Giờ là chín rưỡi sáng thứ Bảy hôm sau và tôi đang nhân lúc ánh nắng rực rỡ cùng nhiệt độ dịu nhẹ để cố gắng, bằng phương pháp nghiệp dư của bản thân, nhổ cỏ khu vườn có chuồng bồ câu sau nhà, trong khi Vivien ngồi vắt vẻo trên bức tường đá chực đổ, uống trà từ một trong những chiếc tách rạn của tôi và nói chuyện với tôi khi tôi đang làm việc.
“Ừ.” Tôi đứng thẳng dậy, ném một nắm thứ gì đó tôi hy vọng là cỏ sang một bên. “Tôi e rằng nhà thờ cũng có khuynh hướng đồng ý với cô. Không có chỗ nào giống mục sư thực thụ cả, dù người trong giáo khu của anh ấy nghĩ rằng anh ấy là cả thế giới. Và khi nào muốn, anh ấy có thể trở nên rất nghiêm nghị. Cô có nghĩ đây là cây hoa không?”
Tôi nghiêng đầu sang bên, hồ nghi nhìn loại thực vật nhỏ nhắn, thanh tú với những chiếc lá như dương xỉ.
“Nói thật thì tôi cũng chịu”, Vivien nói. “Tôi hết thuốc chữa với các khu vườn rồi. Coi này, cô có chắc muốn làm không thế? Iain sẽ lột da cô nếu cô nhỡ tay nhổ một trong số mớ cây whatchma-whoosit Nam Mỹ quý báu của anh ấy đấy.”
Tôi tha cho cái cây đáng ngờ kia và nhổ cái đám trông như một lùm cỏ thay vào đó, vênh cằm lên một góc mà anh trai tôi sẽ ngay lập tức nhận ra là sự thách thức.
“Tôi không sợ Iain Sumner. Hơn nữa, anh ta có lẽ không thể làm tất cả mọi việc. Anh ta đang giúp khôi phục khu vườn ở trang viên, đồng thời còn phải chăm sóc khu vườn và đàn cừu của anh ta cùng lúc.”
“Anh ấy còn có một vườn cây ăn quả nữa.”
“Đã bảo rồi mà.” Tôi lôi thêm cụm nữa để nhấn mạnh ý kiến của bản thân. “Tôi vừa giữ cho anh ta khỏi bị suy nhược tinh thần còn gì.”
Vivien nhăn nhó. “Hừm, đừng bảo tôi không cảnh báo cô đấy nhé. Cô sẽ không bao giờ chịu đựng được một trong những tràng mắng mỏ của anh ấy đâu.”
“Chúng không thể tệ hơn những tràng mắng mỏ của anh trai tôi được.”
“Gì cơ, chính người đàn ông đáng yêu ngọt ngào đã ngồi ở quầy bar trong quán của tôi và kể những câu chuyện hài cả buổi chiều đấy á? Đừng có bảo tôi là anh ấy nóng tính đấy nhé?”
“Khè ra lửa với lưu huỳnh luôn”, tôi xác nhận. “Trong tầm vóc của Kinh Thánh.”
“Hừm.” Vivien mỉm cười, lúc lắc đôi chân. “Ít nhất khi Iain bắt đầu quát tháo, trọng âm của anh ấy cũng nặng hơn, nên cô thường không hiểu một từ của anh ấy… Không, đừng nhổ cái đó”, cô ấy đột ngột ngăn tôi lại. “Cái cây đó thì tôi nhớ. Nó là một loại cúc hay gì đó.”
Tôi ngoan ngoãn rụt tay và ngồi lên hai gót, nghiên cứu công sức bằng tay của mình với sự thỏa mãn. Khu vườn trông đã gọn gàng hơn, tôi tự nhủ, và hạnh phúc hơn, được giải thoát khỏi đám thực vật xanh tua tủa ghê rợn đã nuốt chửng những cụm hoa mao lương, mẫu đơn, diên vĩ đỏ tía đang trổ bông tuyệt đẹp.
“Khu vườn thực sự đẹp quá”, tôi nói to và Vivien gật đầu.
“Nằm trên đám phân chim bồ câu tích trữ được vài thế kỷ”, cô ấy phân tích. “Hẳn có vô số đạm trong đất.”
“Tôi không nghĩ thế.” Tôi đứng dậy, gom đống cỏ thành một chồng để vứt đi. “Khi nào nó không được sử dụng làm chuồng nuôi bồ câu nữa?”
“Tôi không biết. Tôi sẽ phải hỏi dì Freda. Chắc chắn vào khoảng thời gian nào đó ở thế kỷ trước. Không còn nhiều người ăn thịt chim bồ câu nữa, phải không?”
“Tôi thì không. Tôi nghĩ những hốc nhỏ này là nơi những chú chim làm tổ.”
Vivien cúi người để nhìn, luồn bàn tay vào một trong những hốc hẹp giữa các tảng đá. “Phải. Cô khó mà nhìn thấy chúng thêm nữa, các tảng đá bị mài mòn rất nhiều. Cô thấy đấy, mấy cái hốc càng mở rộng về phía sau, và những con chim có thể…” Lời nói của cô ấy đột ngột đứt quãng, vẻ mặt thay đổi. “Tôi thì chưa bao giờ!”
“Sao thế?”
“Có gì đó trong đây.” Cô ấy chau mày. “Tôi e mình không thể với tới nó từ vị trí này. Cô có muốn thử không? Tôi dám chắc nó là thứ gì đó làm từ kim loại, ngay đằng sau hốc ẩn náu của lũ chim.”
Cô ấy rút tay ra và tôi bước lên trước, trượt những ngón tay qua lớp đá bạc màu ẩm ướt. Lối vào chật hẹp của cái hốc đột ngột ngoặt sang phải và mở rộng thành không gian như một chiếc hang, có lẽ nó được thiết kế để những con chim bồ câu có một nơi náu mình tách biệt lý tưởng.
Những ngón tay của tôi lướt qua bùn đất lợn cợn và một búi nhỏ cảm giác như một cụm địa y, trước khi chạm vào mảnh kim loại. Đôi bàn tay của tôi khá nhỏ, nhưng tiện thay những ngón tay lại dài, cọ nhẹ cổ tay lên những bức tường mỗi lúc một thắt lại của lối vào, tôi chỉ nắm được vật đó giữa những đầu ngón tay rướn lên của mình.
Tôi rút tay ra và nhìn chằm chằm xuống món đồ nhỏ bé trong lòng bàn tay với vẻ tò mò tột độ.
“Một chiếc chìa khóa”, Vivien thốt ra, thật không cần thiết. “Nơi cất giữ quái thật đấy.”
Tôi nghe thấy tiếng o o hơi nhỏ vọng vào tai, thoáng cảm giác được cơn hoa mắt nhức nhối, và cương quyết nhắm mắt, siết chặt hàm răng đầy quả quyết. Không phải bây giờ, tôi cứng rắn tự nói với bản thân. Không thể xảy ra ngay bây giờ.
Mặt đất rung chuyển rồi lại đứng vững, khi mở mắt, tôi phát hiện Vivien đang cúi người điềm tĩnh nhìn thứ mới khai phá được của chúng tôi. Tôi vẫn đang lâng lâng thì cô ấy hỏi, bằng giọng rất thoải mái:
“Là Geoff đang đến phải không?”
Tôi ngước lên và quay về phía sau nhà, thấy dáng hình thẫm tối quen thuộc đang băng qua bãi cỏ đi đến chỗ chúng tôi. Làm sao cô ấy lại có khả năng biết được anh ta đang lại gần, trong khi bùn đất đã làm giảm tiếng bước chân và chúng tôi vẫn quay lưng về phía anh ta, tôi không sao biết được. Vivien Wells cũng rất thính tai, tôi tư lự, hoặc dì Freda của cô ấy không phải phù thủy duy nhất trong gia đình.
“Phải”, tôi đơn giản nói, “đúng rồi”.
Anh mặc một chiếc áo len màu đen cùng quần jean tối màu, mái tóc đã được cắt tỉa gọn gàng hơn cái lần mới đây tôi trông thấy. Anh đều chân bước đến bên bức tường đổ nát và chống khuỷu tay lên nó, rồi nheo mắt trước ánh mặt trời.
“Buổi sáng tốt lành”, anh lên tiếng. “Và cô đang…” Mặt Geoff đột ngột chảy xệ khi nhận thức được bộ quần áo xù xì lem luốc cùng chồng cỏ dưới chân tôi. “Không phải cô đang khuấy tung khu vườn của Iain đấy chứ?”
Tôi cảm thấy tội lỗi một cách vô lý. “Tôi chỉ nhổ một ít cỏ thôi.”
“Em cảnh báo cô ấy rồi”, Vivien tự biện hộ, “nhưng cô ấy không nghe”.
“Hừm”, Geoff trao cho tôi một ánh nhìn thoáng thương hại, “làm thì cũng làm rồi. Dù thế nào đi nữa bọn tôi cũng đảm bảo cô sẽ có một lễ tang tươm tất”.
Tôi mở miệng định đáp lại thì anh bắt gặp mảnh kim loại ố bẩn trong tay tôi.
“Thứ gì thế này?” Anh nhướn một bên lông mày.
“Chìa khóa.”
“Bọn em tìm thấy nó trong một ổ chim trong hốc tường, đây này”, Vivien bổ sung, khi tôi thất bại trong việc đưa thêm bất cứ thông tin nào cụ thể hơn. “Rất đáng chú ý phải không?”
Anh giơ một bàn tay ra. “Tôi nhìn nó được chứ?”
Nó thậm chí trông còn nhỏ hơn trong bàn tay anh. Anh nhíu mày, lật đi lật lại vài lần và dùng móng tay cạo lên lớp kim loại. “Tôi nghĩ nó làm bằng đồng. Có thể là một chiếc chìa khóa cửa, dù có vẻ không đủ lớn. Thật thú vị.” Anh nghiên cứu thêm một lát, rồi đưa trả lại cho tôi. “Tôi không nghĩ đàn bồ câu thu thập những chiếc chìa khóa.”
“Rất có thể ai đó đã nhét nó vào đây”, Vivien gợi ý.
“Nhưng sao họ lại phiền hà thế?” Geoff hỏi.
Tôi cất chiếc chìa khóa vào túi và nhún vai. “Tôi đoán chúng ta chẳng bao giờ biết được đâu.”
Cả ba chúng tôi lặng người trong khoảng một phút, cân nhắc các khả năng, rồi Vivien quay đầu lại và mỉm cười rạng rỡ.
“Vậy là hai người chuẩn bị đi đến tòa dinh thự đang rao bán gần Calne phải không?”
“Phải.” Tôi gật đầu rồi quay sang Geoff. “Tôi không muộn đấy chứ?”
Anh lắc đầu. “Tôi nghĩ do tôi đến sớm đấy.”
“Dù sao tôi cũng cần thay đồ”, tôi bảo anh, khi nhìn xuống bộ quần áo làm vườn của mình. “Anh không phiền nếu đợi thêm vài phút chứ?”
Vivien vẫy tay tạm biệt tôi. “Cô cứ thong thả đi”, cô ấy nói. “Tôi sẽ tiếp đón anh ấy hộ cô. Tôi không phải mở quán Sư Tử Đỏ trong nửa giờ nữa.”
“Cảm ơn.”
Tôi lao người qua sân vào nhà, chỉ dừng lại ngay sau cửa hậu để đá bay đôi giày tả tơi, trái tim đập cuồng loạn. Tôi càng bị kích thích hơn nữa bởi sự thật mình có thể ghìm “trải nghiệm” kia xảy ra nhờ nỗ lực từ chính khả năng kiềm chế của bản thân, hơn việc phát hiện ra chiếc chìa khóa bí ẩn.
Chiếc chìa khóa nắm giữ mối liên hệ nào đó với Mariana Farr, tôi không còn nghi ngờ gì về điều đó, nhưng tôi biết mình sẽ phải đợi cho đến khi mối liên hệ đó dần lộ ra. Trong khi chờ đợi, tôi có thể ăn mừng trước thông tin mình không chỉ có năng lực tái tạo các hồi tưởng, mà còn ngăn chặn được chúng. Ít nhất hiện thời tôi cũng kiểm soát được và đó là một cảm giác đầy phấn khởi.
Không ít phấn khởi hơn chút nào, tôi nghĩ, so với sự hứa hẹn được dành cả phần còn lại của ngày hôm nay bên cạnh một người đàn ông trẻ trung đẹp trai và tắm mình trong ánh nắng của một chiều mùa xuân lộng lẫy ở nước Anh. Ở trên tầng, tôi cẩn thận đặt chiếc chìa khóa lên bàn trang điểm và mỉm cười với chiếc gương.
Chẳng mấy chốc, sau khi đã tắm và thay sang loại quần áo phù hợp với những món đồ trong tủ áo thường ngày của Geoff, tôi phát hiện bản thân đứng trước một bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng của một lâu đài lớn từ thời Victoria tọa lạc phía bắc ở Calne, bận rộn giữa guồng quay vui vẻ và ồn ã của một phiên bán đấu giá bất động sản của vùng quê một cách rất chân thực.
Những chiếc tủ búp phê, rương đựng quần áo đồ sộ, tủ chén đĩa thanh nhã được xếp thành hàng bên cạnh lối đi trải sỏi, giống như những người lính đang đợi lễ duyệt binh vậy. Vô số các món đồ nhỏ hơn nằm rải trên mấy cái bàn kê trên niễng cùng rương phủ mền, chúng còn tràn ra khỏi những chiếc hộp nhét dưới bàn vì thiếu không gian. Tôi theo chân Geoff qua khu trưng bày hút hồn tột độ, ngừng lại để nghiên cứu chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi ở chỗ này, một hộp nhạc chỗ kia, hay vuốt ve đồ nội thất làm từ gỗ sơn tiêu đặc biệt lôi cuốn.
Cha tôi thích những phiên bán đấu giá thế này vô cùng. Ngay từ khi tôi còn rất nhỏ, ông thường dẫn tôi theo, dạy tôi làm thế nào để phát hiện nét đặc biệt của một chiếc ghế cũ và làm thế nào để nhận ra một người môi giới ẩn giấu giữa những người buôn bán đông đúc ở vùng quê. Có một lần, tôi nhớ lại, tôi muốn một bức tranh chó săn vô cùng. Nó không có gì đặc biệt, chỉ được tô một lớp xenluloit khắp bề mặt thạch cao, một món đồ rẻ tiền từ thời Victoria – nhưng tôi muốn nó. Ấy vậy mà cũng cách đây bảy năm rồi.
Ngày đó, tôi cứ đứng canh giữ báu vật của mình cho đến khi người bán đấu giá đi vòng về phía nó, cũng là lúc tất cả mọi người trong đám đông có thể nhìn thấy tôi đã công khai chủ quyền của mình. Giá khởi điểm – năm mươi xu – là của tôi. Tôi đã quá hăm hở và quyết tâm đến mức khi người bán đấu giá hỏi ai muốn trả ông ta bảy mươi lăm xu, bàn tay tôi lại vọt lên không trung lần nữa, chuyện đó biến tôi thành người đầu tiên trong hạt tự phá mức giá mình vừa đặt ra ở phiên đấu giá. Nếu là người ít cẩn trọng hơn, người bán đấu giá rõ ràng có thể nâng giá lên hai bảng, đúng số tiền tôi mang trong túi, nhưng thay vào đó ông ta chỉ bật cười và trao cho tôi món đồ sặc sỡ đó với cái giá khởi điểm là năm mươi xu.
Sau đó, ông ta cúi xuống và cảnh báo tôi không bao giờ được để ai biết mình khát khao sở hữu một thứ gì đó đến mức nào. “Giờ cháu vẫn còn trẻ, cô bé ạ”, ông ta nói, “và nhiều khả năng sẽ không có ai trả giá cao hơn cháu. Nhưng khi cháu lớn lên, món đồ sẽ trở nên tương đối đắt đỏ đấy”.
Tôi đã quên chuyện gì xảy đến với chú chó săn bằng thạch cao đó từ lâu, nhưng chưa bao giờ quên lời khuyên của người bán đấu giá. Giờ tôi đã nhớ ra nó khi đi qua một thùng đựng sách. Thứ trông có vẻ như ấn bản đầu tiên cuốn Người Hobbit[1] của J.R.R. Tolkien thoáng lướt qua mắt tôi giữa một mớ những cuốn tiểu thuyết trinh thám bìa cứng rẻ tiền. Một cách ngẫu nhiên – ồ, thật ngẫu nhiên – không để lộ sự biến đổi trên nét mặt mình, tôi lật tờ bìa vài cuốn sách trong cái thùng đó, giở vu vơ qua những trang giấy ố vàng.
[1] Cuốn tiểu thuyết Chúa tể của những chiếc nhẫn là phần tiếp nối của cuốn tiểu thuyết này.
“Anh vừa bảo tất cả chỗ này đều chỉ thuộc về một người đàn ông phải không?” Tôi hỏi Geoff, vật lộn để có một tông giọng bình thường.
“Phải. Ngài Ashburn. Tôi tin rằng ông ấy mới qua đời tháng trước. Dù sao ông ấy cũng khoảng chín mươi mấy rồi. Tôi không nhìn thấy ông ấy rất nhiều năm rồi, nhưng ông ấy thường chơi golf với cha tôi khi tôi còn nhỏ.”
Tôi mở một trang cuốn sách của Tolkien để kiểm tra ngày tháng, rồi quay lại mặt sau tờ bìa để đọc trang bìa giả, sự kích động của tôi tăng vọt khi phát hiện một từ viết sai chính tả được sửa lại bằng tay, thêm một chi tiết chứng minh cuốn sách là ấn bản đầu tiên. Gấp cuốn sách lại, tôi nhìn Geoff và mỉm cười.
“Thị hiếu của ngài Ashburn chắc chắn theo chủ nghĩa chiết trung[2]”, tôi bình luận.
[2] Chủ nghĩa pha trộn, phối hợp nhiều chi tiết, trường phái, phong cách khác nhau.
Anh gật đầu. “Và cả tấn tiền. Quả thực ông ấy mang hơi hướng của người theo phái chiết trung, gần như là lập dị. Thậm chí không bao giờ sống trong tòa nhà chính. Ông ấy sống tại một ngôi nhà tranh ở ngay kia.” Anh chỉ về phía mái nhà giữa hàng cây cối ở đằng sau khu đất. “Biến ngôi nhà thành một kiểu bảo tàng, cho mình ông ấy sử dụng.”
“Tôi đoán chúng ta nên cảm ơn ông ấy vì điều đó”, tôi nói, để mặc đôi mắt lang thang khắp bãi cỏ huyên náo và đám đông người mua cũng như săn lùng đồ cổ. “Anh có thấy hứng thú với thứ gì không?”
“Một vài, những quả địa cầu kia, là một ví dụ.” Anh hất đầu về phía một cặp địa cầu bày trong thư viện, tượng trưng cho đất và trời, cách chúng tôi vài mét bên phía trái. “Niên đại của chúng là 1828, ở trong tình trạng tương đối tốt. Giá đỡ bằng gỗ hồng mộc, tôi nghĩ vậy, càng nâng cao giá trị của chúng hơn. Tôi luôn tìm kiếm một thứ gì đó để bổ sung nét đặc sắc cho ngôi nhà.”
Tôi đang mỉm cười trước ý nghĩ ai đó lại đi cho lâu đài Crofton là một “ngôi nhà” đơn thuần, dù nó không lớn hơn tòa nhà một tầng ba phòng ngủ, khi người bán đấu giá ngập ngừng hắng giọng vào micro và đề nghị đám đông trật tự. Geoff khá tự nhiên choàng tay quanh vai tôi và dẫn tôi đến rìa một đám người đứng túm năm tụm ba. Cúi đầu xuống, anh nói nhỏ vào tai tôi.
“Cô sẽ trả giá cho món đó chứ?”
“Trả giá cho món gì?”
“Cuốn của Tolkien”, anh mỉm cười nói. Tôi có thể cảm nhận được nụ cười đó trên tóc mình và cố tỏ ra điềm nhiên để lờ sự xúc động của mình đi. “Nó là ấn bản đầu tiên phải không?”
“Phải.” Mặc kệ ý chí của bản thân, tôi mỉm cười đáp lại. “Và đúng, tôi định trả giá cho món đó.”
Tình cờ, khi thùng sách cuối cùng cũng mang lên, tôi không trả quá cao. Tôi liếc nhìn về phía người đàn ông đang có mức giá cao hơn, tôi hạ tay xuống và từ chối theo đến cùng.
Geoff huých vào vai tôi. “Sao cô không trả tiếp?”.
“Bởi người đàn ông đó là một người môi giới”, tôi nói. “Ông ta biết rõ giá trị của các cuốn sách và tôi không thể trả cao hơn được.”
Geoff nhìn theo ánh mắt tôi đến chỗ người đàn ông chưa chắc đã lù đù như vẻ bề ngoài giữa đám đông, đôi bàn tay ông ta đút trong túi, một chiếc tẩu làm từ rễ thạch nam dùng thường xuyên được ngậm chặt giữa hàm răng, trông không khác gì một người nông dân.
“Cô chắc chứ?”
“Tôi chắc chắn.”
Anh suy nghĩ một lúc. “Cô có muốn tôi mua nó cho cô không?”
“Không.” Câu trả lời thoát ra hơi quá vội vàng một chút, nhưng tôi không muốn Geoffrey de Mornay nghĩ toàn bộ hứng thú của tôi đều đặt ở tiền của anh. “Không”, tôi lặp lại, uyển chuyển hơn, “cảm ơn anh nhiều lắm, nhưng nó không quan trọng với tôi thế đâu”.
Tôi cắn môi và làm khán giả khi màn đấu giá leo thang lên đến con số hàng trăm, cho đến khi chắc chắn người môi giới kia sẽ thắng, rồi theo dõi với vẻ thích thú thời điểm biểu cảm bảnh chọe bị lột khỏi mặt ông ta bởi người tham dự vào phút cuối, khi người đó phỗng tay trên hộp sách với cái giá năm trăm bảng chưa từng được vang lên. Những tiếng rì rầm kích động rộ lên khắp đám đông lúc người đàn ông có bộ râu màu xám tiến lên trước đón món đồ mới mua được. Người môi giới, khao khát nhưng không nhiều đến thế, sững sờ, khoanh hai tay và giận dữ thổi ống tẩu phì phì, tuôn ra một tràng liên tiếp những cuộn khói xanh nhạt phụt lên bầu không khí tươi mát, trong lành.
Về phần mình, tôi tự an ủi bản thân bằng việc trả giá cho món đồ tiếp theo, một chiếc bàn gấp nhỏ đơn giản bằng gỗ sồi, dường như tôi đã mua đắt hơn giá trị thực của nó. Tôi hân hoan ôm chặt nó vào người, trong khi người bán đấu giá tiếp tục.
“Đây rồi”, ông ta tuyên bố đầy lôi cuốn, “một cặp địa cầu thư viện của Cary, từ năm 1828, làm từ gỗ hồng mộc và gỗ sồi sơn màu với phần bao quanh toàn bộ bằng gỗ hoàng dương. Ai sẽ trả cho tôi năm nghìn bảng cho mức khởi điểm?”.
Những người môi giới thi nhau đặt giá, và bên cạnh tôi, Geoff gật đầu với người bán đấu giá, rõ ràng anh khá thân thuộc với ông ta. Khi mức giá dừng lại ở hai mươi mốt nghìn bảng, toàn bộ đám đông – bao gồm cả tôi – dường như đều thở hắt ra, không ít mái đầu quay ra nhìn chằm chằm người đàn ông trẻ khiêm tốn và đẹp trai đưa ra mức giá cuối cùng.
Geoff rút quyển séc để tiến hành trả tiền, tôi đứng đó nhăn mày một lúc, nhìn anh và nghĩ về hố sâu địa vị xã hội chia cách chúng tôi. Anh là lãnh chúa của một trang viên, vì Chúa, tôi tự nhắc bản thân. Và dù cụm từ đó nghe có vẻ như ở thời trung cổ, nhưng chẳng có tí tính chất trung cổ nào trước sự thật tài khoản ngân hàng của anh sẽ biến các khoản thu thập của tôi chỉ như chút tiền lẻ nhét trong túi. Tôi hẳn đã mất trí rồi.
Nhưng khi Geoff quay lại, mới nhìn vào gương mặt đó thôi mà cái cảm giác e ngại về việc bản thân thuộc tầng lớp trung lưu đã bị tôi quên bay biến. Vào giờ phút này, Geoffey de Mornay chẳng có điểm nào giống vị lãnh chúa của một vùng đất nữa cả. Tôi nghĩ anh trông hệt như một cậu bé – hạnh phúc, vô tư lự và hài lòng tột độ với bản thân mình.
“Có gì xảy ra trong lúc tôi đi không?” Anh hỏi.
“Không nhiều lắm. Một vài quý bà ngất xỉu khi họ nhìn thấy anh viết tấm séc đó, ngoài ra thì khá buồn tẻ.”
Anh bật cười, hơi ngửa đầu và nhìn tôi trìu mến. Anh đã từng bảo tôi rằng không cần xin ai thứ lỗi vì sự thông minh của bản thân và giờ anh cũng không cần xin tôi thứ lỗi vì sự giàu có của mình. Tôi thích anh vì điều đó. Thay vào đấy, anh lại vòng tay ôm lấy vai tôi và hướng sự chú ý của tôi về chiếc tủ búp phê gần đó. “Tự bản thân cái tủ thì không có gì”, anh nói, “nhưng tôi cược cặp bình pha lê đặt trong đó ít nhất cũng sẽ ra đi với sáu nghìn bảng”.
Tôi ngó theo. “Chấp nhận”, tôi đồng ý đánh cược. “Tôi đặt năm mươi xu.”
Chúng tôi lưu lại thêm khoảng một giờ – đủ lâu cho tôi mất năm mươi xu và chi thêm hai mươi lăm bảng nữa cho một bức tranh hoàn toàn không cần thiết với hành lang nhà mình – rồi, một cách miễn cưỡng, chúng tôi đi xuống cuối lối lái xe, nơi đã hơi ngổn ngang bởi những món hàng cồng kềnh.
Người đàn ông râu xám cắp cái hộp dựa vào nắp xe của Geoff, hút một điếu thuốc và lơ đãng nhìn trở lại phiên bán đấu giá đang tiếp diễn với vẻ mặt điềm tĩnh. Ông ta trở người khi chúng tôi lại gần.
“Xin lỗi”, ông ta tạ lỗi với Geoff. “Tôi đang đợi con trai đến đón. Không thể tưởng tượng có thể tha chỗ này”, ông ta ra hiệu về phía thùng sách, “đi xa hơn được nữa”.
“Tôi không trách ông”, Geoff vừa cố gắng vật lộn cho những quả địa cầu thư viện đáng ao ước của mình vào cốp sao cho nguyên vẹn vừa nói.
Tôi mỉm cười với người đàn ông lớn tuổi. “Cái giá ông phải trả ở đó tương đối lớn.”
“Tôi biết.” Ông ta tường tận gật đầu. “Cha tôi sáng tác hầu hết những cuốn tiểu thuyết trinh thám đó. Không thể định giá, phải không?”
Geoff ngừng cất đồ và bắn cho tôi một cái liếc đầy hàm ý, nhưng tôi đã bắt đầu.
“Ôi, nhìn này!” Tôi cúi xuống và rút quyển sách của Tolkien khỏi những cuốn sách nằm sõng soài, giả vờ ngạc nhiên. “Quyển Người Hobbit này! Nhìn xem, anh yêu, đây chẳng phải là cuốn sách yêu thích của Jimmy bé bỏng nhà mình sao?”
Geoff chỉ cười nhăn nhở với tôi, từ chối diễn trò và tôi hướng gương mặt tràn trề hy vọng, dò hỏi sang người đàn ông lớn tuổi hiền lành, hy vọng ít nhất tôi vẫn còn giữ lại chút khẩn khoản ngây ngô mình có khi còn là đứa trẻ bảy tuổi.
“Tôi không cho rằng”, tôi nói, ngập ngừng đôi chút, “tôi không cho rằng ông…”.
“Cô có thể lấy nó”, ông ta hào phóng nói. “Tôi muốn mua đống tiểu thuyết trinh thám thôi. Cô cứ lấy cuốn sách đó đi, cho con trai cô.”
Đạt được mục đích nhưng tôi vẫn cảm giác cơn nhức nhối tội lỗi chích vào người.
“Hãy để tôi trả tiền”, tôi đề nghị và đưa cho ông tờ mười bảng, điều đó làm giảm đáng kể cảm giác tội lỗi của tôi, và ông ta đã chấp nhận. “Sau cùng”, tôi mỉm cười thật rộng, “nó chắc chắn phải là thứ gì đó rất đáng giá”.
Geoff đóng sập cốp với tiếng ho kỳ quặc và mở cánh cửa xe cho tôi. “Đến đây nào, em yêu”, anh nói. “Chúng ta phải đi rồi.”
Trong xe, anh trao cho tôi cái nhìn thật dài khác trước khi cả hai phá lên cười trước vận may của tôi.
“Cô thật đáng xấu hổ”, anh buộc tội. “Giỏi kinh hoàng, nhưng đáng xấu hổ.”
“Tôi đã có một giáo viên tuyệt vời”, tôi giải thích, trong vài dặm tiếp theo, tôi kể cho anh về những kỳ công trong các phiên đấu giá của cha tôi cũng như tài diễn trò quỷ quyệt chảy mạnh mẽ trong dòng máu gia đình tôi.
“Từ những gì vừa nghe nói, tôi rất thích thú nếu được gặp cha cô”, Geoff nói.
Câu trả lời của tôi chỉ hơn một lời lẩm bẩm vô thưởng vô phạt một chút. Cũng may cho Geoff, tôi nghĩ, rằng cha tôi vẫn đang ở nước ngoài. Các bạn trai cũ của tôi đã chạy trối chết và tìm chỗ núp ngay khi nhìn thấy ông, chuyện đó thành thông lệ rồi. Những lần đó, cha tôi còn hơn cả khó tính, ông vẫn chưa tìm thấy một chàng trai trẻ nào đạt được đến những tiêu chuẩn khắt khe của mình. Điều tốt nhất, tôi phát hiện ra là đơn giản không giới thiệu họ với ông. Như vậy sẽ tránh được rất nhiều lo lắng, một cách toàn diện.
Chuyến lái xe trở về Exbury xa xôi lại trở nên quá ngắn, chẳng mấy chốc chúng tôi đã lái xe lên hông nhà tôi. Geoff vươn tay ra sau và đưa cho tôi chiếc bàn gấp và bức tranh lồng khung nho nhỏ mà tôi đã ngớ ngẩn mua về. Lần đầu tiên trong ngày hôm ấy, cách ăn nói của chúng tôi trở nên câu nệ.
“Vui thật đấy”, tôi nói. “Tôi thực sự rất lấy làm thích thú.”
“Tôi cũng vậy.” Anh nhìn lên đôi bàn tay đặt trên vô lăng. “Nghe này”, anh nói, “tôi lại phải lên phía bắc vài ngày, thậm chí có thể đi đến một tuần, nhưng khi quay lại, tôi muốn gặp lại em”. Anh quay sang nhìn tôi. “Tôi muốn mời em đi ăn tối.”
“Tôi thích lắm”, tôi nói và anh mỉm cười, toàn bộ sự quyến rũ của anh ngay lập tức khiến tôi choáng váng.
Nụ hôn này tuyệt hơn nụ hôn đầu tiên. Thứ nhất, tôi lý luận, chúng tôi đã biết về người kia trong gần hai tuần dài và chúng tôi vừa mới chia sẻ một ngày tuyệt đối hoàn hảo bên nhau. Khi nụ hôn kết thúc, tôi gửi đến anh một nụ cười hạnh phúc và vươn tay tìm tay nắm cửa xe.
“Tạm biệt.”
Anh nhoài người qua ghế, giúp tôi mở cửa.
“Em có chắc mình sẽ ổn với thứ đó không?”
“Vâng, cảm ơn anh.” Tôi gật đầu, ôm các món đồ của mình vào người chặt hơn.
“Vậy thì được rồi.” Anh lại cười. “Tôi sẽ gọi điện cho em khi quay lại.”
Tôi nhìn anh lái xe đi, cảm giác hạnh phúc đến buồn cười, tôi gần như nhảy múa quanh nhà đến cửa sau. Tương phản với tâm trạng của tôi, chiếc chìa khóa từ chối xoay mình trong ổ khóa mới. Trong quá trình vật lộn với nó, chiếc bàn gỗ gấp bằng gỗ sồi trượt khỏi tay tôi và rơi lạch cạch xuống đất, chỉ sượt qua những bậc thềm bằng đá vài centimet.
“Chết tiệt!” Tôi nguyền rủa anh trai cùng cái khóa và quỳ xuống mặt cỏ để nhặt chiếc bàn. Nó bung hết ra khi rơi xuống, bề mặt bọc nhung dùng để viết vốn đã lỏng lẻo xệch hẳn một góc khỏi những khớp nối. Tôi đóng chiếc hộp và dùng ngón tay lau vết bẩn khỏi chữ H bay bướm trên bảng tên bằng đồng.
Khi tôi nhặt cái bàn lên, thứ gì đó bên trong kêu lạch cạch, và tôi thầm rên rỉ, đập mạnh vào cửa sau với sức lực vừa mới phục hồi. Lần này, ổ khóa đã hợp tác, một cách cứng nhắc. Tôi dùng vai đẩy cửa mở, thêm lần nữa đá nó đóng lại sau lưng.
Đặt những món đồ mới mua lên bàn bếp, tôi lại mở chiếc bàn gấp và kiểm tra khoang rỗng bên dưới mặt bàn. Trông không có thứ gì bị vỡ, nhưng một ngăn kéo bí mật đã bị bung lỏng vì cú rơi. Bằng những ngón tay tò mò, tôi dùng lực kéo nó mở ra hoàn toàn.
Bên trong ngăn kéo là một chiếc vòng thủ công xinh xắn từ những lá vàng dát mỏng ố màu, một dải những chú chim thiên đường với đôi mắt bằng thủy tinh xanh lấp lánh như những viên đá quý lộng lẫy.