Đấu Trường Sinh Tử 3: Húng Nhại

Chương 9


9.1

Tôi thôi không cố ngủ nữa sau khi vài nỗ lực đầu tiên bị những cơn ác mộng không lời quấy phá. Sau đấy tôi chỉ nằm im giả vờ thở đều đều mỗi khi có người vào kiểm tra. Đến sáng, họ cho tôi ra viện và khuyên tôi nghỉ ngơi cho lại sức, Cressida bảo tôi ghi âm vài lời cho ĐTT Húng nhại mới. Đến bữa trưa, tôi cứ đợi mãi xem có ai đem chuyện Peeta xuất hiện ra nói không, nhưng chẳng ai hé nửa lời. Phải có người xem được cảnh đó ngoài Finnick và tôi chứ.

Tôi có giờ luyện tập, nhưng Gale có lịch làm việc với Beetee về vũ khí thì phải, nên tôi được phép đưa Finnick vào rừng. Chúng tôi lang thang một lát rồi nhét thiết bị liên lạc dưới bụi cây. Khi đã cách một quãng an toàn, chúng tôi ngồi xuống nói về buổi lên sóng của Peeta.

“Anh chưa nghe thấy một lời nào về chuyện đó cả. Không ai nói gì với em sao?” Finnick hỏi. Tôi lắc đầu. Anh ngập ngừng rồi nói tiếp, “Kể cả Gale à?” Tôi bám lấy hy vọng mong manh rằng Gale thật sự không hay biết gì về thông điệp của Peeta. Nhưng tôi có cảm giác không hay rằng anh có biết. “Chắc cậu ấy cố tìm lúc thích hợp để nói riêng em.”

“Chắc thế,” tôi nói.

Chúng tôi ngồi im lâu đến nỗi một con nai thơ thẩn lọt vào tầm bắn. Tôi hạ nó bằng một mũi tên. Finnick lôi nó trở lại hàng rào.

Bữa tối có món thịt nai hầm nhuyễn, Gala đưa tôi trở lại Phòng E sau khi ăn xong. Khi tôi hỏi anh có chuyện gì không, một lần nữa anh lại không hề đả động đến Peeta. Mẹ và em gái tôi vừa ngủ là tôi liền nhẹ nhàng lấy hạt trai ra khỏi ngăn kéo và lại trải qua đêm mất ngủ thứ hai nắm chặt nó trong tay, trăn trở mãi với những lời Peeta nói. “Hãy tự hỏi mình, cậu có thực sự tin những người mà cậu đang hợp tác không? Cậu có biết rõ chuyện gì đang diễn ra không? Nếu cậu không biết… thì tìm hiểu đi.” Tìm hiểu. Cái gì? Từ ai? Và làm sao Peeta có thể biết gì ngoại trừ những điều Capitol cho cậu hay? Chỉ là một ĐTT của Capitol thôi. Gây nhiễu loạn thêm. Nhưng nếu Plutarch cho rằng đó chỉ là miệng lưỡi của Capitol thì cớ sao ông lại không nói với tôi? Sao không ai cho tôi hay Finnick biết?

Ẩn sâu bên dưới cuộc đấu tranh tư tưởng này là nguồn cơn thực sự cho nỗi âu lo trong lòng tôi: Peeta. Chúng đã làm gì cậu? Lúc này chúng đang làm gì cậu? Rõ ràng Snow không tin chuyện Peeta và tôi không hay biết gì về cuôc nổi dậy. Và nỗi nghi ngờ của ông ta được củng cố thêm vì giờ tôi đã xuất đầu lộ diện với vai trò Húng nhại. Peeta chỉ có thể đoán về chiến thuật nổi dậy hoặc bịa đặt gì đó để đối phó với những kẻ tra tấn. Những lời nói dối, một khi bị phát hiện, sẽ bị trừng phạt thảm khốc. Chắc cậu cảm thấy bơ vơ lắm. Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên, cậu đã cố bảo vệ tôi khỏi Capitol lẫn phiến quân, vậy mà tôi không những không bảo vệ được cậu mà còn mang đến cho cậu nhiều tai ách hơn.

Đến sáng, tôi gí cánh tay vào tường và chằm chằm nhìn thời gian biểu với vẻ rã rời. Ngay sau bữa sáng, tôi có lịch đến phòng Sản xuất. Trong phòng ăn, khi vội vàng xơi ngũ cốc nóng và sữa cùng củ cải đường mền nhừ, tôi phát hiện ra chiếc đồng hồ liên lạc ngự trên cổ tay Gale. “Anh lấy lại nó khi nào vậy, Chiến binh Hawthorne?” tôi hỏi.

“Hôm qua. Họ cho rằng nếu anh sắp ra trận với em thì nó sẽ là hệ thống liên lạc dự phòng,” Gale đáp.

Chưa ai từng trao cho tôi một chiếc đồng hồ liên lạc. Tôi tự hỏi nếu mình đòi một cái thì có được chấp thuận không? “Ừ thì một trong chúng ta phải tỏ ra thân thiện chứ,” giọng tôi thoáng mỉa mai.

“Nói thế là ý gì?”

“Chả có ý gì cả. Chỉ nhắc lại câu anh từng nói thôi,” tôi bảo anh. “Và em đồng ý cả hai chân tay rằng người thân thiện đó nên là anh. Em chỉ mong mình vẫn có thể tiếp xúc với anh thôi.”

Bốn mắt nhìn nhau không rời, và tôi nhận ra mình giận Gale biết chừng nào. Rằng tôi không tin, dù chỉ trong thoáng lát, rằng anh chưa từng xem ĐTT của Peeta. Rằng tôi cảm thấy mình bị phản bội trắng trợn khi anh không hề nói với tôi về điều đó. Chúng tôi biết nhau quá rõ, khó mà có chuyện anh không hiểu được tâm trạng tôi, không đoán được mình đã gây ra cơ sự gì.

“Katniss à…” anh lựa lời. Giọng anh nhuốm vẻ thú tội.

Tôi vồ lấy khay ăn, đi phăm phăm đến chỗ để bát đĩa dùng rồi, nện mạnh mấy cái đĩa lên giá. Đến lúc tôi ra ngoài hành lang thì anh bắt kịp.

“Sao em không nói gì?” Anh giữ cánh tay tôi.

“Sao em không nói gì á?” Tôi giật tay ra. “Phải là anh mới đúng chứ, Gale. Mà tiện đây thì em nói cho rồi, lúc tối qua em hỏi anh có chuyện gì ấy!”

“Anh xin lỗi. Được chưa? Lúc đó anh không biết phải làm gì. Anh muốn nói với em, nhưng mọi người sợ em đau lòng khi xem ĐTT của Peeta,” anh nói.

“Họ nói đúng đấy. Em đau lòng thật. Nhưng không đau bằng việc anh nói dối em vì Coin.” Đúng lúc đó đồng hồ liên lạc của anh kêu bíp bíp. “Bà ta đấy. Còn không mau chạy đi. Anh có chuyện để tâu với bà ta còn gì.”

Trong khoảnh khắc, nỗi đau thực sự hằn lên mặt anh. Rồi cơn giận dữ lạnh lùng thế chỗ. Anh quay gót đi thẳng. Có lẽ tôi đã quá cay nghiệt, thậm chí không cho anh đủ thời gian thanh minh. Có lẽ mọi người nói dối cũng chỉ để bảo vệ tôi. Tôi không quan tâm. Tôi chán ngấy việc mọi người cứ nói dối tôi vì muốn tốt cho tôi rồi. Bởi thực ra họ làm thế chủ yếu vì muốn tốt cho bản thân. Nói dối Katniss về cuộc nổi dậy để cô ta không làm điều gì điên rồ. Đừng kể gì với cô ta về ĐTT của Peeta kẻo cô ta đau lòng, vì để có được màn trình diễn ra trò từ cô ta đã đủ khó lắm rồi.

9.2

Đúng là tôi cảm thấy đau thật. Đau lòng. Và quá mệt mỏi vì một ngày sản xuất đang chờ phía trước. Nhưng tôi đã đến Phòng Tái tạo rồi, nên cứ thế bước vào. Tôi phát hiện ra hôm nay chúng tôi sẽ quay trở lại Quận 12. Cressida muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn ngẫu hứng để Gale và tôi tiết lộ về thành phố đổ nát của mình.

“Nếu cả hai đều sẵn lòng,” Cressida nói, nhìn tôi chăm chú.

“Tôi có đi,” tôi đáp. Tôi đứng đó, lầm lì cứng nhắc như ma nơ canh chính hiệu trong khi đội chuẩn bị chưng diện cho tôi, làm tóc, nhẹ nhàng trang điểm khuôn mặt tôi. Không đủ để tỏa sáng ngời ngời, chỉ đủ để che những quầng thâm khỏi đôi mắt thiếu ngủ của tôi.

Boggs hộ tống tôi xuống Kho Tàu bay, nhưng chúng tôi không nói gì quá giới hạn chào hỏi thông thường. Tôi cảm thấy biết ơn vì tránh được cuộc trao đổi về việc tôi bất tuân lệnh ở Quận 8, nhất là khi chiếc mặt nạ của ông trông bất tiện vô cùng.

Đến phút cuối, tôi nhớ ra phải nhắn cho mẹ biết việc tôi rời khỏi Quận 13, và nhấn mạnh rằng việc này không hề nguy hiểm. Chúng tôi lên tàu bay đi một chuyến ngắn tới Quân 12, và tôi được chỉ đến ngồi bên chiếc bàn nơi Plutarch, Gale và Cressida đang nghiền ngẫm một tấm bản đồ. Plutarch hài lòng hết ý cho tôi xem tiền/hậu hiệu ứng của hai ĐTT đầu tiên. Phiến quân, những người trước kia hầu như không có chỗ đứng ở một số quận, đã tập hợp lại. Họ đã chiếm được Quận 3 và 11 – trong đó Quận 11 có vai trò cốt yếu vì là nguồn cung cấp thực phẩm chính cho Panem – đồng thời kiểm soát được vài quận khác.

“Thật hứa hẹn. Cực kỳ hứa hẹn,” Plutarch nói. “Tối nay Fulvia sẽ cho phát loạt ĐTT Ta nhớ đầu tiên, để chúng ta có thể nhắm đến từng quận bằng chính vật tế đã chết của họ. Finnick phải nói là cực đỉnh.”

“Thực sự thì xem mấy cảnh đó tôi cũng xót xa lắm,” Cressida nhận xét. “Cậu ấy từng quen biết nhiều người trong số họ.”

“Thế mới hiệu quả chứ,” Plutarch nói. Từ tận đáy lòng mình luôn. Mọi người làm tốt lắm. Coin hẳn sẽ không chê trách được gì.”

Vậy là Gale chưa nói với họ. Về việc tôi giả vờ chưa xem đoạn phỏng vấn Peeta và chuyện tôi giận dữ vì bị họ ém nhẹm thông tin. Nhưng tôi nghĩ thế cũng chẳng bõ bèn gì, quá muộn, bởi tôi không thể bỏ qua được. Vô nghĩa thôi. Anh cũng chưa nói chuyện với tôi.

Mãi đến khi chúng tôi đáp xuống Đồng cỏ, tôi mới nhận ra là thiếu Haymitch. Khi tôi thắc mắc sao ông lại vắng mặt, Plutarch chỉ lắc đầu nói, “Ông ta không đối mặt nổi.”

“Haymitch ư? Không đốt mặt nổi với cái gì? Muốn nghỉ một hôm thì đúng hơn,” tôi nói.

“Tôi nghĩ nguyên văn lời ông ta là ‘Không có rượu thì tôi không đối mặt nổi với cảnh đó,'” Plutarch đáp.

Tôi đảo mắt, mất kiên nhẫn hết sức với người hướng dẫn của tôi, thói nghiện rượu của ông, cũng như những gì ông có hoặc không thể đương đầu. Nhưng sau khi đặt chân trở lại Quận 12 chừng dăm phút, tôi ước gì cũng có một chai cho riêng mình. Tôi những tưởng mình đã chấp nhận tổn thất của Quận 12 – đã nghe nói đến, đã nhìn thấy từ trên không, đã lang thang qua những đống tro tàn. Vậy tại sao tất cả lại khơi lên nỗi đau còn vẹn nguyên như mới? Phải chăng lúc trước đơn giản là tôi quá rối trí nên chẳng thể nhận thức được đầy đủ nỗi mất mát trong đời mình? Hay chính nét mặt Gale khi đánh giá những thiệt hại theo từng bước chân khiến nỗi thảm khốc vẫn dữ dội như lúc ban đầu.

9.3

Cressida chỉ đạo cả đội quay tôi trước, địa điểm là ngôi nhà cũ của tôi. Tôi muốn hỏi chị muốn tôi làm gì. “Cô muốn thể hiện gì cũng được,” chị nói. Trở về đứng, nơi căn bếp xưa cũ, tôi chẳng muốn làm gì hết. Thực ra tôi thấy mình chăm chú ngước nhìn bầu trời – còn lại mỗi mái nhà chỏng chơ – vì có quá nhiều kỷ niệm ùa về trong tôi. Lát sau, Cressida nói. “Được rồi Katniss. Đi thôi.”

Gale lại không đối mặt dễ dàng đến thế khi trở về mái nhà xưa. Cressida quay cảnh anh im lặng vài phút, nhưng ngay khi anh lôi tàn tích của cuộc sống ngày trước ra khỏi đống tro tàn – một que cời lửa bằng kim loại méo mó – thì chị bắt đầu hỏi anh về gia đình, công việc cũng như cuộc sống ở khu Vỉa than. Chị bắt anh quay trở lại cái đêm xảy ra vụ bom lửa, tái hiện những gì đã xảy ra, từ nhà mình, anh nhọc nhằn đi qua Đồng cỏ vào rừng đến bên hồ. Tôi lê bước theo sau đoàn làm phim và nhóm vệ sĩ, cảm thấy sự hiện diện của họ đã xâm phạm cánh rừng yêu dấu của mình. Đây là chốn riêng tư, một nơi trú ẩn đã bị những bóng ma Capitol hủy hoại. Kể cả sau khi ra đi bỏ lại những gốc cây cháy thành than gần hàng rào, chúng tôi vẫn vấp phải những thi thể mục rữa. Chúng tôi phải ghi lại cảnh này cho mọi người xem ư?

Khi chúng tôi đến hồ, Gale dường như không nói nổi. Ai nấy đều nhễ nhại mồ hôi – nhất là Castor và Pollux trong lớp vỏ côn trùng kia – Cressida bèn cho toàn đội nghỉ giải lao. Tôi vốc nước hồ lên, ước gì có thể nhào xuống nước, một mình một cõi bồng bềnh trên làn nước, ở trần và không bị ai dòm ngó. Tôi thơ thẩn quanh vành đai hồ một lúc. Khi tôi vòng trở lại căn nhà xi măng nhỏ xíu bên hồ, đang ngập ngừng nơi ngưỡng cửa thì thấy Gale dựng que cời lửa cong queo mà anh lấy lại được vào bức tường gần nền lò sưởi. Trong thoáng chốc tôi hình dung ra một người lạ đơn độc, vào một lúc nào đó trong tương lai xa xôi, lạc bước vào miền hoang dã rồi tìm thấy nơi nương náu bé nhỏ này, với những khúc gỗ chẻ, nền lò sưởi, que cời lửa. Tự hỏi mọi sự sẽ thế nào. Gale quay lại bắt gặp ánh mắt tôi và tôi biết anh đang nghĩ về cuộc gặp cuối cùng của chúng tôi ở đây. Khi chúng tôi tranh cãi về việc có nên bỏ trốn hay không. Nếu có thì Quận 12 còn tồn tại không? Tôi nghĩ là có. Nhưng Capitol vẫn sẽ kiểm soát cả Panem.

Những chiếc bánh kẹp pho mát được chuyển đến tay mọi người và chúng tôi ngồi ăn dưới bóng cây. Tôi cố tình ngồi tít mé ngoài, kế bên Pollux, để khỏi phải nói chuyện. Mà thực ra thì cũng chẳng ai nói gì nhiều. Trong bầu không khí khá tĩnh lặng ấy, lũ chim lại chiếm lĩnh khu rừng. Tôi huých cùi trỏ vào người Pollux, chỉ cho anh xem một con chim nhỏ màu đen có mào. Nó nhảy lích chích sang một cành cây khác, thoáng danh cánh để lộ những khoang trắng. Pollux chỉ vào chiếc ghim của tôi, nhướng mày vẻ dò hỏi. Tôi gật đầu, khẳng đinh nó chính là chim húng nhại. Tôi giơ ngón tay lên ngụ ý Đợi đã, để em cho anh xem, rồi huýt sáo gọi chim. Con chim húng nhại ngẩng đầu lên đáp lại ngay tiếng huýt của tôi. Rồi, trước sự ngạc nhiên của tôi, Pollux cũng huýt vài nốt theo cách của riêng mình. Con chim lập tức huýt trả. Khuôn mặt Pollux ngời lên vẻ thích thú, một tràng tiếng huýt du dương cứ trao qua gửi lại giữa anh và con chim. Có lẽ đó là đoạn hôi thoại đầu tiên anh có sau hàng năm giời. Tiếng nhạc thu hút chim húng nhại tương tự như hoa nở hấp dẫn loài ong, và chẳng mấy chốc đã có nửa tá húng nhại kéo đến đậu trên những cành cây trên đầu chúng tôi. Anh gõ gõ tay tôi và dùng nhánh cây con vạch một chữ lên đất. HÁT?

Thông thường tôi sẽ nói từ chối nhưng trong tình cảnh này thì khó có thể khước từ Pollux. Vả lại, tiếng hót của chim húng nhại thì khác xa tiếng huýt, và tôi muốn anh được nghe những âm thanh đó. Vì thế, không kịp suy nghĩ chín chắn về những gì định làm, tôi cất lên bốn nốt nhạc của Rue mà em từng hát báo hiệu ngày làm việc kết thúc ở Quận 11. Nhũng thanh âm đến phút cuối lại làm nhạc nền tiễn đưa em. Lũ chim không biết điều đó. Chúng chọn một đoạn đơn giản rồi cùng nhau tung hứng trong một bản hòa âm ngọt ngào. Như chúng từng làm trong Đấu trường Sinh tử trước khi bầy mút xuyên qua rừng cây, rượt đuổi chúng tôi đến Cornucopia, và chậm rãi nhay Cato thành một đống bầy nhầy bết máu…

9.4

“Muốn nghe lũ chim hót một bài hẳn hoi không?” tôi buột miệng. Bất cứ thứ gì để chặn dòng ký ức đó lại. Tôi đứng lên, quay lại chỗ đám cây, đặt tay lên thân cây phong thô ráp mà lũ chim đang đậu. Tôi không hát to bài Cây Treo cổ mười năm nay rồi, vì nó bị cấm, nhưng tôi vẫn nhớ rõ từng lời. Tôi cắt tiếng hát thật khẽ, thật êm như cha tôi từng làm.

“Em có, em có

Đến bên cây

Kẻ giết ba người lủng lẳng trên cành ấy.

Nơi đây đã xảy ra bao điều kỳ dị

Nào còn chi lạ lẫm

Nếu nửa đêm ta gặp nhau bên cây treo cổ.”

Lũ húng nhại bắt đầu thay đổi giai điệu khi nghe thấy bài hát mới của tôi.

“Em có, em có

Đến bên cây

Nơi linh hồn ấy kêu gọi tình nhân xa bay cao chạy.

Nơi đây đã xảy ra bao điều kỳ dị

Nào còn chi lạ lẫm

Nếu nửa đêm ta gặp nhau bên cây treo cổ.”

Tôi đã khiến lũ chim chú ý. Thêm một đoạn nữa, chắc chắn chúng sẽ nắm bắt giai điệu vì nó khá đơn giản và được lặp lại bốn lần mà chỉ thay đổi chút ít.

“Em có, em có

Đên bên cây

Cho tôi nhắn nhủ ‘Chạy đi để ta cùng tự do’

Nơi đây đã xảy ra bao điều kỳ dị

Nào còn chi lạ lẫm

Nếu nửa đêm ta gặp nhau bên cây treo cổ.”

Bầu thinh lặng trùm khắp các tán cây. Chỉ có tiếng lá sột soạt trong gió nhẹ. Nhưng không một con chim nào cất tiếng hót, dù là húng nhại hay bất kỳ loài nào khác. Peeta nói đúng. Khi tôi hát lũ chim thảy đều im lặng. Như chúng từng làm với cha tôi vậy.

“Em có, em có

Đên bên cây

Bầu bạn bên tôi, cổ tròng dây.

Nơi đây đã xảy ra bao điều kỳ dị

Nào còn chi lạ lẫm

Nếu nửa đêm ta gặp nhau bên cây treo cổ.”

Lũ chim đợi tôi hát tiếp. Nhưng chỉ có vậy. Đoạn cuối cùng. Giữa lúc thanh tĩnh tôi nhớ lại một cảnh tượng. Tôi trở về nhà sau một ngày ở trong rừng cùng cha. Ngồi trên sàn nhà với Prim hồi ấy mới lẫm chẫm biết đi, hát bài “Cây Treo cổ”. Làm vòng cổ cho hai chị em từ những sợi thừng cũ giống như lời bài hát đã nhắc đến mà không hiểu ý nghĩa thực sự của ca từ. Tuy vậy giai điệu cũng khá đơn giản và dễ hòa âm, mà thuở ấy tôi có thể nhớ hầu hết mọi thứ có nhạc tính sau một hoặc hai lần nghe. Bỗng nhiên, mẹ tôi giật lấy cái vòng cô dây thừng ném đi và hét lên với cha tôi. Tôi òa khóc bởi mẹ chưa bao giờ thét lác cả, rồi Prim cũng ré lên, vậy là tôi liền chạy ra ngoài trốn. Vì tôi đích xác chỉ có một nơi ẩn náu – dưới bụi kim ngân trên Đồng cỏ – nên cha tìm thấy tôi ngay. Cha vỗ về tôi, bảo rằng không sao hết, chỉ là chúng tôi không nên hát bài đó nữa. Mẹ chỉ muốn tôi quên nó đi. Và tất nhiên là từng lời khắc vào não tôi ngay tức thì, không thể ngăn nổi.

Chúng tôi không hát bài đó nữa, cha và tôi, thậm chí cũng chẳng nhắc đến. Sau khi cha mất, bài hát ấy thường trở đi trở lại trong tôi. Lớn hơn, tôi dần hiểu ca từ của nó. Đoạn đầu nghe như một chàng trai cố rủ bạn gái hẹn hò bí mật lúc nửa đêm. Nhưng địa điểm hẹn lại rất kỳ quặc, cây treo cổ, nơi một người đàn ông bị treo cổ vì tội giết người. Người yêu của kẻ sát nhân chắc hẳn có liên quan tới vụ giết người, hoặc có thể đằng nào người ta cũng sắp trừng phạt cô, vì hồn ma của anh kêu gọi cô hãy chạy chốn. Rõ là quái đản, chỗ hồn ma biết nói ấy, nhưng đến đoạn ba mới gọi là sởn da gà. Ta nhận ra người hát bài hát này chính là kẻ sát nhân đã chết. Anh ta vẫn quanh quất bên cây treo cổ. Và dẫu có bảo người yêu tháo thân thì anh ta vẫn không ngừng hỏi cô có đến gặp mình không. Câu Cho tôi nhắn nhủ ‘Chạy đi để ta cùng tự do’ là câu rắc rối nhất vì ban đầu tưởng rằng anh ta đang nói về lúc bảo cô gái bỏ trốn, có lẽ là đến nơi an toàn. Nhưng sau ta lại tự hỏi có phải anh ta muốn bảo cô hãy chạy đến với mình không. Với cái chết. Ở khổ cuối, rõ ràng đó chính là điều anh ta chờ đợi. Người yêu chàng trai, cổ tròng dây thừng, treo lủng lẳng bên anh ta.

Tôi đã từng nghĩ tên sát nhân này là kẻ quái dị nhất mà ta có thể tưởng tượng ra. Giờ đây, sau khi trải qua hai kỳ Đấu trường Sinh tử, tôi quyết định sẽ không phán xét anh ta nếu không biết rõ hơn. Biết đâu người yêu anh ra bị kết án tử hình và anh ta chỉ cố khiến sự việc trở nên dễ chấp nhận hơn. Để cô biết rằng anh vẫn chờ đợi cô. Hoặc không chừng anh ta cho rằng nơi mình bỏ cô lại còn tệ hơn cả cái chết. Chẳng phải tôi từng muốn tiêm chết Peeta để cứu cậu ta khỏi bàn tay của Capitol sao? Đó có thực là lựa chọn duy nhất của tôi không? Có lẽ là không, nhưng lúc đó tôi chẳng thế nghĩ ra cách nào khác.

Dù vậy tôi đoán rằng mẹ nghĩ toàn bộ chuyện này quá phức tạp với một đứa bé bảy tuổi. Nhất là đứa tự làm cho mình cái vòng bằng dây thừng. Không phải chi tiết treo cổ chỉ xảy ra trong câu chuyện. Biết bao người dân ở Quận 12 đã bị hành hình theo cách đó. Chắn chắn mẹ không muốn tôi hát to bài này trong tiết nhạc. Có lẽ mẹ cũng chẳng muốn tôi làm thế ở đây, thậm chí vì Pollux, nhưng ít ra tôi không -khoan đã, không, tôi sai rồi. Khi liếc sang hai bên, tôi thấy Castor đang ghi hình mình. Ai nấy đều đang nhìn tôi chăm chú. Pollux thì ròng ròng nước mắt vì hẳn nhiên bài hát kỳ dị của tôi đã khơi lại một câu chuyện kinh hoàng nào đó trong đời anh. Đã tuyệt chưa? Tôi thở dài, tựa vào thân cây. Rồi chính lúc đó, lũ chim húng nhại bắt đầu biểu diễn bài “Cây Treo cổ”. Bài hát cất lên từ miệng chúng nghe thật đẹp. Nhận ra mình đang bị ghi hình, tôi đứng im, cho đến khi Cressida hô, “Cắt!”

Plutarch từ bên kia bước đến chỗ tôi, cười tươi rói. “Cô lấy ý tưởng này từ đâu ra vậy? Nếu chúng ta dựng đoạn phim này thì sẽ chẳng ai tin nổi cho xem.” Ông choàng tay quanh người tôi và hôn đánh choách lên đỉnh đầu tôi. “Cô thật đáng giá!”

“Tôi không làm thế để quay phim,” tôi nói.

“Thế thì thật may là các máy quay đang bật,” ông đáp. “Nào mọi người, quay về thôi!”

9.5

Trên đường lê bước trở ra khỏi rừng, chúng tôi đến chỗ một tảng đá, và cả tôi lẫn Gale đều quay đầu về cùng một hướng như đôi chó đánh hơi thấy mùi trong gió. Cressida nhận ra bèn hỏi phía đó có gì. Chúng tôi thú nhận, mà không nhìn nhau, rằng đó là điểm hẹn săn bắn của hai đứa. Chị muốn xem nơi đó, kể cả sau khi chúng tôi nói rằng chỗ ấy chẳng có gì hay ho cả.

Chẳng có gì ngoài chuyện là nơi khiến tôi hạnh phúc, tôi thầm nghĩ.

Gờ đá nhìn xuống một thung lũng. Có lẽ kém xanh tươi hơn mọi khi, nhưng những bụi mâm xôi thì trĩu quả. Nơi đây là khởi điểm của những ngày bất tận cùng nhau săn bắn và đặt bẫy, câu cá và hái lượm, rong chơi khắp rừng, thổ lộ mọi tâm tình khi chất đầy túi săn. Đó là ngưỡng cửa dẫn tới sinh kế và cả sự sáng suốt. Và chúng tôi là chìa khóa của nhau.

Giờ chẳng còn Quận 12 để mà chạy trốn nữa, không còn Trị an viên nào để ta phải giở mánh đối phó, cũng chẳng còn cái miệng đói ăn nào tiếp tế. Capitol đã lấy đi tất cả những thứ đó, và tôi cũng sắp mất cả Gale. Nhu cầu chung từng là chất keo kết dính hai đứa tôi ngần ấy năm đang dần tan chảy. Những trắc trở thực sự, không phải vụn vặt, chắn giữa chúng tôi. Nông nỗi nào mà hôm nay, dù đối mặt với tổn thất nặng nề của Quận 12, chúng tôi vẫn giận dữ đến mức chẳng thể mở miệng nói với nhau?

Gale nói dối tôi cũng thật tài. Đây là điều không thể chấp nhận được, dù anh làm thế vì lợi ích của tôi. Dẫu vậy lời xin lỗi của anh có vẻ thật lòng. Thế mà tôi lại ném trả vào mặt anh kèm theo lời sỉ nhục để chắc chắn làm anh tổn thương. Chuyện gì đang xảy ra với chúng tôi vậy? Tại sao giờ đây lúc nào chúng tôi cũng đối địch nhau? Thật đúng là mớ bòng bong, nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác nếu mình lần lại cội rễ của vấn đề thì cốt lõi chính là hành động của tôi. Tôi có thực muốn xua đuổi anh không?

Tôi nắm trái mâm xôi ngắt khỏi cuống. Nhẹ nhàng vê nó giữa ngón trỏ và ngón cái. Rồi đột nhiên tôi quay sang ném nó về phía anh. “Và chúc cho may mắn…” tôi bỏ lửng. Tôi ném nó lên cao để anh có nhiều thời gian quyết định xem sẽ hất nó sang bên hay đón lấy.

Mắt Gale chĩa vào tôi, không phải trái mâm xôi, nhưng vào giây phút cuối cùng, anh há miệng ra đỡ trọn. Anh nhai rồi nuốt, ngừng hồi lâu mới nói “…sẽ luôn mỉm cười với bạn.” Ít nhất anh cũng có nói.

Cressida bảo chúng tôi ngồi trong góc thụt của tảng đá, cái chỗ không thể nào không gây xúc động được, và dụ chúng tôi nói về săn bắn. Điều gì đã thúc đẩy chúng tôi vào rừng, chúng tôi gặp nhau thế nào, những khoảnh khắc yêu thích nhất. Chúng tôi bớt dè dặt hơn, bắt đầu cười chút ít khi kể về những lần gặp tai nạn với lũ ong, cho hoang và chồn hôi. Khi cuộc nói chuyện lái sang việc chúng tôi cảm thấy như thế nào khi thế hiện kỹ năng sử dụng vũ khí trong trận đánh bom ở Quận 8 thì tôi ngưng bặt. Gale chỉ nói, “Lẽ ra phải làm từ lâu rồi.”

Đến khi chúng tôi tới quảng trường thị trấn thì chiều đã ngả hẳn về tối. Tôi dẫn Cressida tới tiệm bánh đổ nát bảo chị quay một thước phim. Thứ cảm xúc duy nhất tôi có thể gom góp lại chỉ là sự rã rời. “Peeta à, đây là nhà cậu. Không ai nghe tin gì về gia đình cậu từ sau vụ đánh bom. Quận 12 mất rồi. Thế mà cậu lại kêu gọi đình chiến ư?” Tôi liếc quanh bốn bề trống rỗng. “Ở đây chẳng còn lại ai để nghe cậu nói đâu.”

Khi chúng tôi đứng trước đống kim loại xưa là giá treo cổ, Cressida hỏi có ai trong chúng tôi từng bị tra tấn hay không. Thay cho câu trả lời, Gale cởi áo sơ mi ra quay lưng lại ống kính. Tôi chằm chằm nhìn những vết sẹo do roi vọt để lại, trong tai lại vang lên tiếng roi quất phần phật, thấy hình hài đẫm máu của anh bị trói cổ tay lủng lẳng, bất tỉnh nhân sự.

“Thôi xong rồi,” tôi tuyên bố. “Tôi sẽ gặp mọi người ở Làng Chiến thắng. Thứ gì đó… cho mẹ tôi.”

Có lẽ tôi đã đi bộ đến đây, nhưng đến khi ý thức của tôi quay trở lại thì tôi đã thấy mình đang ngồi trên sàn trước tủ bếp ở ngôi nhà nơi Làng Chiến thắng. Cẩn thận xếp những chiếc bình gốm và lọ thủy tinh vào hộp. Nhét băng bông sạch vào giữa để tránh vỡ. Gói hàng bó hoa khô.

Thốt nhiên tôi nhớ ra bông hồng trên bàn phấn. Liệu nó có thật không? Nếu thật thì nó còn ở đó chứ? Tôi cố cưỡng lại thôi thúc đi kiểm tra. Nếu nó còn đấy thì chỉ khiến nỗi sợ hãi cứ trở đi trở lại trong tôi thôi. Tôi cập rập gói đồ.

Khi các ngăn tủ đã trống trơn, tôi đứng lên thấy Gale đã vào bếp từ lúc nào. Thật bực mình vì anh lại xuất hiện êm ru như thế. Anh cúi xuống bàn, ngón tay choãi rộng trên thớ gỗ. Tôi đặt chiếc hộp giữa hai đứa. “Nhớ không?” anh hỏi. “Đây là nơi em đã hôn anh.”

Hóa ra lượng ma phiện liều cao tiêm cho anh sau trận đòn roi không đủ mạnh để xóa nhòa điều đó khỏi nhận thức của anh. “Em tưởng anh không nhớ,” tôi nói.

“Đến chết mới quên được. Có khi tới lúc ấy cũng không,” anh bảo tôi. “Có lẽ anh sẽ giống người đàn ông trong ‘Cây Treo cổ’. Vẫn chờ đợi câu trả lời.” Gale, người mà tôi chưa từng thấy nhỏ lệ bao giờ, đang ngân ngấn nước mắt. Để ngăn lệ trào, tôi bước tới áp môi trên môi anh. Chúng tôi nếm thấy hơi nóng, tro tàn, cùng mùi khổ hạnh. Một hương vị đáng ngỡ ngàng cho nụ hôn dịu nhẹ nhường ấy. Anh rứt ra trước, đoạn gượng cười. “Anh đã biết thế nào em cũng hôn anh mà.”

“Tại sao?”

“Vì anh đang đau đớn,” anh đáp. “Đó là cách duy nhất khiến em chú ý đến anh.” Anh bê chiếc hộp lên. “Đừng lo, Katniss. Rồi sẽ qua thôi.” Anh rời đi không cho tôi kịp trả lời.

9.6

Tôi quá rệu rã không biết phải đối phó ra sao với pha chớp nhoáng vừa rồi của Gale. Suốt chuyến bay ngắn trở về Quận 13 tôi chỉ cuộn tròn trên ghế, cố tảng lờ Plutarch đang thao thao bất tuyệt về một trong những chủ đề yêu thích – những thứ vũ khí không còn có sẵn cho nhân loại tùy nghi sử dụng nữa. Máy bay tầm cao, vệ tinh quân sư, máy nghiền tế bào, máy bay không người lái, vũ khí sinh học có hạn sử dụng. Bị xóa sổ do bầu khí quyển bị hủy hoại, thiếu tài nguyên hay trái đạo đức. Có thể nghe thấy nỗi nuối tiếc của vị Trưởng Ban Tổ chức Đấu trường Sinh tử, giờ ngài chỉ biết mơ về những món đồ chơi đó và đành chấp nhận tàu bay với tên lửa mặt đất với mấy khẩu súng cũ đơn giản.

Sau khi trút bỏ bộ đồ Húng nhại, tôi đi thẳng về giường không thiết ăn uống. Thế mà Prim vẫn lay tôi dậy sáng hôm sau. Ăn sáng xong, tôi không đếm xỉa gì đến thời gian biểu mà lại chợp mắt trong tủ dụng cụ. Ngủ dậy, lồm cồm bò ra giữa đống hộp phấn và bút chì lỉnh kỉnh thì đã đến giờ ăn tối. Tôi dùng một suất xúp đậu cỡ đại và đang được dẫn trở về Phòng E thì bị Boggs chặn lại.

“Có cuộc họp ở Bộ Tư lệnh. Bỏ qua thời gian biểu hôm nay của cháu đi,” ông nói.

“Rõ,” tôi đáp.

“Hôm nay cháu có tuân theo thời gian biểu tí nào không đấy,” ông hỏi vẻ bực bội.

“Ai mà biết được? Cháu bị rối loạn tinh thần mà.” Tôi giơ cổ tay lên định cho ông xem chiếc vòng y tế thì nhận ra nó đã biến mất. “Thấy chưa? Cháu còn chả nhớ là người ta đã lấy chiếc vòng. Sao họ lại muốn cháu đến Bộ Tư lệnh nhỉ? Cháu có bỏ lỡ gì không?”

“Chắc là Cressida muốn cho cháu xem ĐTT Quận 12. Nhưng ta đoán rồi cháu cũng sẽ xem khi nào phát sóng thôi,” ông đáp.

“Thế nên cháu mới cần thời gian biểu. Khi ĐTT lên sóng ấy,” ông nói. Ông quắc mắt nhìn tôi nhưng không nhận xét gì thêm.

Mọi người đã ngồi kín Bộ Tư lệnh, nhưng vẫn dành cho tôi một chỗ giữa Finnick và Plutarch. Màn hình đã hiện lên bàn, trưng ra đường dẫn quen thuộc tới kênh Capitol.

“Chuyện gì vậy? Không phải chúng ta sắp xem ĐTT Quận 12 sao?” tôi hỏi.

“Ôi, không,” Plutarch nói. “Ý tôi là, chắc thế. Tôi không biết rõ Beetee định sử dụng cảnh nào.”

“Beetee cho rằng ông ấy đã tìm ra cách đột nhập vào đường dẫn toàn quốc,” Finnick lên tiếng. “Để ĐTT của chúng ta cũng sẽ lên sóng Capitol. Hiện ông ấy đang nghiên cứu dưới Ban Phòng thủ Đặc biệt. Tối nay sẽ có chương trình trực tiếp. Snow sẽ xuất hiện hay sao đó. Có lẽ bắt đầu rồi đây.”

Dấu triện Capitol hiện ra, được tăng cường hiệu quả bởi bài quốc ca. Rồi tôi chằm chằm nhìn thẳng vào cặp mắt rắn của Tổng thống Snow khi ông ta chào hỏi quốc dân. Ông ta có vẻ bị bao bọc kín sau chiếc bục, nhưng vẫn trông thấy trọn vẹn bông hồng trắng trên ve áo. Máy quay chĩa sang hướng khác thu cảnh Peeta ngồi một bên trước tấm bản đồ Panem được phát bằng máy chiếu. Cậu ngồi trên ghế treo, chân đặt trên thanh ngang kim loại. Chiếc chân giả của cậu gõ gõ theo nhịp kỳ quặc bất thường. Những giọt mồ hôi lấm tấm xuyên qua lớp phấn nơi môi và trán cậu. Nhưng chính ánh mắt cậu – giận dữ nhưng thiếu tập chung – mới là thứ khiến tôi sợ hãi nhất.

“Cậu ấy tàn tạ hơn rồi,” tôi thì thầm. Finnick nắm chặt tay tôi cho tôi chỗ bấu víu, còn tôi cố gắng bám riết lấy.

Peeta não nề cất tiếng về sự cấp thiết của việc đình chiến. Cậu nhấn mạnh những tổn thất đối với cơ sở hạ tầng chủ chốt ở nhiều quận, và trong khi cậu nói, một số phần trên bảng đồ sáng lên cho thấy những hình ảnh tàn phá. Một con đập bị vỡ ở Quận 7. Một đoàn tàu bị trật bánh khiến nước thải độc hại tràn lênh láng khỏi toa chứa hàng. Một kho thóc sụm nát sau vụ cháy. Tất cả những thiệt hại này cậu đều quy cho hành động nổi loạn.

Bùm! Không hề báo trước, tôi thình lình xuất hiện trên màn hình ti vi, đứng trước tiệm bánh đổ nát.

Plutarch nhảy cẫng lên. “Ông ấy làm được rồi! Beetee đột nhập được rồi.”

Mọi người trong phòng đang lao xao phản ứng thì Peeta xuất hiện trở lại, vẻ sao nhãng. Cậu đã thấy tôi trên màn hình. Cậu cố tiếp tục bài diễn văn bằng cách chuyển sang nói về vụ đánh bom nhà máy lọc nước thì bị một cảnh phim ngắn có cảnh Finnick nói về Rue chen vào. Rồi tất cả thành một trận chiến truyền thông khi các chuyên gia kỹ thuật của Capitol cố ngăn chặn đòn tấn công của Beetee. Nhưng họ đã bị phủ đầu, còn Beetee, hình như đã dự đoán rằng mình sẽ không thể nắm thế kiểm soát, thì có cả một kho vũ khí gồm những đoạn phim ngắn dài từ năm tới mười giây để xoay xở. Chúng tôi chứng kiến bài phát biểu chính thức chìm dần khi từ ĐTT phóng ra tới tấp cách chọn lựa.

Pkutarch bừng bừng phấn khích và hầu hết mọi người đều chúc mừng Beetee, nhưng Finnick vẫn đứng lặng người bên tôi. Tôi bắt gặp ánh mắt của Haymitch ở bên kia phòng, và nhìn thấy vẻ khiếp đảm của mình đang được phản chiếu trong đó. Cái vẻ ngộ ra rằng với mỗi lời chúng mừng thì Peeta lại tuột xa hơn khỏi tay của chúng tôi.

Dấu triện Capitol xuất hiện trở lại, kèm theo giọng thu âm đều đều. Nó kéo dài chừng hai mươi giây thì Snow và Peeta quay lại màn hình. Cảnh tượng thật rối loạn. Chúng tôi nghe thấy những lời trao đổi nhốn nháo từ các ca bin của họ. Snow nhoài ra trước, rành rọt nói rằng phiến quân đang tìm cách cản trở việc truyền bá những thông tin buộc tội họ, nhưng sự thật và công lý sẽ lên ngôi. Toàn bộ buổi phát sóng được chiếu lại sau khi tình hình an ninh vãn hồi. Ông ta hỏi Peeta xem trong màn thể hiện tối nay như vậy, cậu có muốn nói lời chào tạm biệt nào với Katniss Everdeen không.

Nghe nhắc đến tên tôi, Peeta gồng mình đến rúm ró mặt mày. “Katniss à…. cậu nghĩ chuyện này sẽ kết thúc thế nào đây? Sẽ còn lại những gì? Không ai được an toàn hết. Cả ở Capitol. Cả ở các quận. Còn cậu… ở Quận 13…” Cậu hít mạnh vào, như thể cố hớp không khí, cặp mắt trông hoảng loạn. “Sáng mai là chết!”

Đằng sau ống kính, Snow ra lệnh, “Kết thúc đi!” Beetee đẩy tất cả vào mớ hỗn loạn bằng cách cứ ba giây một lần cho phát nhanh một cảnh tĩnh với hình ảnh tôi đứng trước bệnh viện. Nhưng giữa những hình ảnh đó, riêng chúng tôi được biết hành động thật đang diễn ra tại hiện trường. Peeta nỗ lực nói tiếp. Máy quay chĩa xuống sàn gạch trắng tinh. Những đôi giày hỗn loạn. Lực của cú đấm giáng xuống đi liền với tiếng thét đau đớn của Peeta.

Và rồi máu của cậu văng tung tóe ra sàn gạch.

Phần II: Đột kích


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận