“Tôi không biết phải nói điều gì, Katherine.”
Đó là giọng Hunt.
Một đỗi yên lặng thật lâu. “Tôi cần ra ngoài cho khuây khoả.”
“Katherine…”
“Ông sẽ trông chừng Johnny chứ hả?”
Cánh cửa đóng và Johnny tỉnh giấc. Không phải giấc mơ. Hunt đứng ở cửa sổ nhìn mẹ cậu bước đi. Johnny ngồi dậy và giấc mơ lại đến với cậu. “Có thật là Allen cùng ngồi trên chiếc xe tải với Gerald không?”
“Cậu đã nghe về chuyện đó à?”
“Có thật vậy không?”
“Allen không cầm lái.”
“Nhưng hắn biết mọi chuyện xảy ra mà lại không khai báo.”
“Bố của Gerald là ông cò và Allen lúc ấy quá sợ hãi, nhưng tôi không thể chạy tội cho hắn ta, Johnny. Hắn đã sai lầm.” Ngưng một lúc. “Hắn đã tự đi nộp mình rồi. Hắn đã bị câu lưu. Hắn sẽ bị trừng phạt. Cả Jack cũng vậy.”
“Trừng phạt, như thế nào?”
“Chuyện đó còn tuỳ vào toà án vị thành niên. Bọn họ sẽ phải đi xa một thời gian.”
“Nhà tù?”
“Không hẳn là như vậy.”
Johnny ra khỏi giường ngủ. “Tôi đi tắm cái đã,” cậu nói.
“Được rồi, Johnny.”
Nước chảy yếu ớt nhưng ấm nóng. Johnny tắm hai lần, sau đó dò dẫm những vết khâu trên ngực cậu. Da thịt đỏ ửng và dúm dó lại; vết sẹo sẽ mãi mãi ở đó. Cậu chải tóc bằng cái lược của mẹ. Hunt vẫn ở trong phòng khi Johnny bước ra khỏi phòng tắm.
“Dễ chịu hơn chưa?” Hunt hỏi.
“Mẹ tôi vẫn chưa quay trở lại sao?”
“Bà ấy đang cố gắng quyết định xem bà ấy có nên căm ghét tôi không.”
Johnny gật đầu. Nó là một chuyện rất người lớn. “Tôi được phép hỏi ông một chuyện hay không?”
“Được.”
Họ ngồi bên nhau trên chiếc giường. Những ngón tay của Johnny run lạnh sau khi tắm quá lâu. Lòng bàn tay của cậu bong tróc da nơi các mụn nước vỡ tung. “Thằng Jack tin rằng nhiều chuyện xảy ra đều có lý do.”
“Có phải cậu đang nói về Alyssa?”
Johnny không chắc cậu có thể nói những gì theo ý của cậu, cậu nhún vai. Cậu linh cảm được sự căng thẳng của Hunt, rồi giãn ra, như thể ông ta đã quyết định.
“Chúng tôi tìm được bảy thi thể chôn giấu ở khu rừng đằng sau nhà gã Jarvis. Toàn là trẻ em. Cậu có biết điều đó không?”
“Mẹ tôi có nói với tôi về chuyện này.”
Hunt lại ngần ngại một lần nữa, sau đó lôi ra tấm ảnh từ túi áo khoác. Nó là tấm ảnh chụp hình khám nghiệm tử thi của gã Meechum. Hình chụp gã ta từ phần ngực trở lên, trần truồng nằm trên chiếc bàn inox. “Đây có phải là gã đàn ông mà cậu thấy ngồi chung với gã Jarvis?”
Khuôn mặt gã ta trống rỗng lúc chết và không có thần khí màu sắc gì cả, nhưng Johnny nhận diện được gã. Cậu gật đầu.
“Tại sao cậu nghĩ gã ta là cớm?”
“Gã ta mang còng và đeo súng trên thắt lưng. Cớm thường làm như vậy mà.”
Hunt cất bức ảnh đi chỗ khác. “Gã ta là nhân viên an ninh ở thương xá. Gã và Jarvis tùng sự trong quân ngũ cùng nhau ở Việt Nam. Cả hai bị giải ngũ với hạnh kiểm xấu cùng một lúc. Có nhiều tin đồn đại…”
“Tin đồn loại gì?”
“Toàn tin động trời.”
Johnny nhún vai. Cậu đã từng nghe nhiều chuyện tương tự.
“Chúng là những kẻ thuộc thành phần bất hảo, Johnny. Chúng làm những chuyện tồi bại vì những lý do đốn mạt và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu cậu không có mặt và làm những chuyện như cậu đã làm.”
“Tôi không hề cứu mạng cô bé Tiffany. Tôi đã nói với ông điều đó.”
Hunt nhìn qua cửa sổ. “Nếu gã Jarvis không bận rộn với cậu trên đường phố, Tiffany sẽ không thể đi xa quá căn nhà. Gã sẽ bắt được cô bé và giết chết. Cô ấy sẽ bỏ xác ở trong cánh rừng như những người khác. Jarvis và Meechum sẽ tiếp tục dấn sâu vào tội ác giết người. Có thể chúng sẽ giết thêm vài mạng nữa. Có thể chúng sẽ giết nhiều hơn vậy nữa. Điều tôi được biết là hai gã bị chặn đứng bởi sự có mặt của cậu trên con đường khi cậu ở đó.”
Johnny cảm nhận được cặp mắt của Hunt trên đỉnh đầu mình, nhưng cậu không thể nhìn lên.
“Cậu sẽ không có mặt trên con đường đó nếu Alyssa không bị thiệt mạng.” Hunt đặt một tay trên vai của Johnny. “Có thể đó là lý do, Johnny. Có thể, Alyssa chết đi để những đứa trẻ khác không phải chết.”
“Jack nghĩ Freemantle xuất hiện bởi vì Chúa sai phái gã đến.”
“Jack có những vấn đề lẽ ra không đứa trẻ nào ngoài kia phải đương đầu.”
“Hắn nghĩ Chúa gửi thiên sứ là đàn quạ đến để hù doạ hắn, và sai phái Freemantle đến để buộc hắn phải đương đầu với thực tế hắn đã làm.”
“Tôi không biết gì về chuyện đó, Johnny.”
“Lần cuối cùng tôi cầu nguyện, tôi đã cầu xin Chúa ba điều. Tôi xin Ngài chấm dứt những viên thuốc sái, và cho gia đình tôi được đoàn tụ. Những chuyện đó đã xảy ra.”
“Đó mới chỉ là hai điều.”
Johnny nhìn lên, và mặt cậu đanh lạnh như ngọc thạch. “Tôi cầu nguyện cho gã Ken Holloway chết đi. Tôi cầu nguyện cho gã chết một cách chậm rãi và khủng khiếp.” Cậu ngừng lại, cặp mắt đen long lanh. “Tôi cầu nguyện gã chết trong sợ hãi.”
Hunt mở mồm, nhưng Johnny đã nói trước khi ông ta có thể nói bất cứ điều gì. Cậu hình dung đôi mắt của gã Ken Holloway khi ánh sáng đời người tắt ngúm đi trong đó. Cậu thấy chiếc bóng của con quạ vươn lên, sự rung chuyển của bóng tối. “Gã Levi Freemantle đã trao tặng điều đó cho tôi,” Johnny nói. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao Chúa sai phái gã đến.”
Hunt có một buổi gặp mặt trễ trong ngày với luật sư của anh con trai, sau đó ông đỗ xe trước cửa trại tạm giam, một khối bê-tông thô xù, nhớp nhúa chiếm đóng cả một dãy phố không xa lắm từ toà án. Allen bị giam giữ trong đó. Hắn thích nghi cũng tạm ổn, Hunt nghĩ; nước mắt hắn đầm đìa khi hắn thú tội với ông bố ‒ hối hận và tủi thẹn và tội lỗi ‒ rồi can đảm khi cả hai cùng đi đến nha cảnh sát. Ký ức cuối cùng của ông về anh con trai là khuôn mặt của con khi cánh cửa bằng sắt đóng sầm giữa ông và con.
Ông tắt máy và bước vào cổng chính của trại giam. Ông cất gửi vũ khí và vào bên trong. Ông biết những nhân viên cải huấn trong này, và họ cũng biết ông. Một người vỗ lưng ông, vài người gật đầu thông cảm, cũng có người nhìn ông lạnh lùng. “Tôi cần gặp nó.”
Ông nhân viên cải huấn ngồi đằng sau bàn làm việc nói nhỏ nhẹ và dứt khoát. “Ông biết tôi không thể làm được điều này.”
Hunt biết như vậy. “Ông có thể gửi cho nó một lời nhắn được không?”
“Chắc chắn rồi.”
“Ông nói với nó rằng tôi có đến đây nhé?”
Người sĩ quan cải huấn ngả người ra phía sau. “Tôi chắc chắn hắn sẽ nhận được lời nhắn.”
“Nói với nó ngay bây giờ,” Hunt yêu cầu. “Không phải tôi đã đến đây. Nói với nó rằng tôi đang có mặt ở đây.”
“Chuyện quan trọng như vậy sao?”
“Có sự khác biệt trong đó,” Hunt nói. “Tôi sẽ chờ.”
Khi Hunt rời trại giam, ông ngồi ở hàng ghế đá cách đó hai dãy phố. Bầu trời cao vời vợi không một vì sao. Gia đình là lớp vỏ bọc. Sau vài phút đi qua, điện thoại của ông reo vang. Bác sĩ Trenton Moore ở đầu giây bên kia. “Tôi có đánh thức ông không vậy?” ông ta hỏi.
“Cái cơ hội đó không có đâu.”
Ngưng một đỗi. “Tôi đã nghe về chuyện con trai ông. Tôi rất tiếc.”
“Cảm ơn, bác sĩ. Tôi trân trọng điều này. Anh gọi tôi có lý do nào khác không?”
“Sự thật thì đúng, đúng như thế.” Ông ta hắng giọng và dường như ngần ngại một cách lạ lùng.
“Ừm. Ông có rảnh không?”
Bác sĩ khám nghiệm tử thi làm việc ở tầng hầm của một bệnh viện. Hunt chẳng bao giờ thích thú gì đi viếng thăm nơi chốn ấy, đặc biệt là ban đêm. Đèn thắp sáng rời rạc trong hành lang thật dài. Tường bê-tông dường như muốn toát mồ hôi. Hunt đi quá phòng quan sát, dãy ngăn kéo lạnh chứa xác, những căn phòng hiu quạnh tịch mịch, và sự lặng thinh của cái chết. Bác sĩ Moore đang ghi âm trong phòng làm việc khi Hunt gõ cửa. Bác sĩ Moore nhìn lên, sự vui sướng toát lộ trong ánh mắt của ông. “Vào đây, vào đây.” Ông ta buông cái máy ghi âm xuống và với tay lấy bình cà phê trên chiếc bàn nhỏ phía sau mình. “Ông uống cà phê chứ?”
“Được. Đen. Cảm ơn.”
Ông rót cà phê vào hai ly nhựa xốp nhỏ, đưa một ly cho Hunt. “Trước tiên,” bác sĩ Moore nói, “tôi nên đưa cho ông những thứ này.” Ông lôi ra một túi nhựa đựng tang vật từ ngăn kéo và quẳng nó lên bàn. Nó rơi xuống nặng nề và toát ánh sáng kim loại. Hunt cầm nó lên, thấy nó được dán kín và ghi ngày tháng, ký tên bởi bác sĩ khám nghiệm tử thi. Ông lăn chiếc túi trên lòng bàn tay và đếm được sáu viên đạn với vỏ thép không rỉ và lỗ dùi ở đầu mũi đạn. “Để tôi đoán xem, đạn.32 đầu rỗng?”
“Từ túi phải phía trước của gã Freemantle. Ngoại trừ quần áo, đó là tài sản duy nhất gã ta có trong người lúc chết.”
“À, điều này trả lời một câu hỏi.”
“Câu hỏi gì?”
“Tại sao một gã cớm vẫn còn hạnh phúc hít thở khí trời, và quan trọng hơn cả, có thể, tại sao thằng con mười ba tuổi của gã không bị truy tố về tội cố sát.” Hunt nhét túi tang vật vào trong túi áo khoác. “Cảm ơn.”
“Đừng nhắc đến chuyện đó.” Họ nhâm nhi cà phê và những giây phút yên lặng kéo dài ra. “Nói về chuyện câu hỏi.” Bác sĩ Moore lăn bánh xe ghế ngồi tiến về phía đằng trước. Người ông ta nhỏ thó và chắc nịch, tràn đầy năng lượng khiến ông ta khó lòng mà ngồi yên. “Có một vài điều bí ẩn trong công việc tôi làm, Thám tử. Những câu hỏi không có câu trả lời? Đúng, lúc nào cũng thế. Nhưng mà không có chuyện gì bí ẩn cả. Cơ thể con người, trời ơi, là một thiết bị rất dễ đoán trước được. Cứ lần mò theo chỗ bị hư hỏng và nó sẽ dẫn dắt mình đến những nơi chốn, dẫn mình đi đến kết luận, xác định được nguyên do và hậu quả.” Năng lượng lại một lần nữa bừng sáng trong ánh mắt của bác sĩ Moore. “Ông có biết tôi đã từng khám nghiệm tử thi bao nhiêu ca không?”
“Không.”
“Đến cả tôi cũng không nhớ rõ, nhưng nhiều lắm. Hàng trăm. Có thể nhiều hơn vậy. Thật sự một ngày nào đó tôi cũng nên đếm lại tất cả.”
Hunt nhâm nhi ly cà phê. Bình thường ông sẽ khó chịu, nhưng lúc này ông cũng không có nơi nào để đi. Bác sĩ Moore gõ nhịp ngón tay xuống mặt bàn, cặp mắt ngời sáng, da dẻ ửng hồng. “Ông có tin tưởng vào những chuyện huyền bí không, Thám tử?” Hunt mở miệng nhưng bác sĩ Moore khoát tay. “Không phải những thứ bí ẩn mà ông phải đương đầu hàng ngày đâu.” Ông nghiêng qua bàn làm việc và bụm hai bàn tay lại với nhau như thể bồng bế cả cái thế giới nhỏ bé ở giữa trong đó. “Chuyện huyền bí to lớn, Thám tử ạ. Chuyện thực. Chuyện động trời.”
“Tôi không hiểu ý anh lắm.”
“Tôi muốn chỉ cho ông thấy vài chuyện.” Bác sĩ Moore giở một tập hồ sơ và đứng lên. Ông bước ngang căn phòng và bật công tắc máy đọc phim X−quang. Ánh sáng nhấp nháy, rồi sau đó ổn định.
“Bên cạnh một ghi chú nhỏ trong bản báo cáo, tôi đắn đo chia sẻ chuyện này.” Một nụ cười dè chừng. “Tôi còn phải suy nghĩ về tiếng tăm của tôi nữa.” Bác sĩ Moore lấy tờ phim chụp tia X−quang trong tập hồ sơ và đẩy phập nó dính vào máy rọi. Hunt nhận ra cấu trúc của phần thân trên con người. Những khúc xương xẩu dường như toả sáng. Những chỗ không định dạng được chỉ phần tế bào mềm. “Levi Freemantle,” Moore nói. “Đàn ông trưởng thành. Bốn mươi ba tuổi. Cơ thể to lớn. Nhiễm trùng rất nặng. Suy dinh dưỡng ở mức độ báo động. Thấy chỗ này không?” Ông chỉ vào tấm phim. “Đây là nơi ông bắn gã. Đầu đạn đi vào chỗ này. Xương vai bị gãy ngay lỗ ra của đầu đạn. Thấy không?”
“Tôi không hề có ý định giết gã.”
“Ông đã không giết gã.”
“Ý bác sĩ là như thế nào?”
Bác sĩ Moore làm ngơ câu hỏi. “Xem này.” Ông ta lần mò ngón tay út trỏ theo một lằn trắng thô xù. “Đây là một cành cây, một loại gỗ cứng nào đó. Sồi, phong. Không phải chuyên môn của tôi. Nạn nhân bị vật này đâm vào người bằng cách nào đó. Khúc cây này giòn, không mục rữa. Lởm chởm. Thấy những góc cạnh bén nhọn không? Chỗ này và chỗ này. Rất khó nói từ tấm phim này, nhưng đường kính của nó gấp đôi ngón tay áp út của ông. Có thể gấp rưỡi ngón tay cái. Nó đâm vào từ chỗ này, ngay dưới cái xương sườn thấp nhất phía bên tay phải, rồi trổ góc xuyên thủng qua lá gan từ bên này qua bên kia. Nó làm hư hỏng nhiều nội tạng và làm rách một lỗ ba phân trong đại tràng.”
“Tôi không hiểu.”
“Đây là chấn thương rất nặng, Thám tử.”
“Được rồi.”
Bác sĩ Moore quay bước đi chỗ khác, rồi trở lại. Ông giơ cao cả hai tay và Hunt cảm nhận được sự hoang mang tuyệt vọng của ông. “Cái này…” Ông di chuyển hai tay ông qua tấm phim X‒quang, rồi dừng lại. “Đây là vết thương chí mạng. Nếu không giải phẫu ngay lập tức, nạn nhân sẽ tử vong. Gã ta lẽ ra phải chết nhiều ngày trước khi ông bắn gã.” Bác sĩ Moore lại giơ cả hai tay lần nữa. “Tôi không làm sao giải thích được.”
Dường như có một cơn rùng mình chạm vào Hunt giữa hai bả vai. Cả bệnh viện đè ập xuống. Ông hình dung cặp mắt háo hức của bác sĩ Moore, những câu chất vấn của ông ta về những chuyện huyền bí to tát. “Có phải ý anh muốn nói đó là điều kỳ diệu không?”
Bác sĩ Moore nhìn tấm phim X‒quang, và ánh sáng máy rọi phóng chụp một lớp ánh sáng trắng nhợt trên khuôn mặt của ông. Ông đặt ba ngón tay lên hình ảnh cành gỗ lởm chởm xuyên thủng vào hông của Freemantle. “Tôi nói rằng tôi không làm sao giải thích được.”