Qua sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp xúc với phái đoàn. Ram Gopal có một thân thể cực kỳ tráng kiện trông như một lực sĩ, bước đi của ông vững chắc và uyển chuyển như một mãnh hổ. Giọng nói của ông hùng tráng như một tiếng cồng. Hàng ngày, ông dành riêng một thời gian để tiếp xúc với bệnh nhân. Ông yêu cầu phái đoàn ngồi đó xem ông trị bệnh. Bệnh nhân gồm đủ hạng người, từ các bậc thượng lưu, quý phái ngồi trên kiệu đến các loại bình dân nghèo đói, lê lết. Họ mang đủ thứ bệnh từ các loại bất trị như ung thư, cùi hủi đến các chứng đau tim, phong thấp, tiểu đường v.v…
Một bệnh nhân ăn mặc sang trọng, khuôn mặt tái nhợt cho biết y là một phú ông giàu có tại Madras bị đau tim đã đến thời kỳ trầm trọng. Bác sĩ cho biết nếu lên cơn một lần nữa chắc chắn y không thể sống.
Ram Gopal yên lặng nghe bệnh nhân kể lể rồi cho biết:
“Hơi thở của ông bị đứt quảng nhiều, tôi nghĩ cơn đau tim sẽ tái phát trong một thời gian không lâu nữa.”
Bệnh nhân xanh mặt quỳ mọp xin cứu mạng. Ram Gopal thong thả cho biết:
“Ông có thể sống thêm nhiều năm nữa nếu chịu khó điều trị. Chắc hẳn ông đã biết cách trị bệnh của tôi?”
Bệnh nhân im lặng suy nghĩ. Ram Gopal giải thích cho phái đoàn:
“Bệnh tật là kết quả của những gì trái với thiên nhiên. Sống thuận theo thiên nhiên không thể có bệnh. Con người bẩm sinh đều khỏe mạnh, họ mắc bệnh vì các thói quen, các lối sống không hợp tự nhiên rồi theo thời gian tiêm nhiễm vào cơ thể làm suy nhược. Khi bệnh mới phát ra, con người ỷ lại vào thuốc men các phát minh khoa học. Tiếc thay, lối này chỉ có thể tạm thời cầm giữ bệnh tật cho nó không phát lên chứ không trừ tuyệt căn. Y khoa Tây Phương chỉ ngăn chặn bệnh tật không làm nguy đến tính mạng được một thời gian rồi sau đó cũng bó tay.
Muốn trừ bệnh hoàn toàn chỉ có một cách duy nhất là cương quyết trừ tuyệt gốc và người duy nhất có thể chữa được là “chính mình” mà thôi, ngoài ra không có ai khác. Một khi bệnh nhân ý thức được điều này, nhất định theo đuổi cách trị đến cùng thì hầu như bệnh gì cũng có thể chữa khỏi.
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
“Xin ông giải thích rõ ràng hơn nữa.”
“Cách chữa cũng rất giản dị, việc đầu tiên bệnh nhân phải làm là quyết định xem có theo phương pháp này được không? Nếu nhất quyết thì y lập tức từ bỏ tức khắc tất cả gia tài, sự nghiệp, hoàn cảnh gia đình bên ngoài để gia nhập đạo viện cho đến khi hết bệnh.”
“Ông muốn nói y phải trở nên một tu sĩ hay sao?”
Ram Gopal bật cười:
“Không phải thế, đây không phải là một đạo viện có tính cách tôn giáo. Tôi không bao giờ bắt buộc ai phải học giáo lý, tin tưởng một giáo điều, nghi thức hay sùng kính một đấng vô hình nào hết. Ðạo viện (Ashram) này chỉ có mục đích chữa bệnh. Ðiều tôi muốn thực hiện là để bệnh nhân phải rời bỏ cái nếp sống cũ, cái hoàn cảnh, nguyên nhân đã khiến y mắc phải căn bệnh đó. Lo nghĩ, phiền não, dinh dưỡng không đúng cách là nguyên nhân chính của hầu hết các thứ bệnh. Phải dẹp bỏ, dứt sạch tất cả cho tâm hồn thật thảnh thơi, thoải mái rồi mới có thể chữa trị được. Ðó là điều kiện quan trọng nhất của phương pháp này.”
“Nhưng việc gì phải từ bỏ tất cả, đi dưỡng bệnh một nơi xa cũng có hiệu quả tương tự vậy.”
Ram Gopal bật cười:
“Ðiều này không thể chữa tận gốc được, hoàn cảnh tuy có khác nhưng đầu óc bệnh nhân vẫn còn cố chấp, suy nghĩ, lo lắng thì làm sao dứt được phiền não? Chỉ có hoàn toàn dứt bỏ, để đầu óc không còn bận tâm một chút gì nữa, để trở nên một con người hoàn toàn mới thì may ra mới có thể chữa hết bệnh được.”
“Từ bỏ gia tài, nhà cửa, gia đình đâu phải dễ dàng, mấy ai đã làm được như thế? Nói thì thật giản dị nhưng nó là cả một vấn đề…”
“Này ông bạn, nếu chết ông có mang mấy thứ đó đi theo được không? Ông cứ việc ôm chặt lấy những thứ giả tạo vật chất rồi để đau đớn dầy vò và cái chết quanh quẩn ám ảnh chăng? Trước sau cũng mất nó thì thà bỏ quách đi có hơn không? Cách chữa này có thể coi như ta dã chết rồi, đã mất tất cả rồi và đi tìm cái sống trong cái chết. Nguyên lý của bệnh tật như sau: con người chìm dắm trong danh lợi, lo quanh nghĩ quẩn, tích trữ tài sản mà quên sự vô thường ở đời. Họ chỉ thấy lợi nhỏ mà quên hại lớn. Lo làm giàu vật chất mà quên tu dưỡng tinh thần vì thế thân thể suy đồi, tâm trí đảo điên, thần trí bất nhất lại thêm tửu sắc quá độ, hỉ nộ bất thường, dinh dưỡng coi thường, bệnh tật do đó sinh ra.
Khi bệnh còn nhẹ, ta không để ý chữa trị đến khi nó phát ra đe dọa trực tiếp vào đời sống, ta mới hoảng hốt tin tưởng vào các phát minh khoa học chữa trị. Thuốc men chỉ tạm thời ngăn chặn khiến cho bệnh chậm tái phát, kéo dài thêm cuộc sống để ta tiếp tục đắm chìm trong dục vọng, phiền toái một thời gian nữa. Ðến khi thuốc men trở nên vô hiệu, bệnh tái phát thật mạnh thì khoa học bó tay và con người chấp nhận sự phải đến sẽ đến và coi như đó là số mạng. Ðây là một lầm lẫn rất lớn mà ít ai để ý. Nguyên chính các bệnh là do sự bận rộn với đời sống hàng ngày, nếp sống càng tiện nghi thì họ lại càng hết sức lao tâm, lao lực để đạt đến cái tiện nghi hơn nữa. Thêm vào lòng tham lam muốn chiếm đoạt, đua tranh để thỏa mãn cái dục vọng nhất thời khiến cơ thể trở nên mất quân bình, phá hoại cơ quan thần kinh. Cơ quan nầy là đầu mối của mọi thứ bệnh nên theo thời gian, bệnh từ từ ngấm vào tạng phủ khiến con người càng ngày càng lệch lạc, sống ngược với thiên nhiên, mất đi sự an lạc sẵn có, nói một cách khác họ mất đi chính mình.
Sự xả ly, dứt bỏ tất cả là bước đầu để trở lại cái tinh thần nguyên thủy, nó là điều kiện cần thiết để dứt căn bệnh trầm kha của loài người. Có thế đầu óc mới lấy lại sự thăng bằng để họ có thể điều trị…”
“Nhưng bệnh tật có nhiều nguyên nhân chứ, ông nghĩ sao về các bệnh do vi trùng gây ra?”
Ram Gopal lắc đầu:
“Trong người khỏe mạnh, vi trùng xâm nhập thế nào được? Người sống theo thiên nhiên không thể có bệnh. Vi trùng thì chỗ nào chả có nhưng đâu phải ai cũng mắc bệnh như nhau. Nếu vi trùng là nguyên nhân chính thì tại sao có kẻ mắc bệnh và có người lại không mắc bệnh? Ngay cả những lúc có bệnh thời khí khiến hàng trăm, hàng ngàn người lăn ra chết nhưng vẫn có những kẻ sống sót đấy chứ, tóm lại, thân thể khỏe mạnh có thể chống mọi thứ bệnh.”
Ngay lúc đó bệnh nhân ngửng mặt nói vài câu, Ram Gopal lắc đầu và quay sang phái đoàn cho biết:
“Bệnh nhân này muốn trở về nhà thu xếp công việc khoảng vài tháng đến một năm rồi sau đó mới đến đây chữa bệnh. Lúc này đang là mùa dệt sợi mà y lại là chủ nhân nhiều hãng dệt. Tôi cho y biết không chịu chữa trị y khó lòng sống qua một tháng nữa.”
Giáo sư Allen kêu lên:
“Nhưng nếu bắt từ bỏ tất cả ngay thì làm sao y có thể thu xếp kịp?”
“Chữa bệnh không phải việc đi chơi. Tôi quan sát thần sắc bệnh nhân rất kỹ và thấy y khó sống lắm rồi. Nếu y mê muội trở về lo thu xếp công việc thì đầu óc đã lệch lạc lại càng lo âu thêm, thế nào cũng lên cơn đau tim mà chết. Như các ông thấy điều kiện tiên quyết để chữa bệnh là trị tận gốc và đây là giây phút quyết định sự sống chết. Chỉ có y mới tự chữa lấy cho mình mà thôi. Con người phải hiểu biết để đoạn tuyệt với quá khứ, không thể có lối chữa trị lưng chừng kéo dài thời gian được. Thật ra khoa học đã làm việc này, kéo dài thêm thời gian rồi bó tay. Ðây không phải là lối chữa của tôi.”
Bệnh nhân đắn đo suy nghĩ một lúc, y ngập ngừng nói vài câu rồi đứng lên bước vội ra khỏi cửa không dám nhìn ai. Giây phút quyết định đã trôi qua, Ram Gopal thở dài rồi gọi một bệnh nhân khác vào. Sau buổi khám bệnh, chỉ có một số chấp nhận theo lối chữa lạ lùng này và được các đệ tử của đạo sĩ đưa vào đạo viện.
Ram Gopal cho phái đoàn biết bệnh nhân chỉ được mang theo một bộ quần áo và tuyệt đối không được tiếp xúc với ai trong thời gian điều trị. Dĩ nhiên, khi hoàn tất việc chữa trị, y có thể rời nơi này theo ý muốn. Một số người sau khi vào đây không từ bỏ việc đời lại bỏ ra về và số này không phải ít.
Giáo sư Allen thắc mắc:
“Nhưng sau khi vào đây họ sẽ phải làm gì? Ông chữa trị ra sao?”
“Như các ông đã biết, yếu tố đầu tiên là cương quyết chữa bệnh cho đến khi tuyệt căn mới thôi. Yếu tố này đòi hỏi việc xả ly, dứt bỏ tất cả mọi sự. Yếu tố thứ hai là tự mình chữa trị lấy cho mình vì không ai có thể chữa bệnh cho ai cả. Yếu tố này đòi hỏi việc làm chủ các cảm giác của mình để chữa bệnh. Tại đây, bệnh nhân ăn rất ít, thời gian đầu y chỉ uống nước suối và ăn cơm nhạt thôi. Phương pháp này nhằm việc tẩy uế các chất độc trong cơ thể. Một lý do quan trọng gây nên nhiều chứng bệnh là sự ăn uống bừa bãi, không tiết độ. Ðể giúp cơ thể loại bỏ các độc tố đã nhiễm từ lâu, bệnh nhân chỉ ăn thật nhạt nghĩa là không một chút gia vị, đường hay muối nào (Ghi chú: Người Ấn ăn rất nhiều gia vị và rất mặn). Mỗi ngày, bệnh nhân chỉ ăn một lần trước buổi trưa và uống nước vài lần thôi. Uống ít nước giúp cho tim đập chậm lại vì dung lượng nước qua tim sẽ ít đi. Tim và thận được nghĩ ngơi sẽ giúp cơ thể lấy lại quân bình mau chóng, đây là hai cơ quan thiết yếu giữ các vai trò quan trọng cho việc phục hồi sức khỏe. Ăn nhạt khiến gan và dạ dày thải bỏ các độc tố tích tụ trong đó, cứ thế trong khoảng hai tuần lễ là đa số độc tố đã bị khu trục cả. Nếu muốn các ông cứ thử ăn nhạt ít tuần lễ là thấy cơ thể đổi khác ngay.
Ngoài việc dưỡng sinh đúng cách, bệnh nhân dành trọn thời giờ tập Yoga để lấy lại quân bình cho cơ quan thần kinh, khối óc. Tư thế đầu phải tập là cách ngồi cho ngay ngắn, lưng thật thẳng để luồng hỏa hầu di chuyển không gặp khó khăn. Hai tay buông thõng trên đầu gối và thở thật tự nhiên không cố gắng thái quá. Trong khi tập tư thế này, không để tâm xáo động, lo nghĩ việc gì, phải “vô cầu, vô niệm” mới là đúng cách. Không sử dụng thần chú hay xin xỏ một đấng thần linh gì mà chỉ cần hết sức tự nhiên, theo thời gian bệnh sẽ từ từ thuyên giảm.”
Giáo sư Mortimer thốt lên:
“Chỉ có thế thôi ư? Như vậy giản dị quá có khó gì đâu?”
Ram Gopal thản nhiên:
“Dĩ nhiên, nhưng phải làm thật chuyên cần không gián đoạn trong suốt thời gian tại đây cho đến khi khỏi bệnh.”
Mọi người nhìn nhau, họ nghĩ đạo sĩ này phải có một phương pháp gì ghê gớm hoặc sử dụng thuốc men gì đó để chữa trị chứ phương pháp ông nói thật tầm thường và có vẻ hoang đường khó tin.
Ram Gopal hiểu ý:
“Khi trở về với chính mình, với con người nguyên thủy, hòa hợp với thiên nhiên thì bệnh tật và sức khỏe chỉ là những gì tương đối, không còn tranh chấp nữa. Con người thật của ta vốn sẵn có kia mà việc gì phải gò bó, khó khăn mới tìm được. Khi dứt bỏ tất cả, ta trút được một gánh nặng ở tâm hồn. Khi ăn uống đúng cách, ta loại bỏ yếu tố gây nên bệnh tật và cách tập yoga giúp ta lấy lại quân bình nguyên thủy, trở về với con người thật của mình như thế là “tự mình chữa cho mình” không ỷ lại vào một tha lực hay một yếu tố bên ngoài nào hết.”
“Nhưng ngoài ra còn phải uống thuốc men gì nữa chứ?”
Ram Gopal lắc đầu:
“Phương pháp này không sử dụng thuốc men gì cả, đó là một phương pháp hết sức tự nhiên và khoa học. Dĩ nhiên, nếu ông chở đến một người bệnh sắp chết hay một kẻ gẫy chân, gẫy tay thì tôi không thể chữa như thế được. Nói khác đi nếu một kẻ mắc bệnh thời khí hay các bệnh thông thường thì họ đã đi kiếm các bác sĩ chữa trị chứ việc gì phải đến đây? Hầu hết các bệnh nhân đến tận rừng hoang núi thẳm này chỉ là những kẻ đã tuyệt vọng hoặc gặp các chứng nan y mà y sĩ đã bó tay. Các ông nên biết cơ thể con người có khả năng làm hồi phục rất mầu nhiệm. Sở dĩ cơ thể suy yếu, bệnh hoạn vì họ sống không tự nhiên có thế thôi. Sống tự nhiên không những giúp thể xác kháng kiện mà còn mục đích tối hậu đó là sự dẹp bỏ cái “phàm ngã” trở về cái “chân ngã” của mình. Khi từ bỏ được bản ngã thấp hèn thì ta ung dung, tự tại, thảnh thơi, tiêu diêu cùng trời đất, thiên nhiên còn lo lắng chi nữa? Trên lý thuyết thì thật dễ dàng nhưng thực hành lại là cả một vấn đề. Con người quen sống bừa bãi, nô lệ dục vọng, xác thân quá lâu, đến nổi sinh bệnh rồi, muốn cởi bỏ tất cả đâu có dễ. Quen ăn ngon, mặc đẹp bây giờ ăn vài nắm cơm nhạt, uống vài gáo nước suối đâu phải ai cũng làm được ngay lập tức. Khốn nỗi muốn trừ tận gốc phải uống thuốc đắng và thuốc đắng chính là lối sống tự nhiên này.”
“Nhưng đã có những bằng chứng gì về phương pháp này? Làm sao biết được nhờ thực hành như vậy mà bệnh nhân khỏi bệnh, kéo dài đời sống?”
Ram Gopal không tỏ vẻ giận dữ về câu nói bất kính:
“Tôi có hơn ba ngàn môn đệ, tất cả đều là người mắc bệnh nan y sống tại đây. Ða số đã bị các bệnh viện từ chối vì không chữa được nữa. Họ vẫn sống nhiều năm nay, hàng ngày cả trăm người đến xin gia nhập đạo viện và chỉ một thiểu số cương quyết mới được chấp nhận. Ðã thế, nhiều người không qua kỳ thử thách cũng bỏ đi rất nhiều nhưng trong số những người ở lại, tất cả đều hết bệnh, tuyệt căn. Các ông nên nhớ tôi không nhận một thù lao hay đòi hỏi một ân huệ gì, tôi cũng không tự xưng một danh vọng, chức tước nào hết. Ðời sống ở đây hoàn toàn tự túc và kẻ khỏe mạnh phải lo trồng tỉa, gặt hái thực phẩm. Quy luật đạo viện không nhận tặng vật dù bất cứ thứ gì, nhiều kẻ tỏ ý muốn dâng tài sản, sự nhgiệp khi đến đây với hy vọng sẽ được đối xử đặc biệt. Tôi yêu cầu một khi đã dứt bỏ tất cả thì hãy bố thí cho gười nghèo hoặc để lại cho con cháu, thân nhân rồi đến đây với bộ quần áo trên người. Dù bệnh nhân là Tiểu Vương hay kẻ hành khất tôi cũng coi như nhau, mục đích của họ là chữa bệnh và chỉ có họ mới có thể chữa cho mình. Ðạo viện thành lập ra chỉ để thực hành việc chữa bệnh mà thôi chứ không phải một nơi giam cầm hay có tính cách tôn giáo. Muốn gia nhập phải tuân theo các điều kiện nhưng muốn rời đây thì tùy ý, không hề có sự ngăn cản.”
“Nhưng ông có dạy các phương pháp yoga?”
“Ðúng thế, nhưng Yoga là một khoa học, không phải tôn giáo như nhiều người đã hiểu lầm. Ngoài ra tôi chủ trương một lối tu thân cho những người muốn vào cửa đạo nhưng đây cũng không phải là một tôn giáo.”
“Xin ông vui lòng giải thích phương pháp tu hành này.”
Ram Gopal mỉm cười:
” Như các ông thấy, phương pháp dưỡng sinh và tập Yoga có thể giúp con người vượt qua các bệnh tật. Cũng như thế, phương pháp tu thân sẽ giúp con người vượt qua các trở ngại để tiến vào cửa đạo. Có rất nhiều phương pháp tu hành tùy theo quan niện cá nhân, hoàn cảnh xã hội chung quanh, tôn giáo… nhưng tất cả đều nhằm một mục đích chung là giải thoát. Tôi không quan niệm một phương pháp nào mà để mỗi cá nhân tùy theo sở thích lựa chọn. Tôi chỉ khuyên họ nên sáng suốt kiểm soát cách thức tu hành để tránh các sai lầm thông thường.
Như các ông thấy, trên các con tầu lướt sóng ngoài biển khơi bao la, cứ khoảng nửa giờ, vị thuyền trưởng phải nhìn vào bản đồ, xem địa bàn, đo phương hướng để xác định vị trí con tàu. Biết mình ở đâu và đi đến đâu là câu hỏi quan trọng của mọi người trên đường đạo. Công việc tu hành cũng thế, người tu lúc nào cũng phải luôn luôn tự hỏi về mình để kịp thời sửa sai các lỗi lầm thông thường vì sai một ly đi một dặm. Khi con tàu rời bến, một lỗi lầm nhỏ từ khởi điểm có thể làm con tàu đi xa mục tiêu vài chục hải lý. Ðường tu cũng thế, một ý niệm sai lầm có thể khiến ta đi vào tà đạo lú nào không hay.
Phương pháp tại đạo viện đây không chú trọng đến hình thức mà chỉ nhằm kiểm soát thường xuyên quan niệm của người tu đối với bản thân mình, với mọi người chung quanh. Phải tự xét mình, kiểm soát tư tưởng của mình từng ngày, từng giờ, rồi suy ngẫm về bản ngã, chân ngã. Kinh Veda đã dạy: “Ta không phải là xác thân vật chất này mà là một linh hồn cao quý, trường tồn, một điểm linh quang của Thượng Ðế.” Nói một cách khác, con người là một linh hồn bất diệt còn thể xác chỉ là một dụng cụ thô sơ, tạm thời. Người hiểu đạo là người ân cần lo lắng cho linh hồn hơn là cái xác thân tạm bợ. Chân lý này giúp cho người tu tránh các tội ác, các phiền não vì đa số người đời đều lầm tưởng mình là xác thân nên lo lắng, chiều chuộng nó đủ điều. Ðể cho xác thân được sung sướng họ đã không ngần ngại giết nhau, làm hại nhau, lừa bịp lẫn nhau, tóm lại tất cả những gì xấu xa, tồi bại.
Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn vơ vét của cải, vật chất làm gì vì các thứ đó đâu có ích lợi gì cho linh hồn. Người hiểu biết đường đạo ý thức linh hồn là ta, là người làm chủ, còn xác thân chỉ là con ngựa để ta cưỡi đi trên đường. Người chưa hiểu biết nhận mình làm con ngựa và cố gắng thỏa mãn các nhu cầu của họ. Họ không ý thức mình là tay kỵ mã kiêu hùng bất diệt mà cam chịu thân phận con vật yếu hèn chịu sự chi phối của thời gian và không gian. Căn bản đầu tiên của người đi trên đường đạo là ý thức mình, duyệt xét đường đi của mình để tìm một lối tu thân hợp lý.
Kinh Veda lại dạy rằng: “Ta và người tuy bề ngoài khác biệt nhưng thực sự bên trong lại như nhau, bởi tất cả đều cùng chung một nguồn gốc mà ra.” Chân lý này cho thấy chúng ta đều là hoa lá trái của một cái cây, cùng chung một gốc, bề ngoài tuy khác nhưng bề trong tất cả đều là con của Thượng Ðế.
Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn giận hờn, oán thù, ghen ghét nhau. Có khi nào tay mặt lại cầm dao chém tay trái, có khi nào anh em lại thù nghịch hãm hại lẫn nhau. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hoá khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng “vạn vật đồng nhất thể” ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi hiểu rằng “nhất bổn tám vạn thù” ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch và ý thức rằng mội vật đều có sự sống, đều có Thượng Ðế ngự ở trong. Ta sẽ cỡi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài.
Người tu là người sống thuận hòa với mình và mọi người, sống an lạc với vạn vật trong vũ trụ, sống hòa hợp với thiên nhiên một cách ung dung tự tại. Ðó là con đường tu đứng đắn nhất theo sự hiểu biết của tôi.”
Ram Gopal nhìn mọi người rồi mỉm cười:
“Nếu chúng ta tu một thời gian mà thấy lòng không vui vẻ, phấn khởi, gương mặt không thoải mái, cử chỉ không dịu dàng, lời nói không ôn tồn, tâm hồn không thương mến thì chắc là ta đã không sống thuận lẽ đạo. Có lẽ ta đã đi vào tà đạo lúc nào mà không hay. Khi tu hành mà tâm thần rối loạn, thần trí đảo điên, tham lam, sân hận, oán thù thì đó là triệu chứng đã đi lạc đường rồi. Nếu biết thế phải lập tức kiểm điểm lại phương pháp tu hành để sửa đổi và quyết tâm trở lại khởi điểm để bắt đầu lại con đường đạo. Nếu không làm như thế thì vô phương cứu chữa, cũng như bệnh đã nhập tâm mà còn mê say luyến tiếc vật chất, không cương quyết dứt bỏ thì làm sao còn chữa trị được.
Này các bạn, giáo lý nào cũng dạy phải thương yêu, tha thứ và giúp đỡ đồng loại nhưng tại sao xã hội lại không như vậy? Tại sao giữa cái tri và hành lại có sự trái ngược? Phải chăng lòng con người còn ham mê vật chất, tuy nghe điều hay lẽ thiệt nhưng ta vẫn để đó, tiếp tục làm các điều càn rỡ. Người bệnh cũng thế, khi mới mắc bệnh không lo chạy chữa mà chờ khi mạng sống bị đe dọa mới cuống lên thuốc gì cũng uống, ai nói gì cũng làm, cố sao kéo dài đời sống. Tại sao lại có các điểm tương đồng như thế?
Khoa học công nhận rằng ăn uống điều độ có thể tránh bệnh tật nhưng biết rồi để đó chứ có mấy ai theo? Hình như chúng ta vẫn thèm miếng ngon, vật lạ dù biết nó là chất độc. Nếu chúng ta chấp nhận tất cả đều là con Thượng Ðế tại sao ta vẫn đâm chém, làm hại lẫn nhau? Nếu chúng ta chấp nhận các loài cầm thú là đàn em bé bỏng thì ta phải tránh sát sinh chứ. Tại sao ta vẫn giết hại “đàn em” qua các bữa ăn thịnh soạn? Phải chăng miếng ăn, vị béo đã làm ta quên hết rồi?
Vấn đề của cải cũng thế, ta biết chúng chỉ là vật tạm bợ, vô thường khi chết nào có mang theo được nhưng thực tế, hễ đâu có của cải là đó có tranh chấp lẫn nhau. Hãy nhìn đàn gà trong sân, chúng đang vui vẻ nô đùa nhưng hễ có ném cho nắm thóc là có xô xát ngay. Hãy nhìn bầy chó cùng cha, cùng mẹ âu yếm liếm nhau kia nhưng chủ ném cho cục xương là cắn nhau tức thì. Loài người thông minh hơn loài vật nhưng của cải, danh vọng, vật chất đã làm họ bất hòa có khác chi loài thú?
Từ mấy ngàn năm nay, con người luôn được hướng dẫn bởi các chân lý cao đẹp. Tôn giáo nào cũng dạy những điều thật tốt lành nhưng tại sao vẫn không thấy có sự tiến bộ mấy? Phải chăng chúng ta chỉ nói chân lý ở đầu môi, chót lưỡi? Ta đến các thánh đường tôn nghiêm với y phục sang trọng nhất, các lễ vật đẹp đẽ nhất, đọc thuộc lòng các lời răn chân chính nhất nhưng chúng ta vẫn làm các điều xấu xa, bỉ ổi nhất. Có bao giờ các ông nghĩ về những điều này không?
Mọi người im lặng nhìn nhau không ai thốt lên lời nào, Ram Gopal mỉm cười:
“Hãy dở Thánh Kinh mà xem, đức Jesus đã dạy: “Các người đừng quá lo về y phục hay thức ăn. Ðời sống không quý báu hơn thức ăn và thân thể không quý báu hơn y phục hay sao? Các người hãy nhìn loài chim bay trên trời, chúng không hề gieo cũng không hề gặt, không chứa chấp thực phẩm trong bồ nhưng cha của các ngươi trên trời vẫn lo cho chúng chu đáo. Các ngươi không quý hơn chim muông hay sao?” Lời dạy thật rõ ràng, giản dị và chắc chắn các ông đã nghe nói qua nhiều lần rồi nhưng có lẽ không mấy người hoàn toàn tin tưởng nên thế giới mới có những cảnh chém giết vì miếng ăn, manh áo.”
Một lần nữa, phái đoàn lại ngạc nhiên vì một tu sĩ Ấn Ðộ sống nơi hoang vu, hẻo lánh dưới chân núi Tuyết Sơn lại trích dẫn Thánh Kinh một cách rành mạch cho thính giả người Âu.
Ram Gopal im lặng như suy nghĩ một điều gì sau cùng ông lên tiếng:
“Vì biết rằng của cải, vật chất là nguồn gốc của tội lỗi, cám dỗ nên tại đạo viện này mọi người chỉ được giữ một bộ quần áo trên mình và phải đoạn tuyệt với vật chất hoàn toàn. Còn lo giữ của tức là còn lo mất, quyến luyến vật chất như vậy thì làm sao giải thoát được. Giữ tiền bạc, của cải hay danh vọng có thể ví như đeo gông vào người rồi nhẩy xuống sông, chắc chắn sẽ chìm chứ làm sao bơi lội cho được. Phải như thế không các bạn?
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
“Ông nói cũng có lý nhưng không hẳn tôn giáo nào cũng lánh xa của cải, vật chất. Ðôi lúc họ cần những thứ này để làm các công việc như mua thực phẩm, xây cất thánh đường v.v… Tiền bạc có công dụng riêng của nó.”
Ram Gopal gật đầu:
“Sử dụng tiền bạc đúng cách là một vấn đề còn để nó cám dỗ lại là một vấn đề khác. Chính đức Jesus đã dạy: “Kẻ giàu có tu hành chẳng khác con lạc đà chui qua lỗ kim, một người không thể thờ hai vua, hoặc ngươi thờ Chúa hay thờ tiền bạc.” Một người tu hành chân chính không thể nô lệ bạc tiền dưới bất cứ một hình thức nào. Các ông chắc thắc mắc tại sao tôi cương quyết chủ thương tuyệt sở hữu, gặp nhau hôm nay cũng là một nhân duyên tôi xin kể một câu chuyện để các ông hiểu tại sao con đường tu hành cho rằng tiền bạc, vật chất là trở lực lớn cho người tu. Câu chuyện như sau:
Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một vị đạo sư. Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành. Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ. Vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc một miếng khố che thân, nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên vị tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột.
Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn. Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo. Một ín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng cúng tu sĩ một con bò cái để vắt sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài đồ ăn khất thực tu sĩ lại phải đi xin rơm nuôi bò. Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng rau, nuôi bò. Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, bò ăn hoài không hết phải mang bán ngoài chợ. Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể phải gọi người đến làm giúp. Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú. Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp dẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại nhưng thời gian tu hành không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa và rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa.
Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó là một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán. Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ ôn tồn hỏi tạo sao lại có sự thay đổi như thế. Tu sĩ trả lời: “Thưa thầy thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Ðể bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Ðể có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò và để có rau nuôi bò con phải trồng rau. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc nhiều không xuể. Con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng vái, nhang đèn cẩn thận.”
Sư phụ thở dài: “Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát. Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu. Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát. Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được?”
Ram Gopal yên lặng như đắm chìm vào quá khứ, một lúc sau ông nói thật khẽ:
“Các ông thấy câu chuyện thật khôi hài không? Nhưng đó là chuyện thật, vì tôi chính là vị tu sĩ trẻ đó. Sau khi nghe thầy nói xong, tôi tỉnh ngộ và hiểu con đường tu hành giải thoát chân chính là thế nào. Tôi lập tức rời bỏ tất cả để theo thầy lên Tuyết Sơn học đạo. Suốt mấy chục năm tu hành tinh tấn, sư phụ mới sai tôi đến đây thành lập đạo viện này để chữa bệnh và chỉ dạy đệ tử phương pháp tu thân. Vì kinh nghiệm quá khứ, tôi cương quyết chủ trương kẻ đã tu hành phải tuyệt sở hữu và lúc nào cũng phải tự mình kiểm thảo hàng giờ, hàng phút vì sai một ly là đi một dậm.”
Mọi người ngồi yên tưởng tượng ra cảnh một đạo sĩ trẻ tuổi trước sự cám dỗ của thành công vật chất, giáo sư Mortimer lên tiếng:
“Theo ông thì ngoài vấn đề vật chất, người tu còn gặp những khó khăn gì nữa? Từ bỏ vật chất có đem lại giải thoát không?”
“Bất cứ một sự cởi bỏ nào cũng làm nhẹ gánh chứ, vật chất là một nô bộc tốt nhưng là một chủ nhân rất xấu. Nhiều người tu vô tình quá chú trọng đến tiền bạc mà quên rằng đồng tiền có hai mặt. Nhiều người cho rằng sử dụng vật chất là để phát huy tôn giáo, giúp đỡ các tín đồ có nơi tu học. Dĩ nhiên, mục đích rất tốt đẹp nhưng nếu quá chú trọng vào các hình tướng sẽ đưa đến sự xao lãng vấn đề tinh thần. Một tu sĩ cần phải ý thức rằng mình vẫn là kẻ đang đi trên đường, đang cố gắng tìm kiếm chân lý hòng giải thoát chứ chưa đi trọn con đường mà đòi làm những việc to lớn. Họ chỉ nên làm việc một cách nhiệt thành nhưng không nên làm nô lệ cho những công việc này. Một trở ngại lớn trên đường đạo là sự thiếu nhiệt thành, đa số chúng ta đều quen buông thả, do dự, không đủ cương quyết nên sẽ phải trải qua những kinh nghiệm chua cay, khổ sở để học hỏi các bài học quý giá này. Tất cả chúng ta vẫn đồng ý rằng cuộc đời là ảo mộng, phù du, vô thường, giả tạo chỉ có con đường tu hành mới là giải thoát thế nhưng tại sao chúng ta vẫn chạy theo vật chất, chả chịu tu tâm dưỡng tánh?”
Giáo sư Mortimer phản đối:
“Người tu hành và kẻ thường khác nhau nhiều chứ, chúng tôi còn phải lo sinh kế, kiếm ăn…”
Ram Gopal mỉm cười:
“Một ngày có 24 giờ, có lý nào vì sinh kế mà các ông phải dành trọn để lo việc kiếm ăn. Tại đạo viện này, mọi người chỉ bỏ ra một giờ để trồng trọt các thực phẩm mà vẫn đủ kia mà. Ta dư ăn thì lại muốn ăn ngon, đủ sống thì lại muốn sống cho sang giàu, được giàu sang lại muốn hơn thế nữa, rồi ta lại ngụy biện rằng phải lo kiếm ăn, sinh kế có phải thế không? Người Âu Mỹ hoạt động không ngừng, coi sự làm việc là nguồn vui do đó mới sinh lắm bệnh tật, phiền não, thần kinh suy nhược vì nhu cầu tâm linh không thỏa mãn. Tại sao ta không hoạt động như thế cho nhu cầu tâm linh?”
“Người âu không thể chấp nhận vấn đề làm việc cho một cái gì mơ hồ, cho một viễn ảnh tâm linh không thực tế.”
Ram Gopal lắc đầu:
“Khi nào đời sống vật chất trở nên cực kỳ phức tạp, phiền não thì con người sẽ ý thức đến vấn đề tâm linh. Ðã có nhiều vị tiểu vương, triệu phú từ bỏ tất cả tài sản để vào đây tu hành khi mạng sống của họ bị đe dọa bởi bệnh tật vì họ biết không thể ôm lấy tài sản rồi chết. Sau khi từ bỏ tất cả, đầu óc thoải mái thanh thản, họ lại thấy việc trau dồi tâm linh là quý, thế là họ phát nguyện tu hành, sống một cuộc đời trong sạch, ung dung, tự tại. Nếu chỉ là miếng ăn thì chỉ cần làm việc khoảng một giờ là đủ rồi nhưng vì không biết an phận nên mới có các trói buộc vào vật chất, không lối thoát. Các ông cho rằng tu hành chỉ cần ăn mặc đẹp đẽ, đi đến các đền thờ dâng cúng phẩm vật, tiền bạc, đọc vài câu kinh là đã đủ hay sao? Những cái đó chỉ là hình tướng bên ngoài, không có nghĩa chi hết. Ngay cả việc trở nên một tu sĩ mà không chịu tu thân, trau dồi tâm linh cũng vô ích thôi vì các phiền muộn, đau khổ vẫn còn kia mà.”
“Như thế thì thế nào mới là tu hành thật sự?”
“Bước vào con đường đạo là tự sửa mình, thấy gì ác không làm, thấy gì thiện thì nhất định làm cho đến cùng. Luôn luôn tự giác, kiểm thảo lấy mình và quan sát, học hỏi không ngừng. Nếu các ông buôn bán, thấy có lợi các ông có dồn sức ra buôn bán nữa không? Dĩ nhiên là có thì việc tu hành cũng thế, tại sao ta không lo cho nhu cầu tinh thần như ta đã lo cho vật chất? Tại sao ta cứ hứa hẹn nay mai sẽ sửa tánh, tu thân như người khất nợ vậy? Tu hành không phải một việc chơi mà làm một cách cẩu thả được, đó là một quyết định quan trọng vô cùng. Ðừng nghĩ bộ áo có thể làm nên nhà tu, đừng nghĩ mình sẽ được một đấng nào giúp đở, đó là một sự hiểu lầm tai hại. Ða số các tín đồ đều mong chờ sự giúp đở của đấng mình tôn thờ. Họ cho rằng thuộc lòng các câu kinh, thi hành vài nghi lễ, dâng cúng các phẩm vật là đã làm tròn bổn phận và sẽ được cứu rỗi. Nếu điều này đúng thì các bậc vua chúa đã lên Thiên Ðàng hết cả vì họ dâng cúng nhiều hơn mọi người kia mà. Tu hành đòi hỏi sự tận tâm, tận lực cải thiện con người của mình để xứng đáng là con của Thượng Ðế chứ không phải dựa vào vài hình thức bên ngoài. Ða số tín đồ coi việc tu như đi xe bus, muốn đến đâu chỉ việc mua vé rồi leo lên xe ngồi, ngắm cảnh vật hai bên đường, ung dung cho tài xế lái. Khi đến nơi là họ xuống xe không chút mệt nhọc gì hết.
Tu hành chân chính là tự mình cất bước, Thiên Ðàng không phải nơi mà ta có thể mua vé đến, cũng không thể mong dâng cúng vài thứ mà được các vị thần linh che chở. Giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Khi hiểu như thế ta cần lập tức lên đường không chậm trễ. Hãy lấy niềm tin làm bạn đồng hành tận dụng các cơ hội sẵn có để sửa mình hầu giải thoát cho chính mình.
Con đường tu có trăm nẻo đi, không nẻo nào giống nẻo nào nhưng tất cả đều đưa đến mục đích. Sự chọn lựa con đường hoàn toàn do cá nhân nhưng họ cần suy gẫm cẩn thận để khỏi lầm đường, lạc nẻo. Tu hành chân chính dựa trên căn bản “tự biết mình” vì trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục mà chỉ có sự tiến bộ, do đó, người tu phải dẹp bỏ tự ái, ngã mãn, mặc cảm, không hổ thẹn, ngã lòng để tinh tấn tiến bước. Nếu sa ngã lại đứng dậy và tiếp tục, lúc nào cũng định hướng không để cho lầm đường, lạc lối. Những kẻ tự cao, tự đại không chịu tu thân sửa mình thật đáng thương vì họ giống như người bệnh sắp chết mà không chịu uống thuốc xả ly, dứt bỏ cho khỏi bệnh.”
Ram Gopal ngừng nói, chiều xuống đã lâu chỉ còn vài tia nắng vương vấn trên thân thể cực kỳ lực lưỡng của vị đạo sĩ xứ Ấn. Phái đoàn yên lặng bái phục sự giải thích chân lý thật giản dị, khiêm tốn của người mà dân chúng coi là “vị đạo sĩ có thể chữa mọi thứ bệnh”.
Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền xứ Ấn đã làm cho phái đoàn phấn khởi nhưng còn các bậc Chân Sư (Rishi), những vị này như thế nào? Tại sao một vị chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn? Ðây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc mắc.
Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc chân sư không? Những vị này ở đâu? Giáo sư Mortimer đã hỏi giáo sư Kavir. Ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dẫy Tuyết Sơn và có kiến thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn tìm đến đạo sĩ này, đó là một ông lão gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười.
Giáo sư Mortimer nôn nóng:
“Theo lời truyền tụng thì ông đã có dịp tiếp xúc với các đạo sĩ Tuyết Sơn?”
Ðạo sĩ xác nhận:
“Ðúng thế, tôi đã có dịp gặp gỡ các bậc thánh nhân đó.”
“Ông tin rằng họ là những thánh nhân?”
“Dĩ nhiên, không những tôi tin mà còn biết rõ họ là những bậc hiền giả.”
“Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy? Họ có biểu diễn quyền năng hay làm gì khác người không? Liệu có thể có những bậc siêu nhân như vậy không?”
Ðạo sĩ gật đầu:
“Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp lý nếu ta tin các luật như Luân Hồi, Quả Báo, Tiến Hóa và Nhân Quả. Nếu quan sát, ta sẽ thấy con người đều có các trình độ khác nhau. Có người kém ta rất xa, có người lại hơn ta rõ rệt. Nếu nhân loại tuần tự tiến hóa thì trải qua nhiều kiếp sống và thời gian tất phải có những người đã tiến bộ rất xa chứ.
Theo tôi biết thì đã có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đã khai mở một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh Nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi cơ hội khai mở. Khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rõ các nấc thang tiến hóa của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đã có kẻ đạt đến. Lịch sử các quốc gia đều chứa đựng công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi lãnh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đã vượt xa quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời. Thí dụ như các bác học, các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị vì sự sống vô cùng cần biểu lộ qua hình thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lý do sự kết tinh đến mức tuyệt đích của một con đường tiến hoá dài và liên tục. Tất cả kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân.
Mọi tôn giáo khi thành lập đều có các bậc thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần linh như Brahma, Vishnu, Shiva hoặc các đấng cao cả như Krishna, Sancharacharya, tín đồ Phật giáo có đấng Thích Ca, đức Quan Thế Âm, tín đồ Thiên Chúa có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc thánh, các bộ lạc man dã cũng có các thần linh riêng của họ.”
“Xin ông giải thích rõ hơn về sự tiến hoá này”
“Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đều thay đổi theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm còn tùy cá nhân và hoàn cảnh chung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú sau thảo mộc và loài người tiếp theo loài cầm thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói một cách khác, trên loài người là đời sống Siêu Nhân Loại.
Trong mỗi con người có ba phần chính: Xác thân, linh hồn và tinh thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân ngã, Thần tính v.v…”
“Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này?”
“Ðây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện tôi ý thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Ðức Phật đã nói: “Mọi chúng sanh đều có Phật Tính”. Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần: Xác (Body), Hồn (Soul) và Thần (Spirit)… Sự tiến hóa là sự trở về với Thượng Ðế, trở về với con người thật của mình, phát triển Phật tính của mình trọn vẹn để giác ngộ. Danh từ tuy khác nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với Thượng Ðế nghĩa là trở về với ngài vì chúng ta đều là một phần của ngài.
Theo sự hiểu biết của tôi về luật tiến hóa thì với con người, thể xác họ đã phát triển khá hoàn hảo nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đã chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lý trí và linh hồn. Một người kém tiến hóa là người còn nhều thú tánh, chỉ lo nghĩ đến các đòi hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính. Chính vì thế họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác thân. Thế gian là một trường học mà trong đó có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị được xác thân là việc kiềm chế thể Vía. Thể Vía hay tư tưởng là điều rất khó kiểm soát, chinh phục. Ta thấy nhiều người tuy đã kiểm soát hành động của xác thân nhưng vẫn còn để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưởng phải theo một đường lối suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát thể Vía. Sau đó là sự kiểm soát thể Trí nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Ðịnh trí suy nghĩ là một việc nhưng suy nghĩ chân chính, đứng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba thể Xác, Vía và Trí hoàn toàn được kiểm soát thì ta sẽ hòa hợp với Chân ngã. Từ đó, phàm nhân và Chân nhân hòa hợp làm một và con người sẽ tiến đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời sống của đấng “Christ”. Ðó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ.”
“Nhưng ông tin rằng tất cả đều tiến đến đời sống đó?”
“Dĩ nhiên, tiến hóa là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược dòng tiến hóa nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của mình nhưng không thể chặn đứng được dòng tiến hóa của nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi dòng, ngược dòng hay chơi vơi ở một chỗ nhưng dòng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước sau ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận theo Thiên Ý là bơi xuôi dòng, nghịch thiên ý là ngược dòng. Ða số con người thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc chìm đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược dòng, có khi lại xuôi dòng vì chưa ý thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo.”
“Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo?”
“Chính vì con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh Nhân chỉ bảo hướng dẫn. Sự hiện diên của các bậc như đức Phật, đức Chúa, đức Krishna… và các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ thích ai nói gì thuận ý mình, đúng với điều mình mong ước chứ không thích những điều “Ðúng sự thật”, không thích bị đánh thức…”
“Làm sao mình có thể biết được đâu là “Ðúng sự thật”?”
“Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm gì? Tại sao không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp?”
“Ông muốn nói đến con đường đạo? Làm sao ta có thể bước vào cửa đạo?”
Ðạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười:
“Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa đạo. Nhân duyên thứ nhất là gần gủi, tiếp xúc, thân cận với những bậc Thiện Trí Thức, những người đang đi trên đường đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị đạo sư, giám mục, một mẹ bề trên đã có kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Chúng ta hết sức khâm phục và thiết tha mong rằng ta sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài bão như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp đạo trong kiếp sau. Nhân duyên thứ hai là nghiên cứu các sách vở, nghe giảng giải về đạo lý. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn tìm hiểu và đi sâu vào đạo nhiều hơn và dĩ nhiên khi hiểu biết ta sẽ thay đổi đời sống để cho nó có ý nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường đạo. Nhân duyên thứ ba là sự mở mang trí tuệ, vì một lý do gì đó, ta nhận thức những sự việc xảy ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta suy gẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra chìa khóa mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lý. Ðây là con đường tu Thiền Ðịnh mà các ông đã nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân, làm các việc thiện, mở rộng lòng bác ái, quên mình để giúp đỡ mọi người và dần dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng hồn ta.”
“Xin ông cho biết thêm về các bậc siêu nhân mà ông đã từng tiếp xúc.”
Bakhir mỉm cười vuốt nhẹ chùm râu bạc:
“Tôi đã gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đã sống nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Ðiều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với một quan niệm khác hẳn chúng ta vì trong tư tưởng các ngài không còn một chút ích kỷ như đa số chúng ta. Các ngài đã loại trừ bản ngã thấp hèn, không còn sống cho mình mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài còn phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Ða số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến trình độ cao tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến trình độ cao tột trên một phương diện nào đó thôi và còn nhiều khía cạnh khác chưa hoàn toàn. Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và phát triển không đồng đều. Các bậc siêu nhân là người đã phát triển toàn vẹn mọi đặc tính trên một phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.
Phần lớn các vị siêu nhân đều có hình dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đã sống nhiều thế kỷ mà trông vẫn khỏe mạnh như một người ngũ tuần. Tôi đã gặp một vị đạo sư sống hơn 2000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong lòng núi. Viện cổ tàng này chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại đấu tích toàn thể lịch sử tiến hóa của nhân loại. Trong đó có chứa đựng các hình thể của nhiều giống người đã sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemurians đến các loài người khổng lồ từ thời xa bây giờ nhiều lắm. Có các mô hình diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa cầu sau các thiên tai cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa. Có các bản thảo bút tự rất cổ của các bậc đạo sư, giáo chủ như một bản viết của chính đức Phật khi ngài còn là thái tử Tất Ðạt Ða. Có các ngăn tủ bằng gỗ lim kiên cố chứa các tài liệu giáo lý nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ lùng của những nền văn minh đã biến mất từ lâu. Ngoài ra còn có các bản đồ, mô hình các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất xưa…”
Giáo sư Mortimer lên tiếng:
“Ông có nhớ chỗ đó không? Làm sao có thể đến nơi đó được?”
Ðạo sĩ nghiêm nghị:
“Dãy Hy Mã Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ dàng được vì nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các Tinh Linh canh giữ, phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được.”
“Nhưng tại sao các bậc siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người? Cất dấu như thế có lợi gì đâu?
“Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ chả khác nào ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn, ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu các tài liệu đó đều có lý do mà ta không thể nghĩ bàn được…”
“Theo thuyết tiến hóa ông vừa trình bày thì trên con người có một đời sống siêu nhân loại và như thế nữa hẳn còn các bậc cao cấp nữa?”
Bakhir bật cười một hồi rồi mới trả lời:
“Các ông vẫn còn quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước… Một khi đã giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử trở nên một bậc chân tiên (Asekha) thì Thánh đạo chia ra làm bảy con đường cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của tôi còn nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ có thể cắt nghĩa một cách sơ lược:
Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, các cảnh giới này có tên gọi như: Thượng Thiên, Phi tưởng phi phi tưởng xứ hay Niết bàn…v.v… Sau khi bước vào các cõi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển kiếp xuống trần trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ. Ðây là con đường Dharmakaya.
Các ngài có thể bước vào “Trạng thái tâm linh” với một ý nghĩa huyền bí mà tôi không biết rõ, đây là con đường Sambhogakya.Các ngài có thể hòa hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các ông việc hợp với các định luật vũ trụ, đây là con đường Nirmanakya.
Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại, dưới hình tức một vị Bồ Tát đây là con đường Bồ Tát Ðạo (Boshivartakya).
Ngoài những con đường khác ra sao tôi không được biết rõ. Theo sự hiểu biết của tôi thì số người giải thoát đã ít mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian còn ít hơn. Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một đức chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất gọi là Di Lặc Bồ Tát.
Bakhir im lặng một hồi rồi tuyên bố:
“Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rõ hơn điều tôi muốn nói. Thật ra các điều này đã được tiên doán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ tàng ngầm dưới lòng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ gìn rất cẩn thận.”
“Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây Tạng vẫn có chính sách bế môn tỏa cảng, không giá tiếp với ai, nhất là người da trắng.”
Bakhir mỉim cười bí mật:
“Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi: Sự hiện diện của các ông tại xứ Ấn Ðộ không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt mấy năm đi sưu tầm chân lý mà có thấy gì đâu, có đúng không? Ðó chẳng qua chỉ là một thử thách mà thôi. Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông đã tiếp xúc các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn Ðộ và được tiết lộ những điều chưa từng công bố cho một người Âu nào hay sao? Nếu không có thông điệp của một vị Chân Sư thì là sao các đạo sư đó tiếp đãi các ông? Tại sao họ lại sẵn sàng chỉ bảo, giải đáp các thắc mắc một cách tận tình như thế? Nếu không có một sắp đặt huyền bí thì dễ gì các ông gặp được những người mà ngay cả các tín đồ thuần hành nhất xứ Ấn cũng không dễ gì tìm gặp được. Trong một xã hội đầy dị đoan, mê tín, hình bóng chân lý gần như phai mờ, người dân xứ này muốn có còn phải mất công thế mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng không chút mệt mỏi. Có bao giờ các ông tự hỏi tại sao không? Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người Ấn vì hệ thống dị biệt, nhưng các ông đã gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các ông đã vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không chân chính để tìm gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo. Ðó không phải một việc dễ dàng, có thể các ông không biết nhưng các ông đã vượt qua những thử thách phi thường. Tây tạng không bao giờ đón nhận một du khách bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ vì các ông đã được che chở của một vị chân sư. Các ông sẽ lãnh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hãy quay về phương đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để tìm kiếm một chân lý mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức gì mới lạ nhưng để hiểu biết rằng chân lý luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đường khác nhau đưa đến chân lý và không một tôn giáo nào qua chân lý.”
Toàn thể phái đoàn yên lặng nhìn nhau, quả thế chỉ một thời gian ngắn họ đã gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lý quý báu. Ðó không phải một may mắn tình cờ mà như có sự sắp đặt trước.
“Ông biết rằng có một vị chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi?”
“Ðúng thế, tôi biết rõ chuyện này nên các ông mói có thể gặp tôi hôm nay. Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong các ông đã từng học đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn Ðộ dưới bộ da người ngoại quốc. Tuy nhiên các ông không nhớ những điều đã học. Nhưng khi nhân duyên đến, các ông sẽ phục hồi ký ức. Ðịnh mạng đã dẫn dắt các ông trở lại Á Châu để hoàn tất một sứ mạng cao cả…”
Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Lòng ao ước gặp vị chân sư bí mật gia tăng, giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu:
“Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp ngài?”
“Thời gian không còn lâu nữa đến khi đó các ông sẽ biết. Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi.”
Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng:
“Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công?”
Ðạo sĩ bật cười:
“Ðiều này đâu có gì lạ, đó chỉ là một phương tiện di chuyển tầm thường, nhỏ mọn mà thôi.”
“Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được?”
Bakhir mỉm cười gõ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân hình ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô hình kéo lên. Ông ta vẫn ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động. Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy họ đã chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung (levitation) là một điều lạ lùng, ngoài sự tưởng tượng. Ðạo sĩ bỗng xoay mình, thân thể ông bỗng như một cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đã xa cách phái đoàn đến mấy chục thước.
Ðạo sĩ nói vọng lại:
“Này các ông, tại sao con người lại phải bò lết trên mặt đất? Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú thì y phải bay cao hơn chim, lội nhanh hơn cá chứ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm duy vật về bản chất của mình? Tư tưởng y chỉ nghĩ rằng mình chỉ có thể đi được mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô lệ. Nếu biết rõ mình và phát triển khả năng của mình một cách đứng đắn, họ có thể làm hầu như mọi chuyện…”
Ðạo sĩ lao mình vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ mấy phút ông đã mất hút chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động, không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được.