, cậu chủ?
…
Khi mặt trời gần lặn thì mưa cũng ngừng lại. Hoàng hôn trên biển trông lớn hơn thường lệ, những tia nắng cuối cùng cố gắng chuyển đổi màu sắc trên tấm nền trời bao la. Tiếng gõ cửa vang lên “cộc cộc” khi A Sầm vẫn đang đắm chìm trong cảnh tượng hoàng hôn.
Cô đứng dậy mở cửa, nhưng không thấy ai, nhìn xuống thì thấy một chú chó nhỏ màu đen. Nó mặc một bộ đồ đuôi tôm nhỏ, miệng ngậm một phong thư.
Lá thư toả ra mùi hương thơm ngát.
“Gửi cô A Sầm yêu quý: Đây là thẻ từ lên tầng 25. Chúng tôi chờ đợi sự có mặt của cô.” Dòng chữ được viết theo kiểu chữ thảo rất đẹp, nhưng khá cầu kỳ, A Sầm phải mất một lúc mới nhận ra các ký tự.
Cô cầm thẻ từ, quẹt mở cửa thang máy lên tầng 25. Tầng 25 là khu vực riêng nên thang máy chung không thể lên, chỉ có quẹt thẻ mới lên được.
Ra khỏi buồng thang máy, cô thấy một cánh cửa lớn hai cánh. A Sầm gõ cửa vài cái rồi thử quẹt thẻ, cửa mở ra.
Đập vào mắt cô là cửa sổ kính suốt từ trần đến sàn với tầm nhìn toàn cảnh, hơi lệch so với phong cách cổ điển của con tàu, nhưng rất thoáng đãng.
Một chàng trai trẻ với mái tóc đen đang ngồi trên ghế sofa nhìn ra ngoài, nghe tiếng động thì quay lại. A Sầm sững người, bởi chàng trai này có khuôn mặt phương Đông. Không chỉ vậy, anh ta còn vô cùng điển trai, toát lên vẻ lạnh lùng. Đây chắc là “cậu chủ” mà Charles đã nhắc tới. Nhưng khoan, con trai của Francis không phải là người nước ngoài sao?
Người đàn ông trông có vẻ mệt mỏi và tiều tụy, khi quay lại nhìn A Sầm, anh nhíu mày một chút, sau đó đứng dậy để chỉnh lại cà vạt, không nói lời nào rồi bước vào phòng ăn. A Sầm thấy anh đi chậm, gắng gượng giữ vẻ ngoài điềm tĩnh, nhưng sự mệt mỏi thì không che giấu nổi, dường như cả việc nói chuyện cũng khó khăn.
Cô cầm thẻ phòng đứng ở cửa, cảm giác mình không được chào đón. Đồng thời, cô thấy “cậu chủ” này có vẻ quen mặt. Không chỉ vậy, ánh mắt anh nhìn cô cũng như thể đã từng gặp qua, khiến cô không khỏi thấy lạ.
Đúng lúc này Charles bước tới.
“Ôi, thật thất lễ, thiếungia vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, gặp người lạ nên có chút không quen.” Charles dù xin lỗi cũng toát lên phong thái lịch thiệp.
A Sầm nhích từng bước ra phía sau, “Vậy sao, thật ra là do tôi làm phiền. Hay là tôi quay lại vậy…”
Charles vội nói: “Không không, tôi hy vọng cô ở lại, chuyện nhỏ này tôi có thể quyết được. Mời vào, bữa tối đã chuẩn bị xong, chỉ chờ cô thôi.” Charles hơi cúi người làm động tác mời, A Sầm nhìn ông lão lịch sự đến mức này đành phải miễn cưỡng bước vào phòng ăn.
Bầu không khí trên bàn ăn thực sự có chút tẻ nhạt. Đến món khai vị thì trông tinh thần của chàng trai có vẻ khôi phục phần nào, không còn thô lỗ như trước, dùng tiếng Anh có phần hờ hững tự giới thiệu. Anh nói tên mình là Felix Klein. Klein, Klein?
Trên bàn ăn chỉ có Felix và A Sầm. Charles kính cẩn đứng cạnh bên cạnh chàng trai.
A Sầm nói vài câu xã giao bằng thứ tiếng Anh còn vụng về của mình.
Giọng của Felix rất hay. Hồi trung học A Sầm từng đọc tiểu thuyết ngôn tình, trong đó miêu tả giọng nam chính “như nhung lụa”. Lúc đó cô còn thầm cười nhạo phép so sánh này là quá sến. Nhưng giờ nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có “nhung lụa” mới miêu tả đúng giọng của Felix. Trầm nhưng không thô, mượt mà nhưng không quá cao. Rất hay, có một sức hút khó tả.
“Tôi còn có một cái tên khác, là Lâm Cố. Cô có thể gọi tôi bằng tên này… chúng ta cứ nói chuyện bằng tiếng Trung đi.” Felix, không, phải là Lâm Cố, chuyển sang nói tiếng Trung trong nửa câu sau.
A Sầm nhìn Charles đang đứng hầu bên cạnh. Công việc trước đây của cô đôi khi cần gặp gỡ và làm việc với người nước ngoài, cô biết trong trường hợp có người không biết tiếng Trung đứng cạnh, nên tránh dùng tiếng Trung để không bất lịch sự.
Lâm Cố nhìn Charles, giải thích kiên nhẫn: “Charles nghe hiểu, ông ấy chỉ không nói được thôi, vậy nên không sao cả.”
A Sầm gật đầu. Lúc này, chú chó nhỏ mặc đồ đuôi tôm lại lững thững tiến tới nằm bên chân Lâm Cố.
A Sầm nhìn chú chó nhỏ, Lâm Cố nói: “Đây là Winston nhỏ.”
“Winston…nhỏ?” A Sầm lặp lại.
“Ừ, bố của nó là lão Winston, đã theo tôi nhiều năm. Sau đó vì tai nạn… đã chết trên con tàu này.”
“Xin lỗi.” A Sầm nói. Tuy nhiên, cô đã nhạy bén nhận ra thông tin trong lời nói của Lâm Cố, cảm thấy anh ta dường như đã sống trên con tàu này rất lâu, không giống một du khách bình thường. Nhưng người như thế nào lại ở mãi trên một con tàu chứ? Cô thấy khó hiểu, nhưng lúc này không phải là thời điểm thích hợp để hỏi câu đó.
“Không sao đâu.” Lâm Cố nói một cách thản nhiên, rồi nhấp một ngụm rượu vang, chuyển đề tài, “Rất ít người trẻ tuổi chọn con tàu này.”
“Tôi thấy cũng bình thường, con tàu này…” A Sầm định nói, chẳng phải anh cũng là người trẻ sao? Nhưng cô không dám nói ra, chỉ nói: “Sao nhỉ, đối với tôi khá thú vị đấy chứ.”
“Ồ?” Lâm Cố cố gắng thể hiện sự hứng thú.
“Cũ kỹ, to lớn, tối tăm, lại có chút gì đó bí ẩn.” A Sầm vừa nói vừa đếm trên tay.
“Hình như chẳng có gì là từ tốt cả.” Lâm Cố khẽ cười.
“Đúng vậy, nhưng nó cho tôi chút cảm hứng. Fr… một hành khách đã kể cho tôi một vài chuyện về con tàu này.” A Sầm nhớ lại lời dặn dò của Charles, không được nhắc đến “Francis,” nên vội vàng đổi lời.
“Nghe Charles nói cô viết tiểu thuyết.” Lâm Cố ngừng lại, nhớ lại thông tin Charles đã nói trước đó, “Tiểu thuyết kinh dị?”
“Vâng, thật xấu hổ, tôi vẫn đang trong giai đoạn khám phá. Bỏ việc để ở nhà viết lách, nhưng tạm thời không thể dựa vào nghề này mà nuôi sống bản thân.” A Sầm cuối cùng cũng nói ra sự thật thì thấy lòng nhẹ nhõm, mong rằng không ai nhắc đến “nhà văn xuất sắc” nữa.
“Có thể làm điều mình thích đã rất tuyệt rồi. Hơn nữa tôi thấy cô rất dũng cảm.” Lâm Cố ngẫm nghĩ rồi đặt ly rượu xuống, nói một cách nghiêm túc. Cô cảm nhận được sự chân thành từ anh, điều này làm cô có phần bất ngờ. Cô vốn nghĩ anh rất khó chịu với cô, coi cô là vị khách không mời mà đến.
“Anh đang nói về chuyện tôi lên con tàu này phải không?” A Sầm biết Lâm Cố đang nói đến điều gì, nhưng vì ngại ngùng nên đùa cợt.
“Không, tôi muốn nói đến việc cô dám từ bỏ công việc ổn định để theo đuổi giấc mơ của mình. Điều này rất đáng quý. Không phải ai cũng làm được, thực tế là đa số mọi người khó lòng làm được điều đó.” Lâm Cố nghiêm túc đáp.
“Cảm ơn.” A Sầm không phản bác, “Anh có muốn đọc truyện tôi viết không? Tôi có bản điện tử đây.”
Thấy Lâm Cố không phản ứng gì.
A Sầm vội nói thêm: “Xin lỗi, có phải tôi hơi thân thiết quá rồi không?”
“Không đâu, vừa nãy tôi hơi lơ đãng, xin lỗi, cô vừa nói gì? Tiểu thuyết của cô? Được chứ, tôi muốn xem.” Lâm Cố chợt tỉnh, trông có chút mệt mỏi, như thể sự mệt nhọc lại tìm đến anh.
“Tôi tự thấy viết cũng ổn, chỉ tiếc là lượt xem thấp, cũng không có nhiều bình luận của độc giả.” A Sầm lôi điện thoại ra. Màn hình điện thoại của cô đã vỡ nhưng cô vẫn chưa thay.
Thấy điện thoại, Lâm Cố nhíu mày. A Sầm suy nghĩ một lúc, rồi cất điện thoại đi, “Thôi, có lẽ cũng không cần xem, cũng chẳng xuất sắc gì.” Cô để ý thấy trong khoảnh khắc đó, Lâm Cố như thở phào nhẹ nhõm.
A Sầm có chút hối hận, cô cảm thấy lời Lâm Cố nói khi nãy chỉ là phép lịch sự. Anh ngấm ngầm toát ra một sự khó chịu, có lẽ vì không khỏe trong người. Dù cô không biết anh mắc bệnh gì, nhưng cô chắc chắn Lâm Cố không hoàn toàn giống như vẻ ngoài điềm đạm của mình; anh giống như một loài dã thú bị kìm hãm trong tảng băng. Hình ảnh này lướt qua khiến A Sầm rùng mình. Đúng vậy, một sinh vật hoang dã.
Ma cà rồng, người sói? Hai từ này hiện lên trong đầu cô. Thật nực cười. Đó chỉ là những sinh vật trong truyền thuyết.
Nhưng rồi cô lại bất giác rùng mình vì nghĩ đến đôi mắt dưới gầm tủ ban nãy.
Có thể là anh ta không?
A Sầm cố gắng phản bác suy đoán của mình: vừa rồi cô đã thấy anh ta ăn uống bình thường, rượu cũng là Charles rót từ cùng một chai, cô cũng đã uống, đó là rượu bình thường. Nhưng nhất định phải đợi đến lúc mặt trời lặn mới ăn tối? Quả là kỳ lạ. Hay chỉ là trùng hợp?
A Sầm lắc đầu, cố gắng xua đuổi suy nghĩ đó khỏi tâm trí.
Lâm Cố chăm chú quan sát cô, người phụ nữ này từ lúc vào cửa đến giờ biểu cảm rất phong phú, lúc thì chán nản, lúc thì tinh ranh, rồi nghĩ rằng mình che giấu cảm xúc rất giỏi nhưng thực ra bộc lộ hết, kể cả việc cô ấy để ý đến gương mặt của anh. Đúng vậy, cô luôn chăm chú nhìn anh. Nhưng anh lại không cảm thấy khó chịu vì điều này.
Thấy cô lắc đầu, Lâm Cố bất giác lên tiếng: “Sao thế?”
“Không có gì.” A Sầm có chút uể oải, có lẽ vì rượu.
Con tàu này quá cũ kỹ, đúng là có chút áp lực, luôn làm cô nghĩ ngợi lung tung. Nhưng với một nhà văn thì nghĩ ngợi lung tung là điều tốt, có vẻ như tối nay có thể thức đêm sáng tác rồi, trong đầu cô đã có chút ý tưởng.
Bữa tối không kéo dài lâu. A Sầm nhanh chóng xin phép ra về. Cô còn cố ý quan sát sắc mặt của Charles, không ngờ ông lại tỏ ra hài lòng, điều này làm cô khá ngạc nhiên. Cô vốn nghĩ không khí này đã ngại ngùng đến cực điểm, chắc chắn Charles sẽ hối hận vì mời cô đến.
Về phòng, A Sầm mở laptop, hào hứng chuẩn bị bắt đầu viết.
Nhưng thực tế là đến tận mười một giờ, cô vẫn chưa viết được đoạn nào ưng ý.
A Sầm uống một ngụm nước lớn, quyết định đi ngủ sớm.
Nhưng khi lên giường rồi cũng không thoải mái, chưa ngủ được hai tiếng thì cô bị tiếng động ầm ầm đánh thức, bật đèn lên nhìn điện thoại, 00:08.
Là một người viết tiểu thuyết kinh dị, A Sầm lẽ ra không nên cảm thấy sợ hãi. Giống như vụ việc kinh hoàng với chiếc tủ quần áo mà cô gặp phải vào chiều hôm qua, lẽ ra cô nên cảm thấy phấn khích với những chuyện kỳ lạ như thế. Nhưng cô vẫn không khỏi nhớ lại những lời của Francis vào ban ngày, về hồn ma Didi của người Gypsy, khiến cô cảm thấy rùng mình.
Tiếng động bên ngoài quá lớn, đến mức cô chắc chắn các phòng khác cũng phải nghe thấy. A Sầm bực bội đứng dậy, quyết định tìm Jessica để nói về chuyện này.
Cô mở cửa, thò đầu ra ngoài để xem có ai ở phòng khác có phản ứng gì không, rồi cô nhìn thấy một cảnh tượng đáng kinh ngạc.
Chỉ thấy một quả cầu pha lê đỏ tươi khổng lồ, gần như chiếm hết cả hành lang, đang lăn nhanh về phía cô.
Trong khoảnh khắc đó, đầu óc A Sầm trở nên trống rỗng, không kịp suy nghĩ xem điều này có hợp lý không, chỉ vội vàng thu mình lại trong phòng, “rầm” một tiếng đóng chặt cửa.
Cô chống tay lên cửa, xoa trán, cảm giác như mình đang viết tiểu thuyết đến phát sinh ảo giác, hoặc có thể cô vẫn chưa tỉnh khỏi giấc mơ. Cô áp tai vào cửa nghe ngóng, âm thanh ầm ầm dần nhỏ lại, sau một lúc, bên ngoài đã trở lại yên tĩnh.
Cô mở cửa ra lần nữa, hành lang trong khoang tàu vẫn bình thường, các phục vụ vẫn đẩy xe đi lại, còn du khách trở về từ quầy bar, đầy những tiếng cười đùa, huyên náo, như thể quả cầu pha lê đỏ khổng lồ đó chưa từng lăn qua.
A Sầm có phần bàng hoàng, trở về giường, tự nhủ rằng chắc chắn đó chỉ là ảo giác, chỉ là do lệch múi giờ mà thôi.
Đêm đó, cô mơ màng bước vào giấc ngủ.
Trong mơ, cô đứng trong hành lang của khoang tàu. Cô thấy quả cầu pha lê đỏ khổng lồ lăn đến gần đang sắp nghiền nát cô, nhưng cô lại không thể di chuyển.
Lúc này, có một con chó đen khổng lồ ngậm một quả bóng đồ chơi màu đỏ phóng ra. Quả bóng nhỏ rơi xuống đất, lăn về phía trước. Cô đứng ngây người, còn con chó lớn sủa vào cô, cố gắng khiến cô chạy theo hướng quả bóng để trốn thoát, trong khi nó đứng chắn trước quả cầu pha lê. Quả cầu khổng lồ lăn qua, A Sầm chuyển sang góc nhìn thứ ba, chỉ thấy bộ xương của con chó đen bị nghiền nát, nó hấp hối nằm trên mặt đất, trên vòng cổ có chữ “Winston.” Trong mơ, khắp nơi là máu, từ hành lang đến boong tàu… máu lan rộng ra, cho đến khi nhấn chìm quả bóng nhỏ đã cứu mạng cô.
Cảnh tượng thay đổi, con chó đen lồm cồm bò dậy, xương thịt và cơ bắp từ từ phục hồi, rồi từ trong vũng máu, nó nhặt quả bóng nhỏ bẩn thỉu xỉn màu đỏ tối ấy lên, đi xuyên qua dòng người đang lần lượt lên tàu, cuối cùng thả quả bóng đó vào trong va li của A Sầm — chính xác là trong chiếc va li có treo thẻ phòng số 808 của cô.