Ông là một người độc thân mềm nhẽo, nhu nhược, u sầu, thân hình thon dần lên trên tới đôi vai hẹp, không hoàn toàn ngang nhau và cái đầu hình nón nhìn như quả lê, có mái tóc đen mượt bên này và chỉ lơ thơ vài túm chải keo bóng nhẫy bên kia. Nhưng phần dưới cơ thể ông lại rất to lớn, và ông di chuyển trên những cái chân mập mạp dị thường với vẻ lén lút lạ lùng của một chú voi. Ông lúc nào cũng mặc đồ đen, thậm chí cà vạt của ông cũng đen; ông chẳng mấy khi tắm; tiếng Anh của ông thật khôi hài. Tuy nhiên ai ai cũng coi ông như một người bạn vô cùng đáng yêu, đồng bóng một cách đáng yêu! Hàng xóm nuông chiều ông; ông biết tên mọi chú bé trong vùng lân cận chúng tôi (ông sống cách tôi mấy khối nhà) và có vài đứa trong bọn chúng quét sạch vỉa hè nhà ông, đốt lá ở sân sau, mang củi từ trong lán vào nhà, thậm chí làm những việc lặt vặt đơn giản quanh nhà, và ông vẫn thường cho chúng ăn những viên sô cô la lạ mắt, có rượu thật ở giữa — trong sự kín đáo của cái tổ ấm trang bị nội thất theo kiểu phương Đông dưới tầng hầm nhà ông, với những khẩu súng lục và những con dao găm ngộ nghĩnh dàn hàng trên những bức tường mốc meo, trang trí bằng thảm dọc theo đường ống nước nóng được ngụy trang. Ở tầng trên ông có một xưởng vẽ — tay bợm già ấy có vẽ vời chút ít. Ông đã trang hoàng bức vách nghiêng của nó (thực sự thì nó cũng chẳng hơn gì một căn phòng áp mái) bằng những tấm ảnh lớn chụp các danh nhân đang trầm tư mặc tưởng: André Gide, Tchaïkovsky, Norman Douglas, hai nhà văn Anh nổi tiếng khác, Nijinsky (toàn đùi vế và lá sung), Harold D. Doublename (một giáo sư cánh tả mắt mơ màng ở đại học Midwestern) và Marcel Proust. Tất cả những nhân vật tội nghiệp này dường như sắp rơi vào người bạn từ trên mặt dốc của họ. Ông cũng có một quyển album với các bức ảnh chụp chớp nhoáng tất cả những chú nhóc Jacky và Dicky bên hàng xóm, khi tôi tình cờ giở qua chúng và đưa ra vài lời nhận xét bâng quơ, Gaston lại mím đôi môi dày của mình và lẩm bẩm với vẻ mặt hờn dỗi buồn buồn: “Oui, ils sont gentils.”[2] Đôi mắt nâu của ông phiêu du quanh các hiện vật mỹ nghệ đa cảm đủ loại khác nhau, và những toiles[3] tầm thường của chính ông (con mắt thô sơ có tính chất ước lệ, lát đàn guitar xắt mỏng, núm vú xanh lè và những họa tiết hình học hiện đại), và với cử chỉ không rõ nghĩa hướng về phía cái bát gỗ sơn màu hay chiếc bình nổi gân, ông nói “Prenez done une de ces poires. La bonne dame d’en face m!en offre plus que je n’en peux savourer.”[4] Hoặc: “Mississe Taille Lore vient de me donner ces dablias, belles fleurs que j’exècre.”[5] (u sầu, buồn bã, đầy vẻ chán đời.)
Vì những lý do dễ thấy, tôi thích nhà tôi hơn nhà ông vào những dịp chúng tôi gặp nhau, hai hay ba lần hàng tuần, để chơi cờ. Ông có vẻ ngoài giống một tượng thần cũ mòn nào đó lúc ông ngồi với đôi tay ngắn mập mạp đặt trong lòng và nhìn chòng chọc vào bàn cờ như thể nó là một xác chết. Ông thở khò khè, trầm ngâm trong mười phút — rồi đi một nước cờ thua. Hoặc người đàn ông tốt bụng ấy, sau khi suy nghĩ thậm chí còn nhiều hơn, có thể thốt lên: Au roi![6] bằng giọng gầm gừ chậm rãi của con chó già, có một tiếng súc họng lúc sau cùng làm cho cặp má xệ rung rinh; và sau đó ông nhướng cặp lông mày hình dấu mũ cùng tiếng thở dài thườn thượt khi tôi chỉ ra cho ông thấy là chính ông đang bị chiếu.
Đôi khi, từ nơi chúng tôi ngồi trong phòng làm việc lạnh lẽo của tôi, tôi có thể nghe đôi chân trần của Lo đang luyện những kỹ thuật khiêu vũ trong phòng khách ở tầng dưới; nhưng các giác quan hướng ngoại của Gaston đã khoan khoái cùn đi, và ông vẫn không hề hay biết về những nhịp điệu trần trụi ấy — và-một, và-hai, và-một, và-hai, trọng lượng chuyển qua chân phải duỗi thẳng, chân giơ lên và dang qua bên, và-một, và-hai, chỉ đến khi nàng bắt đầu nhảy lên, dang rộng đôi chân tại đỉnh cú nhảy, uốn cong một chân, duỗi thẳng chân kia, bay, và chạm xuống sàn trên những mũi giày — chỉ khi đó thì đối thủ tái mét, vênh vang, buồn rầu của tôi mới xoa đầu hoặc má mình như thể nhầm lẫn những tiếng uỳnh uỵch xa xôi ấy với nhát đâm khủng khiếp từ con Hậu ghê gớm của tôi.
Đôi khi Lola lếch thếch bước vào trong lúc chúng tôi trầm ngâm suy nghĩ trên bàn cờ — và lần nào cũng thật là vui được thấy Gaston, con mắt voi vẫn dán vào những quân cờ, khách sáo đứng dậy bắt tay nàng, và ngay sau khi buông những ngón tay mềm rũ của nàng, mà không nhìn nàng lấy một lần, thả mình xuống ghế để ngã vào cái bẫy tôi đã bày sẵn cho ông. Một ngày gần lễ Giáng Sinh, sau khi tôi không gặp ông trong khoảng hai tuần, ông hỏi tôi “Et toutes vos fillettes, elles vont bien?”[7] — từ đó tôi thấy rõ là ông đã nhân Lolita duy nhất của tôi với số kiểu trang phục mà con mắt cụp xuống buồn bã của ông thoáng thấy trong toàn bộ những chuỗi diện mạo bên ngoài của nàng: quần jean xanh, váy, quần soọc, áo đầm may chần.
Tôi không thích day đi day lại lâu như thế về ông bạn tội nghiệp (khá buồn là, một năm sau, trong chuyến du lịch đến châu Âu, mà từ đó ông không quay lại nữa, ông bị dính líu vào một sale histoire[8], ở Naples mới bất ngờ chứ!). Tôi chắc sẽ hầu như không nói bóng gió chút nào đến ông nếu sự hiện diện của ông ở Beardsley không có mối liên hệ bất thường đến vậy với trường hợp của tôi. Tôi cần ông để biện hộ cho mình. Ông ta đấy, không có bất cứ chút tài năng nào, một giảng viên xoàng, một học giả vô dụng, một kẻ đồng dâm già nua béo ú rầu rĩ gớm guốc, hết sức khinh bỉ lối sống Mỹ, đắc thắng với sự dốt nát tiếng Anh của mình — ông ta ở đấy, ở New England hợm hĩnh, được già nựng trẻ cưng — ôi chao, được tận hưởng cuộc sống tuyệt vời và lừa gạt tất cả mọi người; còn tôi thì ở đây.
[1]. Sở thích của tôi.
[2]. Vâng, chúng rất xinh.
[3]. Bức vẽ.
[4]. Anh vui lòng lấy một quả trong mấy quả lê này đi. Quý bà tốt bụng sống bên kia phố cho tôi nhiều hơn là tôi có thể thưởng thức được.
[5]. Cô Taylor vừa mới cho tôi những đóa hoa xinh đẹp mà
tôi ghét cay ghét đắng này.
[6]. Chiếu!
[7]. Mấy con bé của anh sao rồi? Chúng ổn hết chứ?
[8]. Chuyện bẩn thỉu.