“Ngay lập tức, tôi cảm thấy hối hận.”
Mốc thủy ngân rút về trên vạch dương.
Băng nhanh chóng tan chảy, liên tiếp nhỏ nước xuống đường tàu.
Kim Hi Thần khoác tấm áo choàng rộng thùng thình dài đến đầu gối, dưới chân xỏ một đôi giày thể thao đã lấm lem bùn tuyết, đôi mắt lo lắng mở to như mắt mèo, thần sắc nhợt nhạt vương nét hãi hùng.
Anh hai đứng bên cạnh nó, yên lặng nhìn xa xăm.
Nó dò theo ánh mắt đối phương, nhìn nước tuyết tan rơi tí tách từ trên mái như hạt mưa ngâu, nắm lấy bàn tay buông thõng bên cạnh.
Cái hồn trở về thân xác trống rỗng, anh nhìn nó.
Nó xoa xoa bàn tay lạnh giá của anh.
Từ trong bóng tối hun hút của đường hầm truyền tới tiếng gió ù ù.
Tàu đến, cửa trượt qua một bên.
Kim Hi Thần bám sát gót chân anh.
Trên toa tàu không có hành khách nào khác ngoài bọn họ.
Anh hai và nó tìm nơi ấm áp ngồi xuống, thu mình lại để ngăn cái lạnh thấm sâu vào người.
Trên người anh chỉ có một chiếc áo len, cặp vớ đã ướt nhèm tuyết trong đôi dép kẹp xỏ vội.
Ngón tay anh bị lạnh tới mức đỏ tấy lên, khớp xương tróc da sần sùi.
Kim Hi Thần cởi áo choàng ra đắp cho cả hai.
Cậu bé cũng chỉ mặc lót trong một lớp pijama bằng vải kaki, rúc lại gần để sưởi ấm cho anh.
Nó mơ màng nhìn vào tấm kính đối diện.
Trời còn chưa rạng, luồng sáng trong tàu rọi bóng của hai người lên kính như ảnh chụp trắng đen.
Hình như nét mặt của anh hai hơi khang khác.
Nó nhìn người bên cạnh.
Hình như đúng là có gì đó khác.
Cặp mắt của anh như sâu hơn, môi mím chặt hơn, vừng trán dãn ra như người lính đang chuẩn bị làm một việc lớn lao.
Tàu bắt đầu chạy, Kim Hi Thần nhắm mắt lại.
Nó đã kiệt sức vì biến cố tối nay, nhanh chóng ngủ mê mệt.
Tàu chạy êm như bay, Thẩm Hi Quang gà gật, luồn ngón trỏ vào băng vải mềm bao quanh cổ tay, nặng nề chìm vào giấc mộng khó tỉnh dậy.
Mươi năm nay, anh cảm thấy cuộc đời của mình chỉ sự chuyển dịch từ căn phòng này sang căn phòng khác.
Trước khi lên sáu, anh luôn quanh quẩn trong căn hộ ba phòng ngủ cùng bố mẹ.
Phòng riêng của anh tương đối rộng so với một đứa trẻ.
Vách tường cách âm kém, bên ngoài cửa sổ bị một nhánh cây kim tước vươn ra che kín, ban ngày không hắt nắng, xế chiều thì âm u.
Bố anh có nước da rám nắng đặc trưng của người phương Bắc.
Mẹ anh là phụ nữ miền Nam với nét đẹp thanh nhã.
Trái với ngoại hình, bố anh khá trầm tính, ông thích dành thời gian để suy tư hơn là nói lên ý kiến của mình.
Anh chưa bao giờ thấy bố nói lại một câu nào mỗi khi mẹ giận dỗi.
Dù chưa quên hình dáng căn phòng thuở bé nhưng anh lại thường xuyên nhớ về bốn bức vách khép lại rộng chưa tới hai mươi lăm mét vuông ở nhà tình thương.
Giường kẹp giữa tường và bàn.
Giấy dán tường bị rách lộ ra lớp vôi bên trong.
Cửa sổ lắp lưới sắt nhìn ra rặng chuối tiêu mọc dại.
Đúng mười giờ, đèn đóm tắt hết, căn phòng chìm vào miền xa xôi như một thế giới khác.
Anh luôn nằm trên giường nhìn ánh trăng nổi trên sàn nhà, vươn tay cố bắt lấy một thứ vô hình luồng sáng đem lại, sau đó rơi vào giấc ngủ.
Căn phòng thứ ba không có cửa sổ.
Bốn bức tường quây quanh không gian rộng bốn mươi mét vuông.
Tiện nghi đầy đủ, điều hòa luôn luôn chạy êm ru.
Và có một cái ổ khóa ở mặt kia cánh cửa.
Chẳng có gì ở nơi đó ngoài lạnh lẽo và thù hận.
Căn phòng Úc Trầm dọn cho anh có ban công gắn lưới sắt đón nắng.
Đêm luôn trông thấy mặt trăng.
Gã thường xuyên về nhà muộn.
Tiếng bước chân của gã cao thấp không đồng đều, đôi khi nghe giống một kẻ say, nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy gã say.
Vì bệnh tật, gã không uống một giọt cồn.
Tuy vậy, tính gã dễ nóng nảy như tụi ma men, dùng lời không hiệu quả là gã dùng đến sức mạnh.
Không hề có dáng vẻ được chiều hư như cô em gái của gã.
Gã mua cho anh chiếc di động đầu tiên vào năm lớp Bảy và dặn mỗi khi gã gọi đến, bất kể anh đang ở đâu hay làm gì thì cũng phải nghe điện thoại.
Anh bỏ ngoài tai, có lẽ vì đang ở tuổi chống đối, nhiều lần tắt máy chọc gã điên lên.
Dù vậy…!mỗi khi anh không nghe máy, gã luôn đến nhìn qua anh một cái.
Dẫu theo sau đó là mắng nhiếc hay đòn roi, ít ra gã đã từng đến để nhìn anh.
Có một lần gã bị nhiễm trùng gan, hình như là sáu năm trước, lúc đó bác sĩ tưởng gã chết chắc rồi.
Anh từ trên trường bị gọi đến bên giường bệnh.
Gã nhìn anh, khuôn mặt nhăn nhó vì đau đớn, lần đầu tiên ánh mắt kiêu căng lộ ra sự tuyệt vọng.
Thì ra, đến cả kẻ mưu mô như Úc Trầm cũng tuyệt vọng với anh…
Thẩm Hi Quang bị một cơn ho không kiềm chế nổi vực dậy từ trong giấc ngủ.
Anh ho không thể ngừng, trong lồng ngực như có một vòng dây thép gai thít chặt lại.
Giá lạnh, tê tái đến mức anh như chẳng còn cảm giác được hai lá phổi của mình nữa.
“Anh hai!” Kim Hi Thần bị tiếng ho đánh thức, nắm chặt lấy bàn tay anh.
Trong toa tàu vẫn chỉ có hai người bọn họ.
Màn sương nơi chân trời dập dờn ánh rạng đông, ga kế tiếp hẳn sẽ đón một lượt khách sớm.
Hai người xuống ga tiếp theo.
Tay chân Thẩm Hi Quang chẳng còn cảm giác gì nữa.
Anh đi ba bước thì phải dừng lại lấy hơi một lần.
Anh phóng mắt ra cái hồ bán nguyệt gần ga tàu, nước không đóng băng.
Ven bờ có cây kim tước trọc lóc và cây liễu in bóng xuống mặt nước.
Kim Hi Thần dắt tay anh đi vào tòa soạn báo, như một người trưởng thành gõ ngón trỏ lên quầy lễ tân, hỏi thăm về tác gia Kim Mân.
“Còn bốn tiếng nữa bà ấy mới đến.” Nhân viên nhận ra cậu bé, ngạc nhiên: “Sao cháu lại đến đây sớm như vậy?”
Nó cười hì, bịa một cái cớ nghe miễn cưỡng, sau đó dắt anh hai vào phòng chờ.
Thẩm Hi Quang nhân lúc nó đi vệ sinh thì đứng dậy lê bước tới thang máy, nhấn nút lên tầng thượng.
Sắp xong rồi…!Chỉ còn một bước cuối…
Thẩm Hi Quang co rúm người, tựa đầu vào vách thang máy nhìn hình ảnh phản chiếu của bản thân.
“Tôi ghét trời mưa và hơi ẩm.
Tháng sáu thật tệ hại, nắng chói chang, không khí nóng bức, mưa và sấm sét thì dầm dề, bẩn thỉu.
Côn trùng ở khắp nơi.
Lũ trẻ không đến trường nên được rảnh rỗi để phá phách và làm ầm ĩ.
Chúng là đám mà tôi ghét nhất.
Lúc nào cũng mở to đôi mắt ngu ngốc và tò mò nhìn tôi.
Tôi chỉ muốn bóp cổ bọn trẻ khi chúng la hét, hoặc nguyền rủa chúng sẽ rơi khỏi lầu chết phứt đi.
Lũ trẻ chỉ biết lao vào tôi dù không bao giờ hiểu được những gì tôi phải trải qua.
Con trẻ ngây thơ vô tội? Không.
Chính sự vô tư của chúng liên tục xát muối vào vết thương của tôi.
Mỗi khi đọc thư của nó, sự ghen tị và hận thù lại bùng lên trong tôi.
Ngùn ngụt như lửa lan đồng cỏ.
Tôi phải cắn chặt môi mỗi lần muốn cầu cứu ai đó…!Tôi lại phải lừa gạt người khác nữa…” Anh siết chặt băng vải mềm quanh cổ tay, giọng nói lạc đi.
Khuôn mặt phản chiếu trên vách thang máy buồn bã chùng xuống.
Thẩm Hi Quang đập vào vách, nghiến răng ken két.
Đừng có nhìn tôi bằng ánh mắt đó! Thẩm Miên! Anh đâu hiểu được cảm giác của tôi!
Nếu anh chết ở đây, ngay trước tòa soạn báo này, mọi sự nghiệp và mơ ước của hai con người kia sẽ tan thành mây khói.
Tuyệt đối không thể cứu vãn nổi.
Cả Kim Hi Thần và cái gia đình đó đều sẽ không được yên ổn trên nấm mồ của anh.
Anh đang học theo Úc Trầm.
Thẩm Hi Quang dùng một đoạn dây sắt để mở cái khóa hỏng hóc của cửa sân thượng.
Anh học được trò vặt này từ những tháng ngày chán ngắt ở bệnh viện tâm thần.
Lan can được rào bằng tấm lưới mỏng đến mức anh có thể dùng một cái kéo để cắt ra.
Anh nhìn xuống mặt đất heo hút, từ tận đáy lòng dấy lên một nỗi kinh hoàng lẫn với hưng phấn.
Gió đông không ngừng quất vào mặt mũi và cơ thể đang run bần bật của anh.
Những tia nắng đầu tiên chầm chậm ló dạng qua màn sương trong lúc anh cắt lưới sắt.
Từ phía chân trời hiện lên những bụi lóng lánh như pha lê, theo gợn sóng dập dờn phủ kín mặt hồ.
Hơi nước chiết những tia nắng thành dải quang phổ sặc sỡ vắt ngang hình bán nguyệt biêng biếc.
Kỳ cảnh này khiến Thẩm Hi Quang sững sờ mất một lúc, sau đó trong ngực bỗng tràn ngập một sức nặng khiến anh ngạt thở vô cùng, muốn đổ sụp xuống mặt đất.
Mùa đông, vài tuần trước khi ra khỏi trung tâm, bà Tiến sĩ ngồi thoải mái trên ghế dựa, nói với anh: “Khi những triệu chứng kéo dài quá lâu mà đã làm hết cách để gỡ rối quá khứ và hiện tại thì tôi không thể không đặt ra giả thuyết rằng chúng đại diện cho các ý nghĩa về ham muốn hơn là sự đối phó với giai đoạn tạm thời.
Ý tôi muốn nói – một cách đơn giản để giải thích cho chứng bệnh kéo dài nhiều năm của cậu – là: lâu nay cậu có một ham muốn dồn nén mãnh liệt chưa thể thực hiện được.”
“Tôi chẳng có hứng thú với gì cả.”
“Chúng ta hãy cùng xem lại điều đó.
Ví dụ như chiếc băng cổ tay của cậu, cậu không chơi thể thao nên chắn chắc cậu không tự mua lấy để đeo, vậy thì ai đã tặng nó cho cậu?”
Anh đáp bằng cái nhăn mày.
Hà Kiều Dung dịu giọng: “Cậu được phép nghe hay không nghe tôi.
Cậu muốn trả lời tôi hay không là quyền của cậu.
Tôi chỉ nói những gì mình đang nghĩ.
“Tôi đoán…!người đã tặng băng cổ tay cho cậu là nam – vì con gái không thường tặng đồ thể thao trừ trường hợp con trai có chơi thể thao; cậu ấy chạc tuổi cậu, có thể là nhỏ hơn – căn cứ vào thái độ của cậu khi sử dụng nó.
Vì cậu ấy thường xuyên chơi thể thao nên sẽ có tầm vóc cao ráo, khỏe mạnh.
Tôi tin rằng cậu ấy là người tinh tế và nhạy cảm dựa trên màu sắc và chất liệu của băng vải.
Nhưng vì sao lại tặng cho cậu thứ đó nhỉ? Tôi thấy cậu che lại những vết sẹo.
Có lẽ đối phương mong muốn cậu ít nhìn vào chúng hơn.
Vậy thì đó hẳn là người tốt bụng và rất quan tâm đến cậu.”
Bà ấy vừa nói vừa quan sát anh, sau đó mỉm cười: “Nghe tin người thân duy nhất của cậu qua đời khiến tôi cảm thấy rất lo.
Nhưng tôi mừng khi biết rằng vẫn có ai đó quan tâm tới cậu.
Gần bốn năm qua tôi đã làm hết sức mình.
Hi vọng sau này cậu sẽ không phải gặp lại tôi.
Còn nữa…!mỗi một nhân dạng đều có ý nghĩa của nó, có lẽ mong muốn của họ cũng chính là mong muốn của cậu.”
Anh nhìn cây ngô đồng ngoài sân, ngón trỏ luồn vào băng cổ tay.
Người đàn bà này đã khiến anh phải im lặng không dưới vài lần.
Nguyên nhân không nằm ở những lời nói sắc sảo hay ngụ ý thâm sâu mà là trên bà ấy có gì đó làm anh nhớ tới một thiếu niên vừa đủ ngây thơ, vừa đủ khôn ngoan, vừa đủ kỳ lạ.
Và cậu thật lòng xem anh là người bình thường.
Đến nỗi cậu không phán xét anh theo lý lẽ của nhân loại.
Vì em muốn anh có một chốn dung thân trên thế gian này…
Ngay lúc này lòng Thẩm Hi Quang không ngừng quặn lại.
Anh thấy ngực bị dây thép gai siết chặt.
Anh thấy như luồng ánh sáng đang đè lên mình nặng cả ngàn ki-lô.
Anh che mặt òa khóc.
Một làn sóng cảm xúc khủng khiếp từ khung cảnh trước mặt đột ngột bao trùm anh.
Trong khi anh đang gục xuống, loáng thoáng có giọng nói quen tai.
Anh cố mở to đôi mắt cay xè nhưng chỉ thấy được một luồng sáng trắng mong manh.
Có một vòng tay, hay một miền gì đó ấm áp quây lấy anh.
Anh ngửi thấy một mùi không hề xa lạ.
Giây phút ấy, môi anh mở toang ra và có tiếng gọi tha thiết tới mức anh chẳng ngờ là nó thuộc về mình.
“Cứu tôi! Cứu tôi với! Đừng để tôi ngã xuống!” Anh không kiểm soát được âm lượng của bản thân.
Giữa cơn cuồng loạn này, một tia lý trí trong anh chỉ có thể gắng gượng suy nghĩ: Lại nữa, mỗi lần gần đến bước cuối thì mày lại sợ hãi cùng cực.
Sao lại có kẻ đê hèn như mày? Dám nghĩ, dám làm nhưng không dám làm đến cùng.
Mày thật hèn hạ.
Mày đúng là đáng bỏ đi.
Mày sợ cái quái gì cơ chứ?
“Thẩm Hi Quang.” Giọng nói vang lên bên tai anh, hơi run run, truyền tới sự mềm mại của bờ môi, khẽ khàng nhưng sắt đá, lập tức đẩy lùi âm thanh kinh khủng đó, “Đừng sợ.
Em giữ được anh rồi.
Nhìn kìa, bình minh đang lên.”
Anh quay đầu nhìn theo tiếng nói.
Chóp của vầng dương nhú lên như đỉnh kim tự tháp bằng vàng ròng, xua tan màn sương dày đặc.
Mặt hồ hứng lấy vụn nắng loang loáng, sóng lùa sóng ánh lên màu săn sắt như một bể bạch kim lỏng.
Anh vô thức vươn tay như muốn chạm tới.
Một bàn tay khác lồng vào bàn tay anh, siết chặt chẽ.
Một, hai, ba, bốn căn phòng khép kín.
Mỗi khi vươn tay vào luồng sáng, anh chẳng thể bắt được chút hi vọng nào.
Luôn luôn, có một tấm lưới hay là cái gì đó ngăn cản anh chạm tới ánh sáng đích thực.
Đã không thể thì anh sẽ đi đến nơi khác để tìm kiếm hi vọng.
Anh quyết định trong cơn mê, hành động trong sự bải hoải.
Rơi xuống là một trải nghiệm chóng vánh.
Ban đầu, cơ thể nhẹ bẫng như lá rụng trong gió; khi chạm đất thì ánh sáng tràn ra khắp chi thể, lóe lên chói lọi rồi lụi tàn.
Tại khoảnh khắc đó, anh giống như đứa bé mới sinh, như một vị hiền nhân ngỡ đã hiểu thấu cuộc đời tiến vào một phạm trù mới.
Nói ngắn gọn, anh lập tức hối hận.
Anh sợ, vì đã trải qua rồi, anh biết rõ mình sẽ hối hận.
Mất vài phút, Thẩm Hi Quang mới tìm lại được giọng của mình, thều thào như sắp ngất: “Làm sao em tìm được tôi?”
Bộ Thư vùi mặt vào gáy anh, giọng khàn đi, trả lời: “Em có thể viết cả một câu chuyện trinh thám chỉ từ việc suy luận xem kế hoạch của anh là gì.”
“Nói tôi nghe xem.
Phong cách phân tích của em khá là sáng tạo.”
“Chúng ta đi xuống rồi em mới nói.”
“Vậy thì ở đây thêm chút nữa đi.” Anh thật muốn bọn họ đắm mình trong ánh sáng này nhiều hơn nữa.
“Vâng.” Bộ Thư choàng áo khoác qua cơ thể Thẩm Hi Quang, lấy ra một chai chứa thứ nước gì sánh quyện, thơm đậm đưa lên môi anh: “Rượu.
Anh uống một chút để làm ấm.”
“Sao lại có rượu?”
“Em lấy trong cốp xe mô-tô của ông anh ở chung.” Cậu lẩm bẩm: “Vậy mà anh ấy nói mình không uống cơ đấy.”
Thẩm Hi Quang nhấp chút ít, vị rượu rất nồng nàn, nuốt xuống nóng rát cả họng, bảo: “Em bình tĩnh hơn tôi nghĩ.”
“Em đã biết trước rồi.
Với lại, em đã nói là em hoàn toàn tôn trọng quyết định của anh.”
“Này…!sao lại khóc?”
“Mặc kệ em.” Cậu cắn chặt môi, nước mắt chảy ra.
Anh dùng ngón tay cạy môi cậu: “Nào, rách môi bây giờ.
Định cắn tôi luôn à?”
Bộ Thư trừng anh, trong mắt tóe lửa rồi lập tức bị hơi nước phủ kín, miệng méo xệch như một đứa nhỏ.
Thẩm Hi Quang lau nước mắt cho cậu, thấp giọng dỗ dành: “Khóc ướt cả áo tôi rồi này.”
Cuộc ngắm cảnh bị cắt đứt bởi một tràng ho dữ dội của anh.
Bộ Thư cõng anh xuống tầng, gặp Kim Hi Thần đang lo lắng đứng giữa sảnh.
Thẩm Hi Quang gọi nó lại: “Đi với anh.
Mẹ sẽ không đến đâu.”
“Tại sao ạ?”
“Vì mẹ bận chuyện khác.” Anh không nói rõ, song Bộ Thư vừa nghe liền hiểu.
Cậu nhìn Kim Hi Thần, mỉm một nét cười thương xót.
Kim Hi Thần ngập tràn bối rối đi theo hai người.
Thẩm Hi Quang nhanh chóng thiếp đi trên lưng Bộ Thư.
Cậu chìm trong sự im lặng thâm nghiêm suốt quãng đường đến bệnh viện.
Sau khi xin bác sĩ cho anh một mũi tiêm an thần, Bộ Thư mới gọi nó lại, tự giới thiệu bản thân rồi trang nghiêm hỏi: “Em có mến anh hai mình không?”
“Dạ có.”
“Anh còn hơn em, anh vô cùng thương anh trai em.” Cậu đặt tay lên vai nó, ngữ khí chân thành đến mức nó lập tức tin tưởng.
Dựa vào lời kể của Thẩm Dã, có thể thấy mươi năm nay, gã đàn ông lạ mặt mà cậu đã cứu chính là nguồn gốc của cái bóng kinh hoàng đã ám vào cuộc đời Thẩm Hi Quang.
Gã và cô Kim có mối quan hệ tình cảm.
Bọn họ nhắm tới khối tài sản anh được thừa kế.
Bởi vì có tiền sử về bệnh tâm thần nên chắc chắn anh sẽ gặp nhiều bất lợi hơn là thuận lợi nếu cô Kim dám ra trước tòa.
Sự xảo quyệt và thông minh trong đôi mắt gã đàn ông đó khiến Bộ Thư hiểu rõ gã là người không dễ đối phó.
Nếu anh tự sát thì cô Kim sẽ trắng tay chiếu theo di chúc của bác anh.
Tuy nhiên, vì anh còn sống nên hai người đó có thể lợi dụng tất cả những chuyện này để gây bất lợi cho anh.
Trong trường hợp này, lời chứng của Kim Hi Thần là quan trọng nhất.
Cậu bé là người duy nhất có thể xử anh trắng án.
Bộ Thư nắm lấy hai bàn tay đặt trên chân của nó: “Nếu em không muốn anh hai rời xa chúng ta thì phải làm theo những gì anh sắp nói đây.”.