Tôi dính chặt người trên ghế khi chiếc trực thăng lao sầm xuống giữa một đám đông người và xe ngoài cổng White Sands. Phía trong cổng là hai chiếc Humvee với những khẩu súng máy nòng 50 ly trên lưng, các tay súng đứng trong tư thế sẵn sàng. Rachel chỉ vào đám người đang sôi sục. Hình như ban đầu chỉ gồm nhà báo, nhưng có một nhóm người biểu tình mang theo cả biểu ngữ và thánh giá đứng gần cổng. Họ làm tôi nhớ tới đám đông ở Via Dolorosa.
Tôi đăm đăm nhìn lên hướng Bắc qua cửa mở của chiếc Huey. Tại một điểm cách sa mạc này tám mươi cây, cha tôi đã từng chứng kiến vụ nổ bom nguyên tử đầu tiên. Thật mỉa mai, người ta gọi nó là Trinity Shot 1 . Ông quan sát từ một boong ke nơi có những máy quay cao tốc ghi lại từng một phần nghìn giây sự ra đời của mặt trời mới. Nhiều người chứng kiến sự kiện cố giải thích nó, nhưng không ai nắm bắt được khoảnh khắc ấy như Robert Oppenheimer. Tôi đã đóng những lời sau đây của ông lên tường lớp học y đức của tôi ở UVA:
Khi quả bom nguyên tử đầu tiên ấy nổ giữa rạng đông New Mexico, chúng tôi nghĩ đến Alfred Nobel và hy vọng vô ích của ông, rằng thuốc nổ sẽ chấm dứt mọi cuộc chiến tranh. Chúng tôi nghĩ đến huyền thoại Prometheus, nghĩ đến cái cảm giác tội lỗi sâu sắc trong những sức mạnh mới của con người, nó phản ánh việc con người nhận ra cái ác, và những hiểu biết lâu dài về cái ác. Chúng tôi biết đó là một thế giới mới, nhưng chúng tôi còn biết nhiều hơn rằng bản thân cái mới là cái rất cũ trong cuộc sống con người, rằng mọi nẻo đường đời của chúng ta bắt rễ từ đấy.
Khi chiếc trực thăng Huey hướng về phía đám đông bên dưới, tôi nhận ra Oppenheimer đã hiểu một điều mà Peter Godin không hiểu. Peter Godin đã đi vào máy tính Trinity, bỏ lại đằng sau cái mà trước đó không người nào từ bỏ hoàn toàn: nhân tính của mình. Trong cuộc kiếm tìm này, lão chỉ thất bại mà thôi.
Đám đông tràn đến trực thăng khi chúng tôi đáp xuống khoảng trống phía xa xe truyền hình. Chúng tôi nhảy ra và cố gắng chen vào cổng, nhưng có ai đó nhận ra tôi và kêu tên tôi khiến mọi người tán loạn hết cả lên. Một rừng máy ảnh, những ánh đèn chói lóa, và các phóng viên xoay quanh chúng tôi như lốc xoáy. Tôi đứng yên lặng chờ họ lắng xuống.
“Tôi là David Tennant. Tôi đã gửi tin tiết lộ sự tồn tại của Trinity.”
“Ông làm gì ở đây?” một phóng viên hét lên. “Có phải những người đằng sau hàng rào kia đã cố giết ông không?”
“Tôi nghĩ chúng tôi đã qua điểm đó rồi. Nhưng nếu tôi sai, các bạn sẽ thấy tôi bước đi bên trong căn cứ này. Nếu các bạn không thấy tôi ra nữa, xin đừng ngừng đặt câu hỏi cho đến khi tìm ra sự thật.”
“Sự thật là gì?” một phụ nữ hỏi. “Có phải máy tính bắt thế giới làm con tin không?”
“Đó là vấn đề mà tôi có mặt ở đây để giải quyết.”
“Bằng cách nào?” nhiều giọng nói gào lên cùng lúc.
Một người đàn ông nói giọng Pháp hét lên. “Có phải máy tính Trinity đã phá hủy đập sông Mohne ở Đức không?”
“Tất cả những gì tôi cần phải nói là như thế này. Bằng cách có mặt ở đây, các bạn đang giúp ích cho thế giới. Dù có xảy ra bất cứ điều gì, xin các bạn đừng bỏ đi. Cám ơn.”
Tôi cố gắng bước ra khỏi đám đông, nhưng các nhà báo không chịu nhường lối. Những câu hỏi mà họ gào lên phát đinh tai nhức óc, và họ chèn ép chúng tôi, cho đến khi tiếng cánh quạt phành phạch nhấn chìm giọng của họ. Một chiếc trực thăng Huey màu ô liu xỉn với các họng súng mi ni đặt sau cửa đang bay gần như ngay trên đầu. Khi nó xuống đủ thấp, đám nhà báo chạy tản ra như chim.
Một người đàn ông trẻ mặc complet lao ra khỏi chiếc Huey về phía tôi, che mặt tránh gió từ cánh quạt trực thăng. Tôi thấy một khẩu súng ngắn thò ra dưới áo khoác phấp phới của anh ta.
“Ông là bác sĩ Tennant?”
“Phải.”
“Tôi là đặc vụ Lewis của Sở Mật vụ. Evan McCaskell muốn ông đến chỗ ông ấy ở phòng Tình thế của căn cứ.”
Chúng tôi chạy lên chiếc Huey với một đám đông nhà báo ào ào bám theo. Khi Rachel và tôi thắt dây an toàn, đặc vụ Lewis leo vào, giơ ngón tay cái ra hiệu cho phi công.
Ngóc đầu lên trước, chiếc Huey vượt qua hàng rào và bay về hướng Tây. Khi những đụn cát trắng vô tận lùi về phía sau, tôi lấy làm kinh ngạc vì cái hình thức sống mới nhất trên hành tinh lại được ra đời giữa sa mạc khô cằn này, khác xa vườn Địa đàng một trời một vực.
Phi công cho máy bay hạ xuống khoảng giữa các nhà chứa máy bay lớn. Nơi chúng tôi đến là một nhà chứa máy bay đề tên HÀNH CHÍNH, và có nhiều lính vũ trang đứng gác.
Bên trong khoảng không gian âm u, mênh mông, chúng tôi thấy một bốt chỉ huy lưu động như do NASA thiết kế. Ngồi quanh chiếc bàn ở giữa phòng là John Skow, Ravi Nara, Evan McCaskell và một viên tướng hai sao tôi không nhận ra. Một màn hình lớn cho thấy một nhóm đàn ông đàn bà ngồi quanh chiếc bàn khác. Tôi nhận ra bốn người là thượng nghị sĩ, trong đó có Barrett Jackson, một thượng nghị sĩ kỳ cựu thuộc bang Tennessee.
Ở phía bên kia chiếc bàn trước mặt tôi là một giường bệnh. Nằm bất tỉnh trên đó là Peter Godin. Bên cạnh giường có hai y tá đứng, một người mặc blu trắng trông như bác sĩ trực, và một vệ sĩ tóc vàng hoe bận đồ đen. Tôi định quay đi thì nhìn thấy một dải băng trắng quấn quanh cổ vệ sĩ. Tiếng thở hổn hển sau gáy tôi khiến tôi biết Rachel đã nhận ra Geli Bauer cùng lúc với tôi. Geli nhìn tôi, rồi chuyển mục tiêu, đôi mắt ả thiêu cháy Rachel. Đôi môi ả cong tớn lên thành một nụ cười như muốn ăn tươi nuốt sống. Ả vẫn chưa quên chuyện ở ga Liên Hiệp.
McCaskell ra hiệu cho chúng tôi đến ngồi bên phải bàn và giới thiệu ngắn gọn khi chúng tôi ngồi xuống. Tôi ngạc nhiên khi nghe nói viên tướng tên là Bauer, nhưng sau đó tôi nhớ lại lịch sử gia đình Geli. Những người trên màn hình lớn được giới thiệu là thành viên Ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo, và tôi thấy rõ ràng mọi quyết định liên quan đến số phận Trinity – và do đó là số phận toàn thế giới – sẽ do họ đưa ra.
“Bác sĩ Tennant,” thượng nghị sĩ Jackson từ trên màn hình nói. “Chúng tôi vui mừng thấy anh ở đây. Trong e-mail anh gửi từ Israel, anh đưa ra những cáo buộc nghiêm trọng về ông Skow và Cơ quan An ninh Quốc gia. Tôi đảm bảo với anh sau này chúng tôi sẽ xem xét những cáo buộc ấy. Nhưng ngay giờ đây chúng ta phải tập trung vào hiểm họa Trinity.”
“Tôi đến đây chính là để làm việc đó, thưa ngài thượng nghị sĩ.”
“Chúng tôi đã nghe những gì anh nói với các nhà báo ở ngoài cổng,” McCaskell nói. “Anh có biết cách nào tắt máy tính đó mà không gây ra cuộc trả thù khủng khiếp cho đất nước không?”
“Không.”
McCaskell chẳng buồn giấu nỗi thất vọng của mình. “Thôi được, vậy chính xác anh có dự định gì, bác sĩ?”
“Tôi đến đây để nói chuyện với máy tính.”
Chánh văn phòng phủ tổng thống đưa mắt nhìn viên tướng, rồi đến Skow. Vẻ mặt Skow như muốn nói Tôi đã bảo ngài rồi.
“Anh định nói gì với Trinity, bác sĩ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi.
“Tôi muốn hỏi nó vài câu.”
“Chẳng hạn?”
“Hiện giờ tôi muốn giữ kín.”
Không ai thích câu trả lời này. Skow nhìn tôi vẻ vờ quan tâm. “David, tôi hy vọng anh không hành động với giả định rằng máy tính Trinity vẫn còn là trí tuệ của Peter Godin, bởi vì…”
“Thật ra, tôi đang hành động như thế đấy. Hiện giờ có lẽ mẫu thần kinh Godin đã tiến hóa nhiều rồi, nhưng trong vài giờ tới, tôi nghĩ chủ yếu nó vẫn là con người như chúng ta biết.”
“Còn sau đó thì sao?” McCaskell hỏi.
“Không ai biết. Godin tin rằng mẫu thần kinh của ông ta sẽ tiến hóa thành một kiểu vua triết gia, một thực thể siêu nhân có trí năng tách rời mọi xúc cảm của một vị thần. Tôi nghĩ ông ta đã lầm. Andrew Fielding nhất trí với tôi. Nếu trong vòng vài giờ nữa tôi không thể thuyết phục mẫu thần kinh Godin tự ý ngừng hoạt động – thật ra như vậy tức là tự tử – thì chúng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi sự thống trị của chiếc máy này.”
Căn phòng yên lặng.
“Anh có thể giải thích cho chúng tôi lý lẽ của anh không, bác sĩ?” McCaskell hỏi.
“Từ Thời đại Công nghiệp, con người đã sợ rằng một ngày nào đó thế giới sẽ bị máy móc kiểm soát. Điều mỉa mai là không phải cả một hệ thống máy móc làm được điều đó. Mà chỉ là một chiếc máy. Chúng ta đã tạo ra Siêu nhân của Friedrich Nietzsche, ngài McCaskell ạ.”
McCaskell nhìn quanh phòng một lượt, rồi hắng giọng. “Bác sĩ Tennant, anh có nghĩ ra lý lẽ nào để chiếc máy tính đó tự tắt đi mà không ai khác ở đây nghĩ tới không?”
“Tôi không biết. Ngài có ý kiến gì không?”
“Ở đây có người đề nghị dùng một người thương thuyết làm con tin,” thượng nghị sĩ Jackson nói. “Nhưng chúng tôi không biết có ai đủ khả năng để nói với cái… cái vật này không?”
“Có tôi.”
“Tại sao anh nghĩ thế, bác sĩ? Anh định nói gì với nó?”
Tôi cảm thấy Rachel co rúm người lại bên cạnh tôi. Dường như nàng sợ tôi sẽ tuyên bố rằng Chúa sai tôi xuống để chặn tay Peter Godin.
Tôi chưa kịp nói thì tướng Bauer đã lên tiếng, “Bác sĩ Tennant nói đúng một điểm. Mỗi giờ chúng ta ngồi chờ thì máy tính sẽ mạnh thêm lên. Nếu chúng ta định hành động thì nên hành động ngay đi.”
“Ông có ý kiến gì chăng, thiếu tướng?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cho đến lúc này, tất cả những gì ông cho chúng tôi thấy chỉ là cơn ác mộng về những thảm họa Trinity có thể gây ra cho chúng ta. Còn chúng ta có thể làm được gì?”
Tướng Bauer đứng lên bước về phía màn hình.
“Thưa các ngài, Trinity chỉ duy trì được sức mạnh của nó thông qua khả năng khống chế hệ thống máy tính trên thế giới. Nếu chúng ta có thể vô hiệu hóa các hệ thống máy tính ấy – hay để đơn giản hóa vấn đề, chỉ hệ thống máy tính của Mỹ thôi – chúng ta có thể vô hiệu hóa mối đe dọa này.”
“Ý ngài là chúng ta chỉ việc tắt toàn bộ máy tính trong nước?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi.
“Đó là ý kiến rất hấp dẫn đấy, thưa ngài thượng nghị sĩ, nhưng không khả thi. Kế hoạch của chúng ta sẽ lộ ra với Trinity từ lâu trước khi nó được thực hiện. Và chiếc máy này có khả năng trả đũa với tốc độ ánh sáng, theo nghĩa đen.”
“Vậy ngài có đề nghị gì?”
Trong khi chăm chú nhìn vào màn hình các thượng nghị sĩ, tôi vụt nhớ ra điều mà Fielding đã nói với tôi về khả năng lượng tử của Trinity.
“Xin lỗi, ngài thiếu tướng,” tôi ngắt lời. “Hệ thống truyền thông của chúng ta đang được phát trên đường dài hoặc liên lạc vệ tinh phải không? Trinity sẽ nghe được tất cả những gì chúng ta nói ở đây.”
John Skow đứng lên và ban cho tôi cái nhìn kẻ cả. “Chúng ta đang sử dụng mã hóa 128-bit cho mọi cuộc liên lạc, chúng ta cũng đang dùng đường cáp quang an toàn. Những siêu-máy tính nhanh nhất hành tinh cũng mất chín mươi sáu giờ để bẻ mã 128-bit. Đấy là nói từng thông điệp. Cứ cho rằng khả năng dự tính của Trinity là thực đi chăng nữa, chúng ta vẫn có một cửa sổ an toàn truyền thông đáng kể.”
“Anh không thể giả định bất cứ điều gì về Trinity,” tôi nói. “Andrew Fielding tin rằng bộ não người có khả năng lượng tử. Nếu khả năng đó là thật thì Trinity đã khai thác nó, nó có thể bẻ mã 128-bit của anh trong nháy mắt.”
Ravi Nara giơ tay. “Cơ hội đó bằng không, thưa tướng Bauer. Fielding là thiên tài, nhưng quan điểm của ông ta về máy tính lượng tử trong não người là một trò lập dị. Khoa học viễn tưởng.”
“Tôi vui mừng được nghe điều đó,” tướng Bauer nói.
“Các vị bỏ qua lời khuyên của Fielding là cực kỳ liều lĩnh đấy,” tôi cảnh báo.
“Tôi bằng lòng để lại vấn đề này cho các chuyên gia giải quyết, bác sĩ Tennant,” thượng nghị sĩ Jackson nói. “Kế hoạch của ông là gì, tướng Bauer?”
“Ngài thượng nghị sĩ, tôi đề nghị chúng ta tấn công chính đất nước mình bằng một đòn hạt nhân EMP 2 càng sớm càng tốt.”
Hàng chục giọng nói nhao nhao lên một lúc. Tướng Bauer gật đầu với một kỹ thuật viên, anh này bật hình ảnh một máy bay rải bom B-52 lên các màn hình quanh phòng. Một tên lửa kềnh càng rơi ra từ bụng chiếc máy bay khổng lồ này, rớt lại sau nó vài giây, rồi lóe lửa và vạch một vòng cung trên bầu trời. Tiếp theo là một vụ nổ hạt nhân khủng khiếp trên cao, rồi những đợt sóng như trong phim hoạt hình bắt đầu phát ra từ trái bom, bao phủ toàn bộ nước Mỹ.
“Để giải thích cho những ai không hiểu tôi đang nói gì,” tướng Bauer nói. “Đòn tấn công EMP rất đơn giản. Một thiết bị hạt nhân lớn phát nổ ở độ cao thích hợp tạo ra xung điện từ – một sự bùng nổ ồ ạt của bức xạ điện từ – thứ có thể phá hủy hay ngắt mọi mạch điện hiện đại trên đất Mỹ. Các máy tính đặc biệt dễ bị tổn hại vì xung năng lượng này. Vì được nổ ở độ cao rất lớn, bản thân quả bom gây ra tổn thất tối thiểu về người, tuy nhiên khả năng Trinity trả thù chúng ta sẽ bị vô hiệu hóa gần như ngay tức khắc.”
Bầu không khí im lặng tuyệt đối bao trùm phòng Tình thế.
“Sao tôi lại nghĩ ông đang đơn giản hóa kịch bản nhỉ, tướng Bauer?” McCaskell nói. “Chúng ta phải nghĩ đến mặt bất lợi của kế hoạch này.”
Bauer hít sâu, rồi bắt đầu nói theo cách khiến người ta nhớ đến George Patton 3 . Ẩn ý trong lập luận của ông ta là Muốn đánh chuột thì đừng sợ vỡ bình.
“Bằng cách đánh vào hệ thống máy tính của chính chúng ta,” Bauer tóm tắt, “chúng ta gây ra một số trong chính những hậu quả mà Trinity dùng để đe dọa chúng ta. Hoảng loạn lan rộng, nhiều người bị thương, vài người chết. Giao thông sẽ ngừng lại, và tất cả các chương trình phát thanh truyền hình sẽ tắt ngay lập tức. Nhưng vì đêm nay là đêm thứ Sáu, nên hậu quả tài chính sẽ được giảm thiểu. Hậu quả của những sự cố trong công nghiệp có thể sẽ nặng nề, đặc biệt là các nhà máy điện, xí nghiệp hóa chất, giao thông hàng không và đường sắt cũng bị liên lụy. Nhưng…”
“Hãy nghĩ đến Bhopal 4 , Ấn Độ,” tôi nói. “Chỉ là con kiến so với chuyện sẽ xảy ra.”
Tướng Bauer trừng trừng nhìn tôi. “So với những gì Trinity có thể làm nếu nó quyết định chơi sát ván với chúng ta, thì hậu quả của một cuộc tấn công EMP là không đáng kể.” Ông ta ngẩng lên nhìn các thượng nghị sĩ. “Tóm lại, tôi nói về tình trạng hỗn loạn có thể chấp nhận được. Tổn thất có thể chấp nhận được.”
“Tôi là một cựu binh,” thượng nghị sĩ Jackson nói. “Bất cứ lúc nào tôi nghe cụm từ ấy, tôi đều sởn gai ốc. Thế còn bệnh viện, người tàn phế, và những thứ tương tự thì sao?”
“Sẽ có tổn thất về nhân mạng,” tướng Bauer nhắc lại. “Tuy vậy, so với những gì chúng ta đang phải đối mặt lúc này, thì có thể bỏ qua. Và cuộc khủng hoảng này sẽ chấm dứt.”
“Để thực hiện một cuộc tấn công như thế mất bao lâu?” McCaskell hỏi.
Tướng Bauer nhìn từng khuôn mặt, rồi nhìn lên màn hình video hội nghị. “Vào khoảng ba mươi phút.”
Ba mươi phút! Tôi đã biết chuyện này có thể xảy ra, nhưng tôi không nghĩ quân đội có thể phối hợp nhanh đến thế.
“Cách đây hai giờ,” tướng Bauer nói, “khi Trinity còn đang tự định hướng, tôi đã nói chuyện với tư lệnh Căn cứ Không quân Barksdale ở Shreveport, Louisiana. Ông ấy là một trong những người bạn rất lâu năm của tôi. Ông ấy có dưới quyền mình sáu phi đội B-52 và tất cả các máy bay ném bom ấy đều mang đầu đạn bạc.”
“Đầu đạn bạc?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi lại.
“Những quả bom hạt nhân. Có khoảng trên năm trăm quả được dự trữ ở Barksdale. Một số là bom trọng lực, số khác được phóng từ máy bay bằng những tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp. Các phi đội bay huấn luyện thì không được mang bom thật, nhưng chỉ huy có thể ra lệnh cho họ tiếp đạn ngay khi đang bay không khó khăn gì lắm. Tôi đã thuyết phục ông ấy rằng hôm nay là ngày tốt để tiến hành huấn luyện bằng đạn thật. Hiện giờ có một chiếc B-52 đã cất cánh khỏi Barksdale, mang theo một đầu đạn bạc rất đặc biệt.”
“Loại vũ khí mà ông đang nói là loại gì đấy?” McCaskell hỏi.
“Một tên lửa tầm ngắn hạng nặng có tên gọi là Vulcan. Nó được thiết kế để thực hiện một cuộc tấn công EMP ồ ạt mà không cần phải phóng một ICBM vốn dễ bị vệ tinh do thám của Nga phát hiện. Vulcan phóng lượng chất nổ của nó bay thẳng ra ba trăm cây, phát nổ và rồi toàn bộ đèn điện trên khắp đất nước tắt ngấm. Trinity sẽ chỉ nhìn thấy trên những màn hình ra đa NORAD một máy bay ném bom đang trên đường bay huấn luyện qua trung tâm nước Mỹ. Nhưng cái mà Vulcan sẽ phóng ra…” Tướng Bauer nắm một bàn tay lại, rồi xòe nhanh ra, chĩa ngón tay biểu hiện các tia tỏa ra từ mặt trời.
“Chính xác Vulcan chở cái gì?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi.
“Đầu đạn nhiệt hạch mười lăm triệu tấn.”
Mấy thượng nghị sĩ há hốc mồm.
“Lạy Chúa,” một người đàn ông tóc bạc trắng ngồi cuối bàn lầm rầm. “Nó lớn hơn quy mô vụ nổ Hiroshima cả nghìn lần.”
“Một nghìn năm trăm lần,” tướng Bauer nói. “Đó là điều nó có thể thực hiện được trong một lần phóng. Máy bay B-52 sẽ đến điểm phóng trong vòng ba mươi phút. Mã của nó là Arcangel. Ngài có thể ra lệnh cho Vulcan phóng, hay cho máy bay ném bom lượn quanh vô hạn định. Tôi thừa nhận rằng tôi đã hành động khi chưa được phép, nhưng chúng ta đang ở trong một tình thế đặc biệt. Tôi mong ngài hãy lựa chọn.”
Tiếp theo lời tự thú này là sự im lặng tuyệt đối.
“Chúng ta có thể cố gắng giảm thiểu tác hại của vũ khí này trước khi sử dụng được không?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cảnh báo dân chúng chẳng hạn.”
“Không. Nếu làm thế, chúng ta sẽ khiến Trinity cảnh giác về kế hoạch của chúng ta.”
“Chính xác đầu đạn hạt nhân này sẽ được nổ ở đâu? Trên bầu trời bang nào?”
“Nó phải được nổ ở rất gần trung tâm địa lý của đất nước.”
“Tôi hỏi ông là bang nào?” Jackson nhắc lại.
Viên tướng do dự, rồi thốt ra câu trả lời. “Kansas, thưa ngài.”
“Kansas?” một thượng nghị sĩ kêu lên. “Gã khốn kiếp này muốn cho tiêu tan bang quê hương của tôi!”
“Chúng ta sẽ nhìn thấy cảnh tàn phá như thế nào trên mặt đất?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Bụi phóng xạ hay tương tự. Những tác hại lâu dài.”
“Đáng ngạc nhiên là rất ít, thưa ngài. Sẽ có bụi phóng xạ bị gió thổi đi, nhưng gió chủ đạo là gió Tây, và ở độ cao này, phần lớn chúng bị đẩy ra Đại Tây Dương trước khi gây thiệt hại đáng kể. Chúng ta cũng có thể bị những trận mưa ô nhiễm. Sẽ có hậu quả lâu dài đối với mùa màng.”
“Lâu dài là bao nhiêu?” thượng nghị sĩ Kansas hỏi.
“Một nghìn năm,” tôi đáp.
“Đấy là một sự cường điệu quá đáng,” tướng Bauer nói. “Thưa các thượng nghị sĩ, các ông bà phải cân nhắc tác động này với những gì có thể xảy ra nếu Trinity lựa chọn hành động như đe dọa. Và chúng ta phải giả định rằng cuối cùng nó sẽ làm. Trừ khi…”
“Cái gì?” Jackson hỏi.
“Chúng ta đầu hàng.” Giọng của Bauer cho thấy rõ điều ông ta nghĩ về lựa chọn này.
Các thượng nghị sĩ bắt đầu bàn bạc với nhau. Evan McCaskell có vẻ như đang nghĩ lời khuyên của chính mình. Một lần nữa ký ức về Fielding lại hiện lên trong tôi. Nếu ông có mặt ở đây lúc này, chắc ông sẽ không im lặng.
“Nếu các vị mưu tính làm vụ này,” tôi nói lớn. “Các vị sẽ gây ra chính sự tàn phá mà các vị cố tránh. Đất nước này sẽ bị hủy diệt.”
Các thượng nghị sĩ từ trên màn ảnh nhìn xuống tôi.
“Sao anh lại nói thế, bác sĩ?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi.
“Tướng Bauer không thể giấu Trinity về phi vụ của ông ấy. Các máy tính ở NSA, NORAD, và có lẽ ngay ở Căn cứ Không quân Barksdale đều do Peter Godin hoặc Seymour Cray chế tạo. Trinity có đường truy cập vào tất cả những máy ấy. Hay thậm chí nếu Trinity không phát hiện ra phi vụ đang tiến hành, các vị tưởng nó không đoán ra các phương pháp tấn công mà chúng ta dễ nghĩ đến nhất hay sao? Nó không biết gót chân Asin của chính nó chắc?”
“Cái gót chân đó nó không tự bảo vệ được,” tướng Bauer nói.
“Tất nhiên nó bảo vệ được. Nó sẽ tấn công trước.”
McCaskell quay đầu hết bên này sang bên kia như đang cân nhắc lợi hại. “Cú giáng trả có tính toán của máy tính chống lại bọn hacker Đức khiến tôi hy vọng có thể sống sót qua sự trả thù của nó. Và nếu kế hoạch của tướng Bauer có thể thực hiện được, thì sự trả thù hạn chế đáng để chúng ta liều.”
“Ngài cảm thấy thế nào về một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực?” tôi hỏi. “Liệu cuộc tấn công máy tính có đáng với mức độ trả thù ấy không?”
“Anh đang nói gì vậy?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Tướng Bauer đã đảm bảo với chúng tôi không thể xảy ra chiến tranh hạt nhân.”
“Ngài có biết về cái gọi là hệ thống ‘bàn tay chết’ không, ngài thượng nghị sĩ?”
Đôi mắt sâu của Jackson nheo lại. “Chúng tôi vừa bàn đến nó xong. Mọi người nhất trí nó là huyền thoại.”
“Ông biết gì về nó, bác sĩ?” tướng Bauer hỏi.
“Tôi biết những điều Andrew Fielding nói với tôi. Ông tin rằng hệ thống đó tồn tại trong Chiến tranh Lạnh và có thể còn đến ngày nay. Peter Godin cũng tin như vậy. Fielding và Godin đã thảo luận tiềm năng của Trinity trong việc tước vũ khí của một hệ thống như vậy trước một cuộc trao đổi hạt nhân. Và Godin dính líu đến chương trình hạt nhân Mỹ từ những năm 1980.”
Mọi người nhìn giường bệnh. Godin vẫn nằm bất tỉnh trên gối.
“Ông ấy đang ngủ à?” McCaskel hỏi.
“Chúng tôi đã phải tiêm cho ông ấy một liều morphine,” bác sĩ Case trả lời. “Không bao giờ đau nữa.”
“Ông có thể đánh thức ông ấy dậy không?”
“Tôi sẽ thử.”
Tướng Bauer nói với các thượng nghị sĩ. “Peter Godin đã chế tạo các siêu máy tính tiến hành kích thích thử nghiệm hạt nhân. Đó là phạm vi đóng góp của ông ấy cho chiến lược của Mỹ. Hệ thống bàn tay chết của Liên Xô chưa bao giờ tồn tại. Đó là điểm nhất trí đã được công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ.”
Horst Bauer là người chào hàng giỏi. Người ta có thể thấy rất rõ sự cám dỗ nghe theo kế hoạch của ông ta trong khắp căn phòng. Tôi đọc thấy điều đó trên nét mặt các thượng nghị sĩ trên màn hình. Rõ ràng kế hoạch liên quan đến vũ khí hạt nhân chỉ khiến nó thêm hấp dẫn. Mọi người Mỹ mang ký ức về Hiroshima như một giải pháp khủng khiếp nhưng là phương cách cuối cùng cho cuộc chiến tranh chết chóc nhất lịch sử. Và bản chất chưa được biết đến của sức mạnh Trinity dường như kêu gọi một lực với bí ẩn và quyền năng ngang bằng để chế ngự nó. Điều các thượng nghị sĩ không hiểu là vũ khí hạt nhân không có gì bí ẩn đối với Trinity. Trong thế giới của chiến tranh kỹ thuật số, bom nguyên tử cũng nguyên thủy như những chiếc gậy đẽo bằng đá. Chỉ có một vũ khí duy nhất trên trái đất có thể sánh với Trinity về sức mạnh.
Bộ óc con người.
Tôi đứng dậy, đối diện với màn hình, cố gắng nói với sự kiềm chế tối đa mà tôi có thể giữ được. “Thưa các thượng nghị sĩ, trước khi các vị có ý đồ thực hiện hành động có thể châm ngòi cho một cuộc hủy diệt bằng hạt nhân, tôi xin các vị cho phép tôi nói chuyện với máy tính. Các vị có mất gì đâu?”
Tướng Bauer dợm nói, song bỗng nghĩ lại. Các thượng nghị sĩ trao đổi thầm. Rồi Barertt Jackson nói.
“Thiếu tướng, tại sao chúng ta không xem máy tính cảm thấy thế nào về việc nói chuyện với bác sĩ Tennant? Nó chưa từng nói với bất kỳ ai khác.”
Skow định phản đối nhưng thượng nghị sĩ Jackson giơ tay cắt ngang
“Hãy nói cho máy tính biết bác sĩ Tennant là ai,” Jackson nói. “Và anh ta đang ở đâu. Sau đó hỏi máy tính có nói chuyện với bác sĩ Tennant không.”
“Tôi cần phải vào tòa nhà Cách ly để làm chuyện này,” tôi nói.
Jackson lắc đầu. “Chúng tôi không thể cho phép điều đó, bác sĩ. Lỡ anh bị rơi vào ảo giác thì sao? Anh có thể đụng đến công tắc hay cái gì đó. Không, nếu anh nói với Trinity, hãy nói ngay tại đây.”
Theo lệnh tướng Bauer, một kỹ thuật viên gõ những lời Jackson vừa nói vào máy và gửi cho Trinity.
Dòng chữ màu xanh hiện ngay lập tức trên màn hình.
Ta sẽ nói chuyện với Tennant.
“Chết tiệt,” thượng nghị sĩ Jackson nói.
“Nhìn kìa,” Ravi Nara nói.
Những chữ khác đã nhấp nháy trên màn hình.
Đưa Tennant đến nhà Cách ly.
“Cái quái quỷ gì vậy?” tướng Bauer nói. “Tại sao nó yêu cầu điều đó?”
McCaskell nhìn tôi. “Anh có thể giải thích điều này không, bác sĩ? Tại sao máy tính yêu cầu giống anh?”
“Tôi không biết gì hết.”
“Gõ câu này,” McCaskell nói. “Tại sao yêu cầu bác sĩ Tennant vào nhà Cách ly?”
Câu trả lời hiện ngay tức khắc.
Cơn mưa có cha không? Ngươi có biết mệnh lệnh của Thượng đế không? Ngươi sẽ đi săn mồi cho sư tử chứ? Hay cho lũ sư tử non ăn no? Ngươi có thể câu Thủy quái bằng lưỡi câu không? Không có gì đáng ghê sợ hơn là dám khuấy động nó. Lúc đó kẻ nào có thể đứng trước ta?
“Lời Kinh Thánh, phải không?” McCaskell hỏi, rõ ràng là sửng sốt.
“Sách Job,” Skow nói, khiến tôi tưởng tượng gã là một cậu bé mặc đồ đến trường Chủ nhật.
“Tại sao máy tính trả lời kiểu này,” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Godin sinh thời là người mộ đạo à?”
“Ông ta còn sống,” tôi nhắc Jackson.
“Godin không bao giờ tin vào Chúa,” Skow nói. “Ông ta có lần nói với tôi rằng tôn giáo là kết quả của một quá trình thích nghi tiến hóa để giúp Homo sapiens 5 khắc phục nỗi sợ cái chết.”
Có tiếng rắc nhẹ vọng khắp gian phòng. Mọi người quay nhìn về phía giường bệnh. Mắt Godin mở, và niềm hân hoan trong đó thật rõ ràng.
“Đó là một trò đùa,” lão khò khè. “Trinity đang nói cho các ông biết về cái nơi chốn chết tiệt của các ông.”
McCaskell đứng lên bước đến giường bệnh. “Tại sao máy tính lại muốn bác sĩ Tennant vào nhà Cách ly?”
“Máy tính, máy tính,” Godin lầm bầm. “Trinity không phải là một chiếc máy tính. Máy tính là một chiếc máy cộng trừ được tô điểm. Một cái hộp logic. Trinity đang sống. Đó là loài người đã thoát ra khỏi cái của nợ thể xác của nó. Trinity là sự kết thúc của cái chết.”
Giọng ông già có sức thuyết phục của một đấng tiên tri.
“Ông Godin,” McCaskell nói. “Ông biết gì về sự tồn tại của hệ thống tên lửa được gọi là ‘bàn tay chết’ của Nga không?”
Đầu ông già rướn về phía trước như vật lộn với cơn co thắt trong cổ họng. ” ‘Bàn tay chết’ là của các ông,” lão thở khò khè. “Các ông và tất cả những kẻ bất tài bất lực trong hệ thống lỗi thời của chúng ta.”
Cuối cùng vẻ mặt McCaskell cũng bộc lộ chút cảm xúc. “Tại sao ông lại làm thế? Chẳng lẽ ông lại ích kỷ đến mức không thể chịu nổi khi nghĩ về một thế giới trong đó không có ông?”
Godin đang vật lộn để thở. Bác sĩ Case đến để giúp lão, nhưng lão phẩy tay xua bác sĩ đi.
“Hãy nhìn xung quanh các ông,” Godin nói. “Tại sao tất cả máy móc công nghệ cao này tồn tại? Tôi đã chế ra những siêu máy tính tinh xảo nhất hành tinh, những chiếc máy có khả năng cống hiến khổng lồ cho loài người. Và chính phủ đã làm gì với chúng? Bẻ mã khóa và chế tạo bom hạt nhân! Trong hai mươi năm, họ sử dụng những chiếc máy đẹp đẽ của tôi để hoàn thiện động cơ giết người của họ. Nhưng sao tôi lại hy vọng điều gì khác nhỉ? Lịch sử loài người là nhà mồ của chém giết và ngu xuẩn.”
Godin bắt đầu ho như thể các lá phổi của lão vừa vào cuộc. “Thưa các ông, chúng ta có cơ hội của mình. Mười nghìn năm của nền văn minh nhân loại đã đưa chúng ta vào một cái vòng. Thế kỷ hai mươi là đẫm máu nhất trong lịch sử. Cứ để cho chúng ta thì thế kỷ hai mốt còn tồi tệ hơn nhiều. Darwin đã gióng lên tiếng chuông báo động về sự quản lý hành tinh này của chúng ta từ năm 1859. Nhưng cuối cùng hôm nay các người mới nghe thấy nó.”
“Nhìn lên màn hình!” Ravi Nara kêu lên.
Hàng chữ màu xanh sáng rực lên một cách đáng ngại, sự im lặng của chúng càng làm tăng thêm vẻ đe dọa.
Đưa bác sĩ Tennant đến chỗ ta nếu không hãy gánh chịu hậu quả.
“Tôi nghĩ chúng ta phải quyết định lấy thôi,” thượng nghị sĩ Jackson nói. “Đưa bác sĩ Tennant đến nhà Cách ly.”
Tướng Bauer ra hiệu cho hai người lính đến đứng kèm hai bên vai tôi. Tôi nhìn Bauer để cho ông ta thấy vẻ nghi ngờ của tôi.
“Ông vẫn có ý định triển khai kế hoạch tấn công EMP của ông phải không, thiếu tướng?”
Ông ta đeo chiếc mặt nạ của một tay chơi bài poker lão luyện, nhưng tôi không phút nào mắc lừa ông ta. Tôi biết tôi có dưới ba mươi phút để thực hiện mục tiêu của mình.
McCaskell bước lại gần tôi. “Bác sĩ Tennant, chúng tôi tin cậy anh, đừng tiết lộ khả năng tấn công cho máy tính biết.”
“Tất nhiên.”
Ông giơ tay ra bắt. “Chúc may mắn.”
Đúng lúc tôi bước ra cửa, còi báo động vang lên trong nhà để máy bay.
“Nguy kịch!” một y tá kêu lên. “Ngài Godin ngưng thở.”
Đã mấy năm tôi không xử lý cấp cứu, nhưng phản ứng của tôi là tự động. Ngay cả Rachel cũng nhảy ra khỏi ghế mà nhào đến bên giường bệnh.
Bác sĩ Case và các y tá đã làm nhiệm vụ của họ với ông già. Máy điện tim cho thấy một tai biến mạch vành khác, nhưng hình như Ravi Nara nghĩ rằng việc tràn dịch não tắc nghẽn cuối cùng đã xảy ra. Khi đường điện tim của Godin chạy thẳng, bác sĩ Case leo lên giường và bắt đầu thực hiện CPR 6 . Nhưng không kết quả. Khuôn mặt ông già đã có màu xám xịt của người chết.
“Trông kìa!” một người ở bàn kêu lên.
Tôi quay lại nhìn theo hướng tay chỉ.
Trên màn hình màu xanh dùng để hiển thị các thông điệp của Trinity, những dòng ký tự hỗn loạn lóe sáng quá nhanh không nhận ra được. Các con số, chữ cái, ký hiệu toán học kết lại với nhau thành một con sông mù mịt rối ren. Mạch máy tính rõ ràng đang bị xáo trộn.
“Điều gì đang xảy ra?” Mccaskell hỏi “Thế này nghĩa là gì?”
Ký hiệu trên màn hình trở thành nhiều màu sắc khi các ký tự Nhật Bản và Kirin bắt đầu xuất hiện.
“Thưa thiếu tướng!” một người lính bên bảng điều khiển kêu lên. “Các tín hiệu từ đường ống dẫn từ nhà Cách ly vừa tụt xuống zero. Tôi nghĩ máy tính đã bị treo!”
Tiếng reo mừng đắc thắng từ nơi nào đó trong nhà để máy bay vang đến. Rồi một tiếng còi báo động khác vang lên trong căn phòng, át cả những tiếng động khác.
“Cái gì thế?” thượng nghị sĩ Jackson hỏi. “Cái gì đang xảy ra? Godin chết rồi à?”
Tướng Bauer bước đến một trong các máy tính của ông ta, rồi quay về phía các thượng nghị sĩ, mặt cắt không còn giọt máu.
“Thưa các ngài, một trong các vệ tinh do thám của ta vừa phát hiện ra mười bốn vệt tên lửa trên lãnh thổ Nga. Những vệt này ứng với việc phóng tên lửa đạn đạo.” Ông ta nhìn lại các màn hình máy tính. “Từ dấu hiệu sức nóng và tốc độ của các tên lửa, máy tính NORAD đã nhận diện chúng là sự kết hợp giữa các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa S-18 và SS-20. Những tên lửa này mang đầu đạn nhiệt hạch hạng nặng.”
Thượng nghị sĩ Jackson há mồm, nhưng không thốt ra một lời nào. Đôi lông mày màu nâu nhăn lại trên khuôn mặt lì lợm. “Nhưng ông đã nói điều đó không thể xảy ra.”
Tướng Bauer nói không do dự. “Có vẻ như tôi đã sai.”
— —— —— —— ——-
1 Trinity Shot: Phát đạn Chúa Ba ngôi.
2 Electromagnetic Pulse: xung điện từ phát ra từ vụ nổ hạt nhân ở tầm cao.
3 Tướng Mỹ (1885-1945).
4 Thủ phủ bang Bhopal, Ấn Độ. Năm 1984 ở đây đã xảy ra sự cố rò rỉ khí độc từ một nhà máy hóa chất, làm hàng ngàn người chết trong một đêm, và hàng ngàn người khác mang di chứng.
5 Tên khoa học của loài người.
6 Cardiopulmonary Resuscitation: thủ thuật cấp cứu hồi phục hoạt động tim phổi.