Ai đó lay vai tôi. Tôi chớp mắt ngồi dậy. Rachel đang nhoài người ra cửa sau xe.
“Chúng ta đang ở đâu đây?”
“Via Dolorosa. Đó là một bức tranh siêu thực đang chuyển động. Anh còn muốn xem không?”
Tôi chui ra khỏi xe và sợ hãi đứng nhìn đám đông du khách, trong số họ có bốn người đang khiêng trên vai những thánh giá lớn bằng gỗ. Hai người có lẽ sẽ đóng vai Jesus mặc áo choàng trắng, những người khác mặc quần áo đường phố. Các thánh giá đều có gắn bánh xe để dễ di chuyển mà theo tôi thấy nó khiến việc khiêng vác trở nên không cần thiết.
“Anh có nhận ra điều gì trong các giấc mơ của anh không?” Rachel hỏi.
“Không. Chúng ta đi thôi.”
Ibrahim dẫn chúng tôi đi trên con đường trải sỏi, luồn lách qua đám khách du lịch với vẻ khéo léo thuần thục. Tôi đã chờ đón nhận một không khí sùng kính, nhưng không khí ở đây lại giống trong rạp xiếc hơn. Một mớ hỗn tạp đủ thứ giọng vang dội giữa các bức tường: tiếng Đức, Pháp, Anh, Nga, Hebrew, Ả Rập, Nhật và Ý, và đó lại chính là những thứ tiếng tôi có thể nhận biết. Một người đầu húi cua nói giọng Alabama đang say sưa thuyết giảng với một nhóm hành hương Nhật Bản. Ibrahim nói luôn miệng suốt cả quãng đường bằng thứ giọng đều đều vô cảm hình thành qua nhiều năm hành nghề hướng dẫn.
“Gượm hẵng,” Rachel nói, chặn ông ta lại. Nàng quay sang tôi, “Anh muốn xem cái gì?”
“Chúng ta đang ở đâu đây?”
Ibrahim mỉm cười. “Thưa ngài, chỗ cánh cửa xanh trên kia là trường Omaria, trạm đầu tiên của đường thánh giá, nơi Chúa Jesus bị kết tội chết.”
“Anh có muốn xem chỗ đó không?” Rachel hỏi.
“Không. Trạm thứ hai là gì?”
Ibrahim chỉ tay xuống dưới con đường trải sỏi dẫn đến bức tường gạch hình bán nguyệt. “Đấy là nơi Jesus bắt đầu mang thập giá. Cuối phố là nhà nguyện Flagellation, nơi bọn lính La Mã quất roi lên Jesus, ấn lên đầu Người vành gai, và nói, ‘Chào! Vua của dân Do Thái!’ Sau đó Pilate dẫn người đến trước đám đông dân chúng và kêu lên: ‘Ecce homo! Các ngươi hãy nhìn con người này!’ “
Ibrahim cung cấp thông tin này với vẻ phấn khích của một người đọc số trò bingo ở viện dưỡng lão.
“Đi tiếp đi,” tôi nói. “Đến nhà thờ.”
Người hướng dẫn của chúng tôi tiếp tục đi xuôi xuống phố. Chúng tôi đi qua một cánh cổng màu đen trong vòm cổng bằng đá trắng, và Ibrahim nói gì đó về chuyện Jesus khuỵu ngã lần thứ nhất. Tôi chăm chăm nhìn cánh cổng mà chẳng cảm thấy gì. Có lẽ những gì tôi đang tìm kiếm nằm ẩn sâu dưới mê cung đường phố, cửa hiệu và mái hiên này. Jerusalem dường như cũng giống Cairo, được dựng trên đống xương tàn của chính nó, nơi mà bất kỳ công trình kiến trúc mới nào cũng khai quật lên những chương sử đã mai một từ lâu.
Ibrahim dẫn chúng tôi qua một vòm cổng bán nguyệt bằng gạch khác, và bắt đầu bài rao giảng mới của mình. “Đây là trạm thứ năm, nơi bọn lính La Mã bắt Simon xứ Cyrene nâng thánh giá lên vai Jesus.”
Rachel liếc nhìn tôi. “Tiếp tục đi,” tôi nói.
Một thằng bé bán vành gai dạo tươi cười lượn qua. Nó tưởng cái nhìn chăm chú của tôi là dấu hiệu thích thú, nhưng Ibrahim đã xua nó đi. Khi tôi nhìn mớ vành gai trên tay thằng bé lúc lắc xuôi con phố, mắt tôi bỗng tối sầm lại, và hai đầu gối tôi mềm nhũn. Rachel lao đến đỡ dưới cánh tay phải của tôi rồi chúng tôi cùng nhau loạng choạng bước theo Ibrahim.
Mấy trạm dừng sau đó mờ mờ ảo ảo những dòng chữ Palestine nhập nhòa hình ảnh kỳ lạ: Nơi đây Veronica đã lau chùi khuôn mặt khổ ải của Jesus, khi ấy chân dung chân thực của Người in hằn một cách kỳ diệu lên tấm mạng. Nơi đây Jesus ngã khuỵu lần thứ hai… nơi đây Người nói, “Hỡi những người con gái của Jerusalem, đừng khóc vì ta, mà hãy khóc cho chính bản thân và con cái các người…”
Chúng tôi đi qua một nóc nhà và một nhà nguyện tối om, rồi bỗng thấy mình đang đứng trong một cái sân chật cứng người trước nhà thờ Romanesque. Khách hành hương, linh mục, nữ tu đi đi lại lại dưới con mắt canh chừng của hàng chục lính Israel đeo súng máy.
“Đây là nhà thờ Mộ Chúa,” Ibrahim vừa nói vừa vẫy tay về phía tòa nhà. “Do những người Thập tự chinh xây trong năm mươi năm, từ 1099 đến 1149. Ban đầu nhà thờ với hai dãy cột do Nữ hoàng Helena, mẹ của Constantine, xây nên, bà đến đây năm 325 và phát hiện ra những mảnh của chính cây thánh giá trong chiếc hang sâu dưới lòng đất.”
Tôi thất thần nhìn dòng du khách trước cửa nhà thờ.
“Lượng khách du lịch như thế này không đến nỗi tệ,” Ibrahim nói. “Vào mùa này du lịch kém lắm. Chiến sự làm mọi người sợ chả ai dám đến, ngay cả trong Tuần Thánh. Tốt cho các vị nhưng xấu cho chúng tôi. Ngài vẫn ổn đấy chứ? Tôi có thể kiếm ít nước cho ngài trong khi chờ đợi.”
“Tôi không sao đâu.”
“Anh có thể tựa vào em,” Rachel nói trong khi chỉnh lại dáng đi đi dưới cánh tay tôi. Tôi dựa vào nàng mạnh hơn một chút. “Cám ơn em.”
Nàng chạm mu bàn tay vào má tôi. “Giá mà em đo được huyết áp của anh lúc này.”
“Phía bên phải cổng vào là trạm thứ mười,” Ibrahim nói. “Tại đó Jesus trút bỏ y phục của Người. Năm trạm thánh giá cuối cùng nằm ngay trong lòng nhà thờ.”
“Thật kỳ lạ, phải không?” Rachel khẽ nói. “Hàng triệu người kéo đến để xem một ngôi mộ rỗng không?”
Cố hết sức tôi cũng chỉ có thể gật đầu.
“Đây là ngôi mộ rỗng duy nhất trong bất kỳ nhà thờ Thiên chúa giáo nào trên thế giới,” Ibrahim nói. “Thiên sứ hỏi các bà Mary, ‘Các người tìm kiếm gì?’ ‘Jesus xứ Narareth,’ họ đáp. ‘Người không có ở đây,’ thiên sứ nói. ‘Người đã phục sinh rồi.’ “
Mảnh sân bỗng dưng mờ đi trước mắt tôi, và tôi thấy chân tay mình nhẹ bẫng. Tôi tưởng như đang bềnh bồng trên cánh tay Rachel.
“David?” nàng hỏi. “Anh có nghe em nói không?”
Tôi chớp chớp mắt và thấy mình đang nhìn lên trần nhà bằng đá. “Chúng ta vào trong nhà thờ rồi à?”
“Anh đang mộng du,” nàng thì thầm, mắt nàng đầy vẻ lo lắng. “Phải đưa anh trở lại khách sạn thôi.”
“Chúng ta đã tới đây rồi. Chúng ta làm được rồi. Anh phải nhìn nó.”
“Nhìn gì?”
Giờ thì tôi đã biết. “Ngôi mộ.”
Nàng quay sang Ibrahim. “Mộ Jesus ở đâu?”
“Phía này. Trong nhà thờ này mọi điểm đều gần nhau.” Ông ta chỉ phiến đá cẩm thạch ánh đỏ trên nền nhà. Mấy ông bà bận trang phục đường phố quỳ áp mặt vào phiến đá. Phía trên họ, một người phụ nữ rót thứ nước gì đó lên phiến đá. Một làn hương ngọt đến nôn nao xộc vào mũi tôi.
“Cái gì thế?” tôi hỏi.
“Đá xức dầu Thánh,” Ibrahim nói. “Nơi thân thể Jesus được xức dầu và bọc trong tấm vải liệm sau khi Người được hạ từ trên thánh giá xuống.”
Tôi đến gần hơn nhưng không cảm thấy gì. “Có phải đây là phiến đá đầu tiên?”
“Không phải đâu thưa ngài. Phiến đá này có ở đây từ năm 1810 thay thế cho phiến đá từ thế kỷ mười hai. Xa hơn thời điểm đó thì ta không biết chắc. Đi lối này, thưa ngài.”
Ông ta dẫn chúng tôi sang trái vào nhà tròn mái vòm của nhà thờ. Ánh sáng tuôn xuống từ mái vòm rực rỡ màu vàng và trắng. Bên dưới vòm là một tòa kiến trúc đồ sộ hình chữ nhật bằng đá cẩm thạch, thứ đá trông như từng được đóng thùng nẹp đai kim loại dày cộp để chở bằng tàu biển. Trên đỉnh là một cái chóp giống như ở điện Kremlin.
“Đây là cái gì?” tôi hỏi.
“Đây là Mộ Thánh, thưa ngài. Gọi là Edicule, tức là ngôi nhà nhỏ. Vì Jesus là nhân vật cực kỳ quan trọng nên người Byzantine và quân Thập tự chinh đã tiêu tốn vô số tiền bạc để xây ngôi mộ này cho Người. Đây là trạm thứ mười bốn và là trạm cuối cùng của con đường thánh giá. Theo phong tục của dân Do Thái, họ luôn luôn chôn người chết bên ngoài thành phố. Mặt ngoài của đá cẩm thạch đã bị rã ra nên người ta phải dùng đai sắt để nẹp lại. Vào chứ, thưa ngài? Thưa bà, bà đứng vào hàng chứ?”
Ibrahim tiếp tục bài diễn thuyết liến thoắng của ông ta, nhưng tôi đã bị phân tán không còn theo dõi được. Tôi cứ tưởng mộ Jesus phải là một thứ hang động nào đó ngoài trời, chứ đâu phải lăng mộ trong một nhà thờ Trung cổ như hầm ngục thế này.
“Hàng người đang di chuyển,” Rachel nói và đỡ tôi tiến lên.
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đứng trước cửa Edicule. Tại đây Ibrahim nói với giọng kính cẩn mà tôi đã chờ đợi từ đầu.
“Bên trong nhà mồ chúng ta sẽ thấy hai căn phòng. Ta vào thôi.”
Trong phòng đầu tiên chúng tôi thấy một chiếc bục, trên đặt một hộp kính. Trong hộp có một viên đá.
“Phòng này chúng tôi gọi là phòng thiên thần,” Ibrahim nói. “Là nơi người chết đợi để người ta dọn chỗ chôn cất. Ở đây cất giữ một hòn đá lăn, nơi các thiên thần mở cửa mộ để Jesus phục sinh.”
Tôi chú ý đến hai lỗ thủng trên bức tường bên phải. Ibrahim nói, “Khi mọi người không có lửa để châm nến Phục sinh, vị linh mục đứng đây cho họ lửa từ ngọn Lửa Thiêng, châm từ ngọn nến lớn của ông đến các ngọn nến của mọi người.”
Tôi chuyển sự chú ý sang một cánh cửa thấp trong bức tường cẩm thạch dày của ngôi mộ trong. Tôi cúi mình chui qua cửa vào một căn phòng nhỏ bên trong. Một người đàn ông và một người đàn bà đang quỳ gối cầu nguyện trước một thứ có lẽ là bàn thờ bằng cẩm thạch. Họ làm dấu thánh giá lên phiến đá, làm như phiến đá có thể ban phúc khi họ chạm vào. Trên đầu họ là những chùm đèn lộng lẫy bằng bạc treo trên dây xích, ánh nến lung linh khắp gian phòng. Những bình hoa hồng bạch tỏa hương thơm hắc trong không gian bé nhỏ.
“David, đây chính là cái anh cất công đến để xem đấy à?”
Tôi khom người chạm vào phiến đá cẩm thạch phía trước hai người đang cầu nguyện. Tôi không biết mình đang mong chờ gì, nhưng đúng là có gì đó. Ở Stonehenge, khi tôi trèo qua hàng rào chắn và chạm tay vào những khối đá sa thạch, tôi đã cảm thấy nhiều hơn thế này. “Không phải ở đây.”
“Sao?”
“Ở đây chẳng có gì xảy ra cả.”
Hai người đàn ông đàn bà đang quỳ ngước lên nhìn tôi, đôi mắt họ mở to.
“Thưa ngài, ngài không được nói thế,” Ibrahim nói sau lưng tôi. “Đây là nơi thiêng liêng nhất.”
“Không phải ở đây,” tôi nhắc lại. Tôi lom khom, vội vã quay trở lại nền nhà mái vòm.
Rachel theo sau tôi. Dòng người xếp hàng đứng đợi nhìn chúng tôi chằm chằm, cảm thấy có chuyện bất ổn. Tôi không quan tâm. Nỗi kinh hoảng bóp nghẹt tim tôi. Bên ngoài trời đã tối mịt mà tôi vẫn chưa tìm thấy cái tôi đến để tìm.
“Nói cho em biết chuyện gì đang xảy ra đi,” Rachel thì thầm.
“Không có gì xảy ra ở đó. Đó không phải nơi cần tìm.”
Một người đứng trong hàng há hốc mồm kinh ngạc.
“Nơi nào?” Rachel hỏi.
Tôi quay sang Ibrahim, lúc này ông ta đang cầm điện đài và hình như đang lưỡng lự không biết có nên kêu gọi giúp đỡ không. “Đó có phải phiến đá đầu tiên không?”
“Không, thưa ngài. Phiến đá cẩm thạch được đặt ở đó để che đậy chính phiến đá xưa kia Jesus đã nằm.”
“Vậy không thể nhìn được phiến đá chính à?”
Mặt người hướng dẫn sáng lên. “Được ạ. Sờ cũng được nữa. Ngài đi theo tôi.”
Ông ta dẫn chúng tôi đi ra phía sau Edicule. Nơi đó có một nhà nguyện nữa, kín đáo hơn, mở về phía nhà vòm. Ở đây màu sắc rực rỡ hơn ngôi mộ đá cẩm thạch mà chúng tôi vừa rời khỏi, với những món trang trí treo tường bằng sắt rèn, và có một người đàn ông râu ria lởm chởm chăm nom.
“Đây là ngôi mộ thánh nhìn từ phía khác thưa ngài,” Ibrahim thầm thì. “Một phần của nhà nguyện Coptic. Coptic là những người Thiên chúa giáo từ Ai Cập đến. Hết sức sùng đạo.”
Ở đây dòng người xếp hàng ngắn hơn nhiều. Nó biến mất vào trong nhà thờ nhỏ hẹp và dừng lại nơi tấm rèm nhỏ che thứ gì đó.
“Thưa ngài, phía sau kia là phiến đá chính nơi chúa Jesus đã nằm, lộ một phần ra ngoài. Nơi đây người có bệnh đến để được chữa, người thường đến để được ban phúc lành.”
Trong khi đợi hàng người di chuyển, da tôi ngứa ran như bị ong châm. Cuối cùng cũng đến lượt tôi. Tôi đi qua tấm rèm, quỳ xuống và đặt bàn tay phải lên phiến đá trần.
“David?” Rachel thì thào sau lưng tôi.
Tôi lắc đầu. “Không có gì.” Đây là lần đầu tiên trong vòng sáu tháng tôi bắt đầu thật sự nghi ngờ óc tỉnh táo của mình.
“Em nghĩ chúng ta nên về khách sạn thôi,” Rachel nói. “Ibrahim định gọi người giúp đỡ đấy.”
Tôi lồm cồm bò lên và ra khỏi nhà nguyện, đầu óc rối loạn. Ibrahim nhìn tôi chằm chằm như thể tôi sắp sửa thốt ra lời báng bổ, cảnh mà hồi trẻ người hướng dẫn du lịch già này có lẽ đã từng thấy. Máy điện đàm vẫn còn trong tay ông ta.
“Cả ở đó nữa cũng không có gì xảy ra,” tôi nói. “Không phải nơi tôi cần.”
“Nhưng thưa ngài, đây là ngôi mộ thánh.”
“Chắc chắn chứ?”
“Vâng… một số tín đồ Tin Lành cho rằng ngôi mộ trong khu vườn bên ngoài thành phố mới là mộ chúa Jesus. Nhưng không có nhà khảo cổ nào tin điều đó. Ngài đã được thấy đúng ngôi mộ thật, thưa ngài.”
Một phụ nữ cao ráo, dung mạo bình thường cầm quyển Thánh kinh Vua James bước ra khỏi hàng trước nhà nguyện và nói bằng tiếng Anh, “Ngôi mộ ở đâu thì có gì quan trọng, hở người anh em? ‘Người không có ở đó. Người phục sinh rồi.'”
“Điều đó có quan trọng không ư?” tôi hỏi bà ta. “Tất nhiên là quan trọng rồi. Giả thử bà tìm thấy ngôi mộ thật có xương của Jesus trong đấy thì sao nào? Đó là sự khác nhau giữa tôn giáo chính thống và chứng phân ly tập thể.”
Người phụ nữ suýt thì ngả ngửa ra sau.
Trông Ibrahim rất kích động. “Thưa ngài! Xin ngài đừng nói những điều như thế ở đây.”
“Anh là người Hồi giáo, Ibrahim, anh không hề tin bất kỳ điều gì ở đây.”
“Làm ơn, ngài…”
Tôi rời khỏi Edicule, không biết nên rẽ lối nào và phải làm gì.
Rachel sánh vai tôi. “David, anh đang tìm kiếm gì?”
“Nơi chúa Jesus phục sinh.”
“Nhưng anh không tin vào Chúa. Làm sao anh tìm được nơi chúa Jesus phục sinh khi anh không tin Chúa có thực?”
Ibrahim đã theo kịp chúng tôi. “Thưa ngài, một số người tin rằng chúa Jesus phục sinh từ cõi chết ở một nơi khác. Tôi sẽ chỉ cho ngài.”
Ông ta dẫn chúng tôi băng qua nhà vòm đến cửa một nhà thờ lớn nằm trọn trong một nhà thờ khác lớn hơn.
“Đây là Catholicon.” Ông ta chỉ tay vào chùm đèn. Bên dưới vòm nhà thờ này là một bồn cẩm thạch có tên là Omphalos. Cái rốn của thế giới. Có những người Hy Lạp tin rằng chúa Jesus phục sinh tại đây, và một ngày nào đó sẽ trở lại đây để phán xử thế gian này.”
“Chúng ta có thể đến xem không?”
“Nhà thờ này thường đóng cửa, nhưng tôi sẽ đưa ngài tới đó.”
Ông ta dẫn chúng tôi chui qua dây xích đến chỗ chiếc cốc đá đặt trên nền khảm. Tít trên cao là trần vòm vẽ hình ảnh siêu phàm của Chúa Cơ Đốc với màu sắc nhẹ nhàng. Tôi nhìn xuống bán cầu đá, thực chất là một cái bát lớn. Tôi cúi xuống chạm tay vào nó. Tôi không cảm thấy gì khác hơn là chạm vào bồn tắm cho chim trong sân nhà ai đó.
Rachel lập tức quan sát phản ứng của tôi. “Anh hy vọng điều gì? Một cú điện giật? Hay là một giọng nói từ trên trời vọng xuống?”
Tôi quay sang người hướng dẫn du lịch đang đứng lắc đầu. “Còn chỗ nào tôi chưa được xem nữa, Ibrahim?”
“Còn nhiều lắm. Chỗ quan trọng nhất là Golgotha. Tiếng Latin gọi là Calvary. Nơi chúa Jesus phải vác thánh giá.”
“Ở bên trong nhà thờ à?”
“Tất nhiên, thưa ngài. Xin đi theo tôi.”
Ông ta dẫn chúng tôi qua Catholicon lên một cầu thang dốc. Trong khi bước lên tôi đếm được mười tám bậc. Càng bước lên cao tâm hồn tôi càng ủ ê hơn.
Vào lúc bước lên bậc thang cao nhất, tôi thấy mạch máu mình đập mạnh. Căn phòng chật cứng người, nhưng bên trái tôi, phía trên đầu mọi người, tôi thấy một bức tượng Jesus to bằng người thật treo mình trên cây thánh giá. Có một mảnh vải màu bạc quấn quanh thắt lưng Người và một vương miện cũng bằng bạc trên đầu Người. Không phải pho tượng khiến tôi xúc động, mà là cái gì đó trong chính căn phòng này. Tôi cảm thấy như đang đứng gần dây cáp điện cao thế, và lực tĩnh điện làm mỗi sợi lông trên cơ thể tôi dựng đứng cả lên.
“Cái gì?” Rachel hỏi dồn. “Cái gì thế?”
“Có gì đó trong anh rung lên.”
“Trước đây anh đã từng bị thế. Đó là dấu hiệu ảo giác gây buồn ngủ.”
“Không… lần này khác hơn.”
“Ông Ibrahim?” Rachel hỏi.
“Vâng, thưa bà?”
“Chúng tôi quay trở lại xe đây.”
“Vâng,” ông ta nói như vừa được giải thoát.
Tôi bước ra xa hai người. Bên phải tôi là một bức tranh tường vẽ chúa Jesus nằm trên thánh giá được đặt ngay trên mặt đất. Mấy người đang đứng trước bức tranh tường tản ra, để lộ ra một căn buồng nhỏ có những tấm bảng được đóng bằng đinh bạc. Khi tôi bước lại gần bức tranh tường, một cơn đau lan tỏa từ bàn tay trái lên đến cánh tay. Trong thoáng chốc tôi nghĩ mình sắp lên cơn đau tim. Rồi cơn đau xuất hiện cả bên cánh tay phải. Tôi co cả hai bàn tay thành nắm đấm, nhưng cũng không khá gì hơn. Tôi quay sang Ibrahim.
“Đây là đâu?”
“Đây là trạm thứ mười một, thưa ngài. Nơi chúa Jesus bị đóng đinh lên thánh giá.”
Tôi rên rỉ.
“Chúng ta phải đưa anh ấy ra khỏi đây ngay,” Rachel nói. “Ông có gọi được người giúp đỡ không?”
“Ông ấy còn đi được,” Ibrahim nói. “Chúng ta đi thôi.”
“Tôi không nghĩ anh ấy đi được đâu.”
Nhiều người trong phòng nhìn tôi chòng chọc như nhìn một kẻ điên.
“Tôi có thể gọi lính gác,” Ibrahim nói. “Nhưng tốt nhất ta không nên làm thế.”
“Không,” Rachel nói nhanh. “Ý tôi là phải đấy. Không cần gọi đâu.”
Một nhóm người hành hương rời khỏi bức tượng chúa Jesus, để lộ ra một bàn thờ trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tôi bước đến, dán mắt vào hình Đức Mẹ dát bạc đứng dưới chân Thánh giá. Bàn thờ trước mặt bà hình như được đặt trên một hòm thủy tinh lớn, bên dưới là hòn đá xám xù xì.
“Gì vậy?”
“Golgotha,” Ibrahim trả lời. “Nơi hành hình. Đó chính là mỏm núi nơi đá nứt ra khi máu Jesus chảy từ thánh giá xuống. Rồi sau đó là động đất.”
Một luồng ánh sáng trắng mờ xóa nhòa quanh cảnh trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy ngọn núi hiện diện tại nơi nay là nhà thờ, một đồi đá trơ trụi bên quả núi rải rác những nấm mồ. Ba cây thánh giá cắm trên đồi nhưng không có ai bị treo trên đó. Bầu trời tối dần rồi trở nên đen kịt, và tôi quỳ phục xuống.
Tôi thấy mình đang trừng trừng nhìn một đĩa bạc sáng lóa có lỗ ở giữa. Chiếc đĩa nằm trên bệ đá cẩm thạch của bàn thờ, cách sàn nhà chừng ba mươi phân. Tôi giơ bàn tay phải run rẩy ra đặt lên chiếc đĩa.
Cơn đau trong tay tôi đột nhiên dịu đi.
“Đây đúng là nơi tôi cần tìm,” tôi nói. “Đây là nơi chúa Jesus giã từ cõi đời.”
“Ông ấy nói đúng,” Ibrahim nói. “Chiếc đĩa ấy đánh dấu vị trí cây thánh giá chôn xuống đất. Bên phải và bên trái là những chiếc đĩa đen nơi chôn thập giá của lũ trộm, một là người tốt, một là kẻ xấu. Sau đó, Jesus được đưa vào nhà mồ của Joseph xứ Aramathea, và sống dậy từ cõi chết sau đó ba ngày.”
“Không,” tôi nói.
Mặt Ibrahim trắng bệch. “Thưa ngài, xin đừng nói những điều như thế ở đây.”
“Nói khẽ thôi,” Rachel cầu khẩn.
“Chiếc lỗ trên đĩa dùng để làm gì?” tôi vừa hỏi vừa xoa bàn tay trên đĩa bạc mát lạnh.
“Ngài có thể thò ngón tay qua lỗ và chạm tới Golgotha. Mỏm đá Calvary.”
Tôi nhắm mắt và thò hai ngón tay qua lỗ. Các đầu ngón tay cào vào mặt đá nhám.
“Trước đây anh đã từng mơ thấy nó phải không?” Rachel hỏi.
Tôi không thể nói nên lời. Có gì đó chảy tràn vào tôi từ tảng đá sống động kia. Giọng Rachel nhạt dần rồi không nghe thấy nữa. Tôi cảm thấy xương cốt tôi đang nhảy múa, đang rung lên đồng cảm với cái gì đó trên trái đất. Đầu tiên là một cảm giác như niềm vui, nhưng khi đến độ mãnh liệt, tôi bắt đầu run rẩy và co giật.
Đây là một cơn tai biến ngập máu, một giọng nói thân quen vang lên trong đầu tôi. Giọng nói y học của tôi. Co cứng, co giật toàn thân… Qua màn sương mờ của ý thức đang lịm dần, tôi nghe thấy tiếng người la hét bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Rồi tôi ngất đi, và Rachel thét lên.
Nền nhà vỗ vào tôi như nước.