3.
Tôi sững sờ nhìn anh, không hiểu anh đang nói tới điều gì.
Cố Tư Uyên nhìn dáng vẻ mờ mịt của tôi, cười khổ lắc đầu, không nói thêm nữa.
Tôi giữ cửa xe, đầu ngón tay trắng bệch, mơ hồ cảm thấy bản thân đã bỏ lỡ thứ gì đó cực kì quan trọng.
“Cậu bảo gì cơ?”
Cố Tư Uyên cười cười, sờ sờ mũi:
“Năm lớp 12, trước khi mình đi Mỹ, mình có viết cho cậu một lá thư, kẹp vào trong vở ghi chép của cậu.”
Thấy tôi giật mình, anh nói tiếp:
“Thôi, dù sao cũng qua nhiều năm như vậy rồi. Cậu mau vào nhà đi, bên ngoài còn đang mưa.”
Tôi cứng đờ, xuống xe một cách máy móc, ngay cả ô cũng quên lấy ra. Mãi đến khi vào trong nhà, ngồi trên sofa, trong đầu tôi vẫn văng vẳng những lời Cố Tư Uyên vừa nói.
Tôi thậm chí còn mong đợi, biết đâu nhân vật chính trong câu chuyện có thể là tôi thì sao? Sẽ thế nào nếu tôi không phải kẻ dư thừa bị bỏ lại?
Đêm đã về khuya, nhưng trái tim rạo rực của tôi không cách nào ngủ yên nổi.
Toàn bộ đồ đạc cũ của tôi đều để lại Vũ Hán, nghĩ vậy, tôi cầm điện thoại lên gọi cho mẹ. May mắn là mẹ tôi có thói quen thức khuya.
“Mẹ, mẹ giúp con tìm sách vở năm lớp 12 của con, dạ… Mẹ cứ tìm hết một lượt nhé, xem xem có quyển sách, quyển vở nào cất đồ bên trong không.”
“À à, được rồi.”
Đầu dây bên kia truyền đến tiếng loạt xoạt, hẳn là mẹ tôi đứng dậy chuẩn bị đi tìm, sau đó bỗng “ối” một tiếng:
“Chờ đã, nhóc con, con còn chưa nói con muốn tìm gì mà?”
Tôi dừng lại, giọng điệu trầm xuống, không kìm được run rẩy:
“Tìm một lá thư.”
Đêm đó, tuy rằng mẹ tôi lục tìm hết tất cả sách vở của tôi suốt thời trung học, thế nhưng vẫn không tìm thấy bất cứ lá thư nào.
Mười năm trôi qua, lá thư ấy có thể đã biến mất từ rất lâu trước đây. Quyển vở ghi đó mỗi ngày tôi đều mở ra, biết bao ngày tháng mà vẫn không hề thấy bất cứ lá thư nào.
Đêm đó tôi trằn trọc mãi, đến nửa đêm mới bắt đầu mơ màng, dần dần chìm vào giấc ngủ. Trong mơ, tôi như trở về thời thanh xuân cấp ba, những kí ức phủ bụi bỗng chốc trở nên sống động hơn bao giờ hết.
Trong kỳ thi thử đầu tiên của năm học, tôi bị điểm kém tất cả các môn, chỉ đứng thứ hai mươi tám trong lớp. Xếp hạng dưới hai trăm của cả khối, thậm chí môn toán chỉ được hơn bốn mươi điểm. Tôi cảm thấy cực kì xấu hổ, càng nghĩ càng giận, tự trách bản thân không đủ nỗ lực.
Trong lớp có 30 người, cả khối chưa đến 300 người, tôi gần như đứng bét bảng. Ngược lại, điểm số của Cố Tư Uyên đứng nhất lớp, đồng thời xếp hạng nhất cả khối.
Piano, thổi sáo, bóng rổ, thêm cả thành tích đứng đầu bảng xếp hạng, sự chênh lệch giữa tôi và Cố Tư Uyên hiện ra rõ rệt.
Phong cách giảng dạy của Trường Trung học Giang Thành khác với cách dạy học của Trung học Hành Thủy tôi theo học hồi cơ sở. Nếu nói trường cơ sở của tôi ép học sinh vào khuôn khổ, quản lý nghiêm khắc thì nơi này có cách giảng dạy sáng tạo hơn hẳn, các bài giảng đa dạng, giáo viên cũng để cho học sinh có không gian tự do thoải mái.
Trung học số một Giang Thành thành lập rất nhiều câu lạc bộ, chương trình giảng dạy nhiều đến hoa mắt. Đối với tôi, một học sinh đã quen được thầy cô theo sát hướng dẫn, học tập theo hướng truyền thống mà nói thì thật sự không dễ thích nghi.
Nhận về bảng điểm lẹt đẹt khiến cho tôi càng thêm tự ti. Ngày nào tôi cũng ngồi trong lớp học không dám ra ngoài với hi vọng rằng không ai nhớ đến tôi, cả bạn học và thầy cô đều đừng ai để ý đến thành tích thấp đáng xấu hổ này.
Giáo viên chủ nhiệm của tôi là một giáo viên trẻ rất nhiệt tình, cô chủ động đến tìm tôi, dịu dàng khích lệ:
“Mỗi học sinh đều có một phương pháp học phù hợp với mình. Có em sẽ học một hiểu mười, tự suy ngẫm và tìm ra sự cân bằng giữa việc học và vui chơi, có em chỉ phù hợp với cách học truyền thống là tập trung vào nền tảng kiến thức cơ bản. Trường chúng ta không phân biệt bất cứ cách học nào.”
Cô vỗ vỗ bả vai tôi:
“Tuy rằng phương thức giảng dạy của Nhất Trung không phù hợp với tất cả học sinh, nhưng chắc chắn trường ta không tuyển người kém cỏi. Em hãy tin tưởng ánh mắt của phòng tuyển sinh trường ta nhé. Tiểu Hạ, hãy cứ mạnh dạn tiến về phía trước.”
Ngay cả trong mơ, tôi vẫn có thể hình dung rõ ràng khuôn mặt của cô chủ nhiệm, người giáo viên đã chỉ bảo tôi suốt những năm tháng cấp ba, cũng là người luôn luôn cổ vũ tôi, động viên tôi cố gắng phấn đấu.
Khi đó là tháng đầu tiên tôi nhập học, tôi đã dành ra một tuần đắm mình trong sự lo lắng và sợ hãi, nhưng rồi tôi dần dần nhận ra không có ai châm chọc hay chê trách tôi cả. Mọi người thậm chí còn giúp tôi tóm tắt trọng tâm bài học, nhiệt tình hướng dẫn tôi.
Giang Yên sẽ giúp tôi bổ túc môn tiếng Anh sau khi kết thúc công việc ở phòng phát thanh, điều này khiến tôi hổ thẹn khi trước đây từng ghen tị với cô ấy.
Bạn cùng bàn kiêu ngạo vẽ lên giấy nháp của tôi. Cậu ấy viết rất nhanh, trôi chảy liền mạch, làm cho tôi trợn mắt há mồm khâm phục:
“Đề này rất đơn giản nhá, đầu tiên rút gọn số này làm hai lần, cuối cùng áp dụng công thức là có thể ra được đáp án là căn bậc 3…”
Bạn học xung quanh nghe thấy thì ho nhẹ một tiếng mới khiến cậu ấy ngừng lại.
Cậu nhìn tôi một cái, lại nhìn sang các bạn học khác, vò đầu bứt tai:
“Ớ, tớ không phải cố ý nói đề bài này dễ, tớ…”
Tôi cảm nhận được dáng vẻ bối rối của cậu ấy thì lên tiếng nói đỡ:
“Là do cậu thông minh.”
Cố Tư Uyên cười mở miệng:
“Thông minh tuyệt đỉnh chứ còn gì.”
Bạn học kia lập tức gật đầu:
“Đúng đúng đúng.”
Sau đó sửng sốt một chút, đứng lên:
“Tuyệt đỉnh cái gì? Cố Tư Uyên, cậu mau đứng lại cho tớ.”
Nhìn hai người đuổi nhau chạy tán loạn quanh lớp học, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn hẳn.
Chính vào khoảnh khắc ấy tôi đã nghĩ, bất kể sau này tôi thành công thế nào, gặt hái được thành tựu to lớn ra sao, đều chỉ là cố gắng khiến cho bản thân mình trở nên xứng đáng với danh hiệu học sinh của trường cấp ba số một Giang Thành.