Lá thư của Theodora đến vào giữa trưa, ba ngày sau cuộc gặp của Camden với cô Rowland. Một mảnh giấy thơm mùi hoa hồng báo cho anh biết về cuộc hôn nhân sắp tới của cô với một quý tộc Ba Lan – sắp tới chỉ là trong thì quá khứ. Lá thư được viết hai ngày trước đám cưới, nhưng ba ngày sau mới được gửi đến.
Camden không thể tưởng tượng Theodora sẽ lấy ai đó khác. Mọi người nói chung thường khiến cô lúng túng, ngay cả anh, ở một góc độ nào đó, mặc dù cô để anh nắm tay và hôn cô. Nhưng cô vẫn hạnh phúc nhất khi được tách khỏi phần còn lại của cộng đồng, làm một nhạc công ẩn dật trong một ngôi nhà nhỏ trên đỉnh cao của dãy núi Alps, không có hàng xóm, chỉ có những chú bò trong những đồng cỏ mùa xuân.
Anh lo lắng cho cô. Nhưng ngay cả như vậy, anh vẫn không thể kìm lại cơn thủy triều kích động mà tin tức này mang lại. Khao khát. Ham muốn mê muội. Choáng váng vì dục vọng. Sự thèm muốn dù gọi bằng bất kỳ một cái tên nào khác vẫn là một cơn đói khát. Anh muốn cô Rowland. Anh muốn cười với cô. Anh muốn cháy cùng cô. Và bây giờ anh có thể. Nếu anh cưới cô.
Tuy nhiên, hôn nhân là một vấn đề nghiêm túc, một cam kết cả đời, một quyết định không thể vội vã. Anh cố gắng tiếp cận vấn đề này một cách hợp lý, nhưng như một gã trai trẻ ngốc nghếch và quẫn trí vì ham muốn từ thời nguyên thủy – một câu lạc bộ mà anh chưa từng tưởng tượng là mình thuộc về – tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là sự náo nức của cô Rowland trong đêm tân hôn của họ.
Cô có thể là người đến phòng của anh, hơn là theo cách bình thường. Cô sẽ cho phép anh để tất cả những ngọn đèn sáng để anh có thể chiêm ngưỡng cô bằng mắt cho đến khi thỏa mãn. Cô sẽ mở rộng chân, sau đó cuốn chặt quanh anh. Và anh thậm chí có thể bảo cô nhìn những gì anh làm với cô, để anh có thể quan sát đôi má ửng đỏ, đôi mắt mơ màng vì ham muốn của cô, và lắng nghe những tiếng rên rỉ, thút thít vì khoái lạc của cô.
Chúa ơi, anh muốn làm tình với cô trong nhiều ngày liền.
Sau một đêm đấu tranh nội tâm, với nhiều mơ mộng viển vông khêu gợi và rất ít lý trí, Camden đi đến một quyết định là sẽ để dành sự lựa chọn cho số phận. Nếu cô Rowland ở bên bờ suối vào ngày hôm sau, anh sẽ cầu hôn cô trong tuần này. Nếu không, anh sẽ lấy đó làm một tín hiệu rằng anh nên chờ đợi cho đến khi kết thúc kỳ học tiếp theo để có thời gian phát triển tình cảm nghiêm túc hơn.
Cả ngày anh ở bên bờ suối, đi đi lại lại, làm tất cả mọi thứ ngoại trừ trèo lên những cái cây trơ trụi ở đó. Nhưng cô không đến, cả buổi sáng, cả buổi chiều, và đến khi bầu trời chuyển thành màu xanh đen. Và đó là lúc anh nhận ra anh đã đi xa đến đâu. Không những vô cùng thất vọng và buồn bã với số phận của mình, anh còn quyết định rằng số phận có thể chìm nghỉm xuống hố phân đi cho rồi.
Anh quay ngựa về nhà và ra lệnh cho một cỗ xe độc mã sẵn sàng ngay lập tức.
Người đầy tớ ngần ngại và dò hỏi nhìn Gigi. Đĩa của cô gần như vẫn đầy. Cô đẩy nó sang một bên. Chiếc đĩa biến mất và được thay thể bởi một đĩa khác, một đĩa mứt lê.
“Gigi, con không ăn gì cả”, bà Rowland nói trong lúc cầm đĩa lên, “Mẹ tưởng là con thích thịt nai”.
Gigi cầm đĩa lên và xiên một miếng lê ngập trong nước xi-rô trong. Cô đã biểu hiện quá rõ là đang chìm sâu vào nỗi ưu tư của mình. Mẹ cô chưa bao giờ lo lắng vì cô ăn quá ít. Mà gần như ngược lại. Bà Rowland sợ rằng sự thèm ăn của Gigi thường quá đà, và những chiếc áo nịt của cô không buộc chặt đủ để cô có được một vòng eo xinh xắn như eo con ong.
Cô nhìn chằm chằm vào đĩa của mình và không thể hoàn thành nhiệm vụ đơn giản là đưa nó vào miệng. Bụng cô sôi lên. Cô không tin rằng nó có thể đối phó được với một miếng hoa quả ngâm đường.
Cô đặt đĩa xuống, “Tối nay con không đói”.
Chỉ thấy khiếp sợ.
Điều cô đã làm là bất lương theo mọi cách, và rất có thể là phạm tội. Tệ hơn, cô không chỉ gây ra một sai lầm, cô còn tạo ra một đống hỗn loạn phi pháp. Cô đã quá nóng vội, phương pháp của cô quá độc ác. Bất cứ một tên ngốc nào cũng có thể nhận ra dấu vết phạm tội và đánh hơi theo dấu vết đó đến tận cửa nhà cô.
Ngài Tremaine sẽ làm gì nếu anh tìm ra? Và anh sẽ nghĩ gì về cô?
Một tên đầy tớ bước vào phòng ăn tối và nói nhỏ vài lời với Hollies, tên quản gia của họ. Sau đó Hollies tiến đến gần bà Rowland, “Thưa bà, ngài Tremaine đang ở đây. Tôi có nên đề nghị ngài ấy đợi cho đến khi bữa tối kết thúc không?”
Thật tốt là Gigi đã thôi giả vờ ăn uống, không thì cô đã đánh rơi mọi thứ trong tay mình.
Bà Rowland đứng lên, rạng ngời vì vui sướng, “Tuyệt nhiên không. Chúng ta sẽ đón tiếp ngài ấy ngay bây giờ. Đi nào, Gigi. Mẹ nghi ngờ rằng ngài Tremaine không đi từng ấy đoạn đường chỉ để đến gặp mẹ”.
Cô không có lựa chọn nào khác là đi theo mẹ, uể oải, nhăn nhó, như một người lính đi bộ chia sẻ rất ít lạc quan với tướng quân của mình về chiến thắng và chiến lợi phẩm, mà chỉ nhìn thấy con đường máu phía trước.
Anh đang ở đây, đứng giữa phòng khách – tượng trưng cho những khao khát của cô, phương tiện của sự suy đồi của cô, thế hệ trẻ của dòng máu quý tộc cao quý, người có thể làm việc như một người giữ ngựa và điều khiển một trò chơi hơi chút mờ ám về xác suất.
“Ngài Tremaine”, bà Rowland vồn vập, “Thật vui mừng được gặp ngài, như mọi khi. Điều gì mang ngài đến nơi ở khiêm tốn của chúng tôi vào giờ giấc không bình thường như thế này?”
“Bà Rowland. Cô Rowland”. Có phải anh liếc nhìn cô? Đó là tia chớp mãnh liệt của ham muốn hay thất vọng? “Tôi thực sự xin lỗi vì đã xâm phạm buổi tối của hai người”.
“Vớ vẩn”, bà Rowland vui vẻ nói, “Ngài biết ngài luôn được chào đón ở đây, bất cứ lúc nào. Giờ hãy trả lời câu hỏi của tôi. Sự tò mò đang giết tôi đây này”.
“Tôi đến đây để có một lời riêng tư với cô Rowland”, ngài Tremaine trả lời, với sự thẳng thắn gây sửng sốt, “Tất nhiên với sự cho phép của bà, thưa bà Rowland”.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Gigi cảm thấy choáng váng mà không trải qua một chấn động nào trước. Anh đến đây để vạch mặt cô hay cầu hôn cô? Đó là điều không thể nghĩ đến nếu là vài ngày trước đây, nhưng cô nhiệt thành hy vọng nó là cái trước. Anh sẽ trừng trị cô vì cô là loại cặn bã. Cô sẽ quỳ gối để cầu xin anh tha thứ. Sau đó anh sẽ bỏ đi và cô sẽ khóa mình trong phòng, đập đầu vào tường cho đến khi bức tường cho cô sự tha thứ đó.
“Chắc chắn rồi”, bà Rowland tán thành với sự kiềm chế đáng nể.
Bà rút lui khỏi phòng và đóng cửa lại. Gigi không dám nhìn vào anh. Cô chắc chắn rằng nếu làm thế cô sẽ để lộ tội lỗi của mình.
Anh kéo cô lại gần, “Rowland, em sẽ lấy anh chứ?”
Còn hơn cả những lời khủng khiếp nhất cô từng nghe. Cô ngẩng phắt đầu lên. Mắt cô gặp mắt anh, “Ba ngày trước anh đã quyết tâm lấy một người khác”.
“Hôm nay anh quyết tâm lấy em”.
“Điều gì xảy ra trong thời gian đó làm anh thay đổi suy nghĩ đột ngột như vậy?”
“Anh nhận được một lá thư từ cô Von Schweppenburg. Cô ấy đã kết hôn với Hoàng tử của Hoàng gia Lobomirski”.
Không, không phải thế. Gigi đã nhặt cái tên đó ra từ một cuốn sách về giới quý tộc châu Âu mà cô tìm thấy trong bộ sưu tập của mẹ cô. Cô nghiên cứu lời nhắn của cô Von Schweppenburg, sau đó soạn lá thư dối trá của mình, thận trọng kết hợp lời xin lỗi nửa vời của cô Von Schweppenburg với sự tiếc nuối bất lực. Sau đó cô cầm đến cho người làm vườn của Briarmeadow, một ông già đã từng làm nghề giả mạo chữ ký khi còn trẻ và là người quan tâm đến cô với sự thương mến nuông chiều của một người ông.
“Tôi hiểu”, cô yếu ớt nói. “Vậy là anh đã quyết định trở nên thực tế”.
“Anh nghĩ em có thể nói phần nào quyết định của anh bị thúc đẩy bởi chủ nghĩa thực dụng”, anh lặng lẽ nói, trong khi bước đến rất gần và cô có thể ngửi thấy mùi hương mát lạnh của mùa đông vẫn còn lưu lại trên áo khoác của anh, “mặc dù trong cả cuộc đời mình, anh không hề làm việc gì với một lý do như vậy”.
Anh nâng cằm cô lên và hôn cô.
Cô đã hôn đàn ông trước đây – rất nhiều lần – khi cô buồn chán ở những buổi khiêu vũ hay tức tối với những lời phê bình của mẹ cô. Cô coi hành động đó là kỳ lạ hơn là thích thú và thỉnh thoảng cô quan sát người đàn ông cô hôn với đôi mắt mở to và tính toán kích cỡ những khoản nợ của anh ta.
Nhưng từ giây phút môi ngài Tremaine chạm vào môi cô, cô đã bị chiếm hữu, như một đứa trẻ lần đầu tiên được nếm một miếng đường, bị khuất phục bởi hương vị ngọt ngào của nó. Nụ hôn của anh nhẹ như bánh trứng đường, dịu dàng như những nốt nhạc dạo đầu của bản Sô-nát Ánh trăng, và mát lành như một cơn mưa đầu tiên của mùa xuân sau đợt hạn hán của mùa đông vô tận.
Quay cuồng và kinh ngạc, cô chìm vào nụ hôn. Cho đến khi chỉ đơn giản được anh hôn là không đủ nữa. Cô ôm mặt anh và hôn lại anh với điều gì đó vượt xa cả sự nhiệt tình, điều gì đó gần với tuyệt vọng, rung động và cuồng nhiệt.
Cô nghe tiếng rên tắc nghẹn trong thanh quản anh, cảm thấy sự thay đổi trong cơ thể báo hiệu sự khuấy động của anh. Anh chấm dứt nụ hôn, đẩy cô cách ra một cánh tay và nhìn chằm chằm vào cô, hơi thở của anh nặng nề và khó nhọc.
“Chúa tôi, nếu không phải mẹ em ở bên kia cánh cửa…”. Anh nháy mắt, và nháy mắt lần nữa, “Đó có phải là một câu trả lời đồng ý?”
Vẫn chưa quá muộn. Cô vẫn có thể lựa chọn cách cao quý hơn, thú nhận mọi việc, xin lỗi và giữ lòng tự trọng của mình.
Và mất anh. Nếu anh biết sự thật, anh sẽ khinh bỉ cô. Cô không thể đối mặt với cơn giận của anh. Hay sự khinh miệt của anh. Không thể sống thiếu anh.
Không thể. Không thể.
Cô vòng tay quanh eo và tựa má lên vai anh:
“Vâng”.
Niềm vui cô cảm thấy trong vòng ôm nồng nàn của anh bị thủng lỗ chỗ vì sự kinh hãi. Nhưng cô đã lựa chọn. Cô sẽ có anh, cho dù tốt hơn hay xấu hơn. Cô sẽ giữ anh trong bóng tối, lâu hết mức có thể.
Và khi họ kết hôn, cô sẽ ngắm nhìn anh khi anh ngủ, kinh ngạc với điều may mắn vĩ đại của mình và phớt lờ sự xâm lấn thường xuyên của nỗi sợ hãi đang hủy hoại tâm hồn cô.
Camden không tưởng tượng nổi anh lại có thể hạnh phúc đến như vậy. Anh không phải kiểu người cảm nhận niềm vui không thể kiềm chế từ nhịp đập rộn ràng của vũ trụ hay những thứ vô nghĩa như vậy. Anh chưa bao giờ lăn khỏi giường mà muốn hít thở thật sâu cuộc sống như nó vốn có – một chàng trai nghèo có ý chí nhưng có cha mẹ cần phụng dưỡng và những đứa em cần nuôi nấng không có thời gian cho những thứ xa xỉ ngớ ngẩn như vậy.
Nhưng có cô bên cạnh, anh trở nên đầy sức sống. Cô sở hữu những tài sản kỳ diệu, mạnh mẽ, nồng nàn như bã lúa mạch của loại vốt-ka tuyệt hảo nhất và làm anh luôn ở trong trạng thái lâng lâng say sưa, ở điểm cân bằng khó nắm bắt nơi mà vạn vật của thiên đường xếp thành một đường thẳng thanh nhã và một con người tầm thường có thể cất cánh bay.
Trong suốt ba tuần đính hôn của họ, anh đến thăm cô thường xuyên. Anh cưỡi ngựa đến Briarmeadow hầu hết các ngày, cả sáng và chiều, chấp nhận lời mời ở lại uống trà và ăn tối của mẹ cô mà không một chút phản đối chiếu lệ rằng anh không nên lạm dụng lòng tốt của chủ nhà quá nhiều.
Anh thích nói chuyện với Gigi. Cách nhìn thế giới của cô cũng hằn học và thực tế như anh. Họ đồng ý rằng, lúc này, không ai trong họ trở nên đáng giá hơn vì bất kể điều gì, anh không có giá trị nhiều hơn vì dòng dõi, cũng như cô với tài sản thừa kế hàng triệu bảng của mình.
Một người cay độc đến thâm căn cố đế như cô giờ đây lại dễ dàng trở nên vui sướng như một con chó con. Một bó hoa không tương xứng anh thu lượm trong khu nhà kính xác xơ của Twelve Pillars cũng mang đến cho cô những phản ứng phấn khích. Có lẽ chuyến trở về Rome của Julius Caesar sau khi chinh phục thành công Gaul cũng không thể rộn ràng nồng nhiệt hơn thế. Chiếc nhẫn đính hôn khá khiêm tốn anh mua cho cô, với số tiền anh đã tiết kiệm dành cho chuyến đi Mỹ và xưởng làm việc đầu tiên mà anh định mô phỏng theo mô hình của ngài Benz, cũng gần như khiến cô trào nước mắt.
Một ngày trước đám cưới của họ, anh đánh xe đến nhà cô và nhắn cô gặp anh ở trước cửa. Không có chiếc áo choàng xanh tối tăm, cô xuất hiện như một cột lửa, trong chiếc áo ngoài màu đỏ dâu tây rực rỡ, đôi má hồng và đôi môi màu rượu vang đồng điệu.
Anh cười toe toét, đến giờ anh vẫn luôn như thế khi gặp cô. Anh là một con lừa, chắc chắn rồi, nhưng là một con lừa hạnh phúc, “Anh có thứ này cho em”, anh nói.
Cô cười ngặt nghẽo khi mở cái gói nhỏ để lộ một cái bánh bao nhân thịt lợn vẫn còn ấm, “Giờ em thực sự đã nhìn thấy mọi thứ. Em đoán rằng anh đã cướp phá từng bông hoa cuối cùng trong nhà kính của mình kể từ ngày hôm qua, đúng không?”
Cô liếc nhìn quanh họ với vẻ tinh quái, ra hiệu cho anh rằng cô chuẩn bị tiến tới và hôn anh, bãi cỏ thiên nhiên trống trải trước nhà của cô thật đáng nguyền rủa. Anh chặn cô lại, giữ lấy cánh tay cô để cô không thể tiến gần hơn.
“Anh có thứ khác nữa cho em”.
“Em biết anh có gì cho em”, cô chanh chua nói, “Anh không để em chạm vào nó ngày hôm qua”.
“Em có thể chạm vào nó hôm nay”, anh thì thầm.
“Cái gì?!”. Dù sao đi nữa, cô vẫn là một cô gái trong trắng, “Ở ngoài này, nơi mọi người có thể nhìn thấy chúng ta sao?”
“À, ừ”, Anh cười lớn trước vẻ sững sờ, thích thú pha lẫn xấu hổ của cô.
“Không được đâu!”
“Được rồi, vậy anh sẽ lấy con chó con và về nhà”.
“Một con chó con ư?”, cô thét lên, đúng như một cô gái mười chín tuổi,
“Một con chó con! Nó ở đâu? Nó ở đâu?”
Anh nâng chiếc giỏ ra khỏi cỗ xe, nhưng anh liền giằng nó xa khỏi bàn tay nóng vội của cô ngay khi cô chạm vào nó, “Anh hiểu là em không muốn chạm vào nó ở nơi công cộng”.
Cô túm lấy phần cuối của cái giỏ, “Ồ, đưa nó cho em, đưa nó cho em! Làm ơn… Em sẽ làm bất cứ điều gì”.
Anh phá lên cười và đưa nó cho cô. Cô luống cuống mở nắp giỏ. Một cái đầu nâu-và-trắng của một con chó con giống Corgi ló ra, sau cổ là một cái nơ màu xanh buộc hơi lệch một bên làm từ sợi ruy băng Camden đã chôm của Claudia.
Gigi thét lên lần nữa và nhấc con chó ra. Nó nhìn cô với đôi mắt thông minh và nghiêm trang. Nó không hào hứng lắm với cuộc gặp mặt như cô, nhưng dù sao cũng vui vẻ và ngoan ngoãn.
“Nó là con đực hay con cái?”, cô hụt hơi hỏi, đút cho nó mấy miếng bánh bao nhân thịt. “Nó bao nhiêu tuổi rồi? Nó có tên chưa?”
Camden liếc mắt vào hòn tinh hoàn khá lộ liễu của con chó con. Có lẽ cô cũng không hiểu biết như anh nghĩ. “Nó là một con chó đực. Mười tuần tuổi. Và anh quyết định gọi nó là Croesus (*) để vinh danh em”.
(*) Croesus: Nhà triệu phú.
“Croesus, cưng”. Cô chạm má vào mũi con chó, “Tao sẽ mua cho mày một cái bát uống nước mạ vàng to đùng, Croesus ạ. Và chúng ta sẽ là bạn thân nhất cho đến mãi mãi về sau”.
Cuối cùng cô nhìn Camden, “Nhưng làm sao anh biết em luôn muốn có một con chó con?”
“Mẹ em nói với anh. Bà nói bà thích mèo hơn và em luôn ao ước có một con chó”.
“Khi nào?”
“Ngày chúng ta gặp nhau lần đầu tiên. Sau bữa tối. Em có ở đó. Em không nhớ à?”
Cô lắc đầu, “Không, em không nhớ”.
“Không nghi ngờ gì là em quá bận rộn chiêm ngưỡng anh”.
Bàn tay cô lướt lên miệng, nhưng sau đó một nụ cười chầm chậm lướt trên mặt cô, “Anh đã chú ý à?”
Anh muốn nói cho cô biết rằng ngay cả trong buổi khiêu vũ khôi hài đáng nhớ ở St. Petersburg khi mà cả bà chủ và ông chủ tiệc đều nỗ lực quyến rũ anh cũng không làm anh liếc mắt nhiều như vậy, “Anh đã chú ý”.
“Ôi, trời”. Cô vùi mặt vào cổ con chó. Cô đỏ mặt và, Chúa giúp anh, anh đã cương cứng với kích thước của Bedfordshire.
“Cám ơn”, cô nói, giọng nghẹn lại, “Nó là món quà tuyệt nhất mà em từng được tặng”.
Anh cảm động và khiêm tốn nói, “Anh hạnh phúc khi thấy em hạnh phúc”.
“Cho đến ngày mai, nhỉ?”, Cô nghiêng người và hôn anh, một nụ hôn ngọt ngào và kéo dài. “Em không thể đợi nữa”.
“Đó sẽ là hai tư tiếng đồng hồ dài nhất của cuộc đời anh”, anh nói và hôn vào chóp mũi cô. Một sự bất tận”.
Hai tư giờ đồng hồ tiếp theo đã trở nên chính xác như vậy: một sự bất tận, một sự bất tận của địa ngục.