– Có quan hệ rất lớn, Nhân Cốt Niệm Châu chân chính, nếu muốn pháp lực mạnh, phải sử dụng đầu lâu của thầy tu ở Tây Tạng, hơn nữa tốt nhất là xương ấn đường(*). Em nghĩ xem, một thi thể chỉ có thể lấy ra một viên, như vậy một chuỗi 108 hạt Nhân Cốt Niệm Châu, ít nhất phải 108 người. Người Tây Tạng trời sinh trời dưỡng, tất cả những thứ bọn họ giúp họ sinh sống đều là thiên nhiên ban tặng, sau đó đương nhiên là trả lại cho thiên nhiên, dùng máu thịt của mình tẩm bổ cho đất đai cằn cỗi, làm mồi cho động vật sinh tồn khổ sở trên đất dai cằn cỗi này. Sau khi thiên táng bị ăn trụi rồi, xương sẽ là nguyên liệu tốt để chế tác Nhân Cốt Niệm Châu. – Xương này từ thầy tu Tây Tạng.
(*) Điểm giữa hai lông mày.
Nhân Cốt Niệm Châu do Tây Tạng độc quyền sở hữu, Nhân Cốt Niệm Châu chân chính, yêu cầu nhất định phải là xương thầy tu ở Tây Tạng, bởi vì ở khu vực Tây Tạng, quanh năm sống trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ, nỗ lực tu hành, ngoài để chứng minh địa vị, còn để tích công đức cho thân mình, bản thân cũng phải nhận nhiều nghiệp chướng, ngoài ra công đức còn phải viên mãn, hơn nữa khi còn sống phải nguyện đem xương đi, lấy phương thức thiên táng, chế thành pháp khí, Niệm Châu(*), để lại duyên cho người tu hành, trợ giúp bọn họ thành Phật đạo, nên đây là tràng hạt có công quả.
(*) Tràng hạt.
Hiện nay sau khi Niết Bàn(*) thầy tu ở Tây Tạng thực hành thiên táng càng ngày càng ít, cho nên Nhân Cốt Niệm Châu chân chính của họ không dễ gặp, nhưng bây giờ Nhân Cốt Niệm Châu đầy rẫy ngoài đường, đều là xương thú, hoặc chẳng biết chỗ nào làm bằng xương người, những viên châu này, nếu kèm linh thể những thứ khác, người sử dụng sẽ bị cản trở rất lớn, hoặc là đã ngâm vào mỡ xương người, nhìn thì có vẻ đã ngâm lâu, nhưng thật ra đều mới ngâm. Nói chung là hàng giả đầy rẫy, Trầm Linh muốn tìm Niệm Châu có pháp lực bám vào và nhận vô số nghiệp chướng.
(*) Nirvana. người tu đã chứng đạo, khi bỏ xác phàm vào nơi không sinh không diệt sạch hết mọi đường phiền não, cũng gọi là viên tịch.
Trầm Liên nâng má: “Ra là vậy, em lại thấy dân Tây Tạng thật vĩ đại, có thể chúng ta nghĩ họ tàn nhẫn và không ủng hộ chỉ là bởi vì hoàn cảnh sinh tồn của chúng ta không giống họ, họ lấy từ thiên nhiên cái gì thì cũng biết phải trả lại. Trời sinh trời dưỡng, mãi cho đến chết, hiến thân thể mình cho trời.”
– Em nói phải, hoàn cảnh sinh tồn và bối cảnh văn hóa chúng ta không giống dân Tây Tạng, không thể dùng cảm thụ của mình để kết luận ý thức tôn giáo của bọn họ…
Trong văn hóa Tạng vốn tồn tại nhiều thần linh quỷ quái như vậy, giống như tôn giáo từ Ấn Độ truyền vào, Tây Tạng lại biến thành trầm trọng và nghiêm khắc, không giống Phật giáo Trung Quốc, cũng khác Phật giáo Ấn Độ. Chúng ta đều tin tưởng trong đó có nhân tố hết sức quan trọng.
Thiên nhiên ở Tây Tạng thể hiện ra uy thế, so với vùng đồng bằng, thiên nhiên hiểm ác đáng sợ tất nhiên không thể sản sinh ra một xã hội loài người quy mô, con người chỉ có thể lấy một quần thể nhớ đối mặt với thiên nhiên cuồng bạo. Đa số dân Tạng đều chỉ sống tạm bợ, như vậy càng ỷ lại những điều trời ban cho…
Không khó tưởng tượng, tại nơi điều kiện sinh tồn và tình trạng sinh hoạt như vậy, chịu được cô độc trống vắng và khủng hoảng không có trợ giúp, linh hồn và máu thịt dân Tạng đời đời trải qua có bao nhiêu nặng nề.
Khi một gia đình già trẻ co rúc trong cái lều bé tí lắng nghe tiếng sấm bão táp bên ngoài, hoặc mưa đá đánh vào đầu, hoặc nhìn thấy trăm nghìn xác dê bò chết khi tuyết lở, sợ hãi khắc sâu không hề ngăn trở mà thầm sâu vào linh hồn của con người.
Do sợ hãi mà kính nể, do kính nể thăng hoa mà say mê đồ đằng quỷ quái.
Cũng bởi vì điều này mà trong tín ngưỡng tôn giáo của dân Tạng, nhất là Phật giáo Mật Tông, khổ tu và tàn nhẫn lấy thân thể của chính mình đổi lấy tinh thần giải thoát lại trở nên rất quan trọng. Để an nhàn sinh tồn, bọn họ không tiếc bất kỳ giá nào.
Pháp thuật Thi Thân cũng là thứ khi Mật Tông và vu thuật vùng Trung Nguyên đấu tranh, một trong pháp bảo tốt nhất, qua khổ tu lấy được sức mạnh mạnh mẽ, trình độ vứt bỏ được đau đớn của bản thân, phải nói bọn họ là vô địch. Muốn lên thiên đường, trước phải xuống địa ngục…
Muốn đối phó Cổ Bộ Cương Đồng, pháp thuật Thi Thân rất quan trọng, Trầm Linh đương nhiên không muốn Mật Tông sẽ ra tay giúp đỡ, thế nhưng chuẩn bị chút pháp khí… vẫn có thể.
Trầm Liên bỗng nhiên rất bội phục Trầm Linh, có thể nói ra lời này, tất nhiên là cũng hiểu và đồng tình với việc sinh tồn ở trong hoàn cảnh ác liệt, e rằng cô đã trải qua như vậy, cô giống như Kỷ Thư, vì du học vu thuật đã chín chắn hơn người cùng tuổi rất nhiều, hiểu được ý nghĩa sinh mạng, tư tưởng của cô không hẹp như người khác tưởng tượng.
Tôn trọng, Trầm Linh hiểu được phải tôn trọng người khác.
– Nhưng chị không thi triển pháp thuật Thi Thân được? Thì pháp khí có ích lợi gì? – Trầm Liên vẫn lo lắng như cũ.
– Pháp thuật Thi Thân tuy rằng không biết, nhưng tiểu công chúa em quên rồi, thể chất của tôi đặc thù, không cần bùa chú để có thể thi triển pháp thuật, chỉ cần phía trên những pháp khí kia có pháp lực, tôi có thể sử dụng trực tiếp. Nhưng tất nhiên là ở thánh địa Mật Tông, trên thực tế, pháp thuật Thi Thân là tông phái lợi hại nhất, rất nhiều năm trước đã dời đến vùng này, mà không phải ở Tây Tạng. Tây Tạng là chỗ thần thánh như vậy, sức mạnh của pháp thuật Thi Thân có hơi ác, điều này đối với những tín đồ ngoan đạo mà nói, làm vấy bẩn thần linh là tội không thể tha thứ… Đối với sức mạnh vu thuật Mật Tông ở vùng này, chúng ta không thể khinh thường. – Trầm Linh có chút lo lắng, để Trầm Liên ở lại khách sạn, cô thực sự lo lắng, mang đi cùng lại sợ điều gì đó sẽ làm nàng phát tác lần thứ hai.
– Linh, em biết Linh đang lo gì, em sẽ đi cùng Linh, một khắc em cũng không muốn rời xa Linh, như vậy em sẽ rất bất an, yên tâm, em sẽ tự mình khắc chế tâm tình, sẽ không để cho bản thân không thể khống chế được. – Trầm Liên nhận thấy được Trầm Linh đang lo lắng.
– … Cũng được, cùng đi thôi, bỏ lại một mình em thì tôi càng không yên lòng. – Trầm Linh gật đầu.
Ngày hôm sau, Trầm Linh mang theo Trầm Liên đi xin quẻ ở chùa, cô biết nếu như Mật Tông ở đây có hoạt động gì, vậy Thiền Tông(*) ở nơi này nhất định là biết rõ. Lần trước hòa thượng đoán xâm kia có thể nhận ra cô, nhất định có liên quan đến giới vu thuật.
(*) một phái của Phật Giáo.
Do họ đi sớm, vừa lúc chùa mở cửa, cho nên trong đó ngoài hòa thượng lên lớp sớm, hầu như không có du khách nào. Cho nên ngay cả cửa chính cũng không có mở, chỉ có thể đứng ở bên ngoài tường.
Trầm Linh móc một người giấy nhỏ ra, vẽ trên không khí vài vòng chú văn, niệm một tiếng: “Dậy!”
Người giấy rung rinh bay qua tường viện, chui vào chùa, chỉ chốc lát, có một tiểu hòa thượng mở rộng cửa dẫn Trầm Linh họ đi vào.
Theo chỉ đường của tiểu hòa thượng, từ đường nhỏ bên cạnh họ đi thẳng vào bên trong, phía đại điện là Tàng Kinh Các(*), chùa có Tàng Kinh Các thường là chùa có lịch sử lâu đời, hơn nữa địa vị không tầm thường, Trầm Linh biết mình đã tìm đúng nơi.
(*) Nơi cất giấu bí kíp.
Vào trong Tàng Thư Lâu(*), tiểu hòa thượng chủ động lui xuống, nói nơi này là cấm địa, bình thường không thể tùy tiện đi vào. Trầm Linh cũng không cố kỵ, lôi kéo Trầm Liên nghênh ngang đi vào, quả nhiên thấy hòa thượng đoán xâm cho cô ngày ấy ngồi ở bên trong.
(*) Lầu trữ sách.
– Trầm Linh Phược gia quả nhiên rất lợi hại, chỉ vội vã thấy mặt bần tăng một lần mà có thể làm cho người giấy này truy ra. – Hòa thượng kia cười rất bất đắc dĩ, cũng thật bội phục Trầm Linh, tờ giấy này là thứ mấy bà nội trợ ngoài chợ dùng đế giày để đánh con nít, Trầm Linh lại có thể viết lên tên của hắn và sinh nhật để tìm hắn.
– Có liên quan đến bói toán, cho nên có thể tìm tới tiên sinh cũng không ngạc nhiên. – Trầm Linh bỏ qua màn chào hỏi, không tiếp xúc với ánh mắt hòa thượng kia, mà là quan sát bố cục của Tàng Thư Lâu. Có thể thường lui tới nơi này, tất nhiên địa vị không tầm thường.
Hiện tại họ đang ở tầng hai, quét sơ một vòng, có nhiều bộ sách cũ kỹ, hơn nữa sách đóng buộc chỉ(*) chiếm đa số, có rất nhiều bộ chỉ còn một quyển. Thảo nào nơi đây được trông coi nghiêm như thế, nhưng hòa thượng này gọi mình tới nơi này, lần này nghiêm chỉnh đợi…
(*) một cách đóng sách truyền thống của Trung Quốc, sợi chỉ lộ rõ ra ngoài bìa.
– Cho nên tiên sinh cũng coi như biết ngày hôm nay tôi sẽ đến đây nhỉ. – Trầm Linh bí hiểm hỏi.
– Một chút, bần tăng chỉ biết có người tới thăm, hơn nữa dò không ra là cát hay hung. – Hòa thượng kia thành thật trả lời.
– Chí ít đối với tiên sinh mà nói thì cũng chẳng là chuyện gì, tôi chỉ muốn hỏi tổng đàn của Mật Tông ở đâu? – Trầm Linh cũng không vòng vo.
– Quẻ hôm đó thế nào? – Hòa thượng đột nhiên hỏi.
Trầm Linh nghiêng mặt sang bên nhìn Trầm Liên, nàng tò mò nhìn cô.
– Ha ha tin tưởng với năng lực Trầm Linh, không cần tiểu nhân vật như bần tăng đoán quẻ cho cô, tốt hay xấu, tất nhiên là cô hiểu rõ hơn tôi, là tôi lắm miệng hỏi. – Hòa thượng kia tiến đến phía Trầm Liên, nhận thấy được một cảm giác áp bức, ban đầu hắn cho rằng đó là trên người Trầm Linh, hiện tại phát hiện là Trầm Liên, không khỏi ngước mắt nhìn.
Phần đông người tu Phật mà tu đạt thành quả đều có thể mở Kim quang Thiên nhãn(*), cho nên hắn nhìn ra kim quang bao phủ quanh thân Trầm Liên chỉ có tôn giáo chính thống mới có. Nhưng kim quang này lại có chút khí, làm cho hắn khó hiểu.
(*) Mắt trời.
Đa số tôn giáo phân chia giới hạn khác biệt, nhưng cũng khẳng định, kim quang trên người Trầm Liên tuyệt đối không phải thuộc bất kỳ một tôn giáo nào của Trung Quốc. Bởi vì giáo lí trên lãnh thổ Trung Quốc, phần nhiều đã thương sinh linh, cho nên chính khí kim quang gần gũi, ấm áp như gió xuân, không lành lạnh như Trầm Liên khiến người cảm thấy lạnh lẽo.
– Vị này chính là? – Hòa thượng nhịn không được hỏi một câu.
– Em gái tôi… Trầm Liên. – Trầm Linh kín đáo chặn đường nhìn của hòa thượng.
– À… – Hòa thượng như có điều suy nghĩ, không hỏi nhiều, nghe đồn Phược vốn xuất thân từ Đông Nam Á, như vậy cũng không có lý do gì lại hỏi tiếp, đành dằn cảm giác quái dị xuống.
– Quẻ thì tôi đã xem, không nhọc đại sư, tôi chỉ muốn hỏi chuyện Mật Tông vùng này.
– Ha ha, chưa tới đại sư đâu, bần tăng chỉ là một tiểu tăng đoán xâm, pháp hiệu Pháp Liên. – Pháp Liên hiền hòa cười cười.
– Pháp Liên? – Trầm Liên chép miệng: “Một cái tên rất nữ tính.”
– Nữ tính? – Pháp Liên nghĩ tiểu cô nương này rất thú vị: “Pháp hiệu là sư phụ ban cho, cho gì thì là đó. Bần tăng cực kỳ thích, hoa sen là thánh vật Phật tổ ngồi, còn nữa, cùng âm với Trầm Liên cô nương, chẳng phải là duyên phận?”
– Vâng. Pháp Liên đại sư nói rất đúng. – Trầm Liên cười gật đầu: “Không đúng, nên bỏ đi hai chữ đại sư, người xuất gia không màn danh lợi, một cái danh xưng, Pháp Liên nhất định thích người khác gọi tên thật của tiên sinh nhỉ.”
– Ha ha ha… – Pháp Liên cười sang sảng: “Tiểu cô nương thật nghịch ngợm, cơ mà hợp với khẩu vị của bần tăng.”