Nhưng ngày hôm nay anh trông không giống quỷ cho lắm. Thay vào bộ đồ đen thường gặp là một chiếc áo choàng đắt tiền màu lông bồ câu xám, và chiếc cà vạt đơn giản lộ ra ngoài chiếc áo gi lê lụa màu vàng ôm chặt lấy cơ thể bằng một chiếc thắt lưng to bản. Tôi rất vui khi thấy anh không theo phong cách thời trang chưng diện của các quý ông Luân Đôn. Chiếc quần ống túm cũng không bùng nhùng và đầy ruy băng; chúng bó khít quanh cặp đùi cơ bắp và biến mất trong đôi bốt tiện dụng ở vùng quê. Không có những chiếc giày gót cao cùng những chiếc khóa và nơ dành cho lãnh chúa trang viên Exbury.
Tôi dùng tay vuốt phẳng vạt váy và nhìn anh một cách can đảm. “Tôi chỉ nhận lời mời của một quý ông thôi, thưa ngài”, tôi êm ái chỉnh anh, “để mượn vài cuốn sách của ngài ấy”.
“May cho em tôi là một quý ông”, đôi mắt anh cười với tôi, “để em mạo hiểm đến một mình thế này. Đảm bảo lúc này người hầu nhà tôi đang lũ lượt ngất xỉu vì hành động thiếu lịch sự này cho xem”. Tôi mỉm cười khi nhớ lại biểu cảm trên gương mặt người đàn ông đã mở cửa cho mình và lời lắp bắp bối rối lúc bỏ tôi lại để đi tìm ông chủ của anh ta. Một ý nghĩ thình lình tấn công, làm tôi nghiêm túc ngước lên.
“Họ sẽ không để lộ chứ?” Tôi nói nhanh. “Chuyện này, bác tôi…”
“… sẽ không bao giờ được nghe về chuyến phiêu lưu của em”, Richard de Mornay kết thúc câu nói hộ tôi. “Người hầu nhà tôi có thể theo Thanh giáo, nhưng họ cũng rất trung thành. Tôi nghĩ bác em không ở nhà.” Tôi gật đầu. “Ông xuống Salisbury với bác Caroline.”
“Vậy ư?” Tôi nghĩ trong vài khắc, đôi mắt anh đanh lại, nhưng đó chỉ là một ấn tượng thoáng qua và nhanh chóng bị quên đi. “Hừm, vậy tức là chuyến thăm của em không cần vội vã”, anh chắc chắn. “Em muốn xem thư viện trước, hay cả ngôi nhà?”
Đây là một câu hỏi lựa chọn đơn giản. “Xin đưa tôi đến thư viện.”
“Như em muốn.” Anh gật đầu, ra chiều không hề bất ngờ. “Vậy thì theo tôi nào.”
Anh dẫn tôi đi dọc hành lang tối đen và bước ra một lối đi dưới hàng hiên dẫn vào một khoảnh sân nhỏ tĩnh lặng, mát lạnh, xanh mướt và yên bình. Không có bông hoa nào nở trong này ngoài một ít dây hoa mảnh dẻ đáng yêu cuốn quanh một tảng đá trắng hình vuông trên nền đất.
“Mộ của mẹ tôi”. Richard nói, khi tôi hỏi anh đó là gì. “Là tín đồ Công giáo, bà từ chối được chôn trong nghĩa địa của nhà thờ.”
Tôi nhăn mày trầm tư. “Đó là lý do anh không tham dự các buổi lễ phải không?”
“Tôi thà nộp phạt và cầu nguyện theo lương tâm còn hơn”, anh đáp. “Tôi không thể tán thành bất cứ nhà thờ nào quá mức xét nét một người phụ nữ ngoan đạo như vậy.”
Anh đẩy mở cánh cửa nặng nề kêu kẽo kẹt và dẫn tôi vào một hành lang khác, nơi bầu không khí nặng trĩu hương thơm cay nồng từ đồ da. Tôi thường mơ về những căn phòng không chứa gì khác ngoại trừ những cuốn sách, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự nhìn thấy một căn phòng như thế, bởi vậy ngay ánh nhìn đầu tiên trước thư viện của Richard de Mornay lập tức khiến tôi đờ người câm lặng.
“Tất cả chỗ này đều thuộc về anh sao?” Tôi kinh ngạc hỏi, đôi mắt rà khắp hàng sách trải ra vô tận và anh bật cười trước sự ghen tị vô biên trên gương mặt tôi.
“Ừ. Một ngày nào đó tôi sẽ xây một căn phòng rộng hơn cho chúng, nhưng giờ cũng đủ rồi. Em có thể mượn bất cứ thứ gì em thích.”
Tôi phải mất cả tháng mới đọc được hết tất cả các tiêu đề. Tôi tiến lên trước và chọn nhanh một cuốn sách nhỏ, dày cộm từ một trong những chiếc kệ thấp hơn. “Tôi có thể chọn cuốn này không?” Tôi hỏi anh.
“Shakespeare?” Anh gọi tên sự lựa chọn của tôi, rồi hiếu kỳ nhướn một bên mày. “Cứ lấy đi, nếu em muốn. Đó là Ấn phẩm thứ Hai[1], và bao gồm một bài thơ kỳ dị của Milton, kẻ tội đồ già nua, dưới dạng thường được khắc trên bia mộ.”
[1] Nguyên tác: Second Folio – tên đặt cho tuyển tập các tác phẩm của William Shakepeare ra đời vào năm 1632, tiếp theo ấn phẩm đầu tiên in năm 1623.
Một cách thành kính, tôi vuốt nhẹ những ngón tay lên bìa cuốn sách. “Cha tôi thường ca ngợi thơ của Milton”, tôi nói, “dù ông không tán đồng những quan điểm chính trị của ông ta”.
“Ông ta là một kẻ đáng ghê tởm”. Richard đồng ý, “nhưng cũng là một nhà thơ phi thường. Tôi nghe nói ông ta vừa hoàn thành một thiên anh hùng ca về sự sụp đổ của con người, nhưng không thể tìm được chỗ nào in cuốn đó”.
Kể từ giai đoạn Không người trị vì, Milton hung hăng đã bị mất đi sủng ái, và người đàn ông từng viết những dòng độc địa bảo vệ phe muốn hạ sát nhà vua giờ đang sống trong mù lòa cùng nỗi cô đơn cay đắng. Còn tôi, tôi là người không hề thương tiếc trước sự suy sụp của ông ta. Sự cuồng tín ở ông ta luôn luôn khiến tôi sợ hãi.
Chọn xong, chúng tôi rời thư viện và đi dọc theo sân trong thêm lần nữa, rồi lần này bước qua một cánh cửa khác để vào phần chính của ngôi nhà. Tôi đi theo vị chủ nhà xuôi theo một hành lang trưng bày dài, nơi những tấm chân dung thẫm tối nhìn trừng trừng xuống tôi từ vị trí đầy lợi thế của chúng trên bức tường ốp gỗ. Mọi ánh mắt đều mang vẻ chê trách. Mọi ánh mắt đều như vậy, ngoại trừ cặp mắt thuộc về một người đàn ông trẻ bướng bỉnh trên tấm chân dung gần cuối cùng.
“Là tấm chân dung của ngài sao, thưa ngài?” Tôi ngừng lại để nhìn. “Một sự tương đồng tuyệt vời.” “Được vẽ bởi Lely”, anh nói với tôi trong khi cho bức tranh của mình một ánh nhìn định giá, “không lâu sau khi tôi trở về từ Pháp. Một chút hư vinh nho nhỏ, về phần của tôi”.
“Và đây?” Tôi di chuyển sang tấm chân dung thứ hai và thoáng nhíu mày trước gương mặt của một cậu bé bảnh chọe tự mãn với mái tóc xoăn vàng và đôi mắt biếng nhác.
Richard nhìn theo. “Arthur, cháu tôi”, anh nhận diện đứa bé. “Nó có vẻ ngoài của em trai tôi, nhưng tôi e không có tính nết của em trai tôi.”
Tôi lừng chừng không muốn đi, nhưng anh đẩy tôi về phía trước, đi qua một khung cửa khác để vào một căn phòng rộng mênh mông có những khung cửa kính sáng choang và trần nhà dường như cũng cao vời vợi như những mái vòm trong một nhà thờ lớn.
“Ôi”, tôi thở hắt ra, đôi mắt hướng tít lên cao. Đây là một căn phòng, tôi kinh ngạc, dành cho một công chúa. Những tấm vải nhung và thảm len trang trí màu đỏ thẫm và xanh biển treo đầy các bức tường, phô bày hình ảnh của các thần dê mắt đen bóng cùng các tiên nữ trắng nõn nà, có Vulcan[2], Venus cùng rất đông các vị anh hùng cổ xưa. Bao quanh căn phòng là những bộ móc đèn treo tường bằng bạc cắm đầy nến, sẵn sàng chiếu rọi đại sảnh với hàng trăm đốm sáng và xua đi màn đêm mãi mãi. Ánh sáng cũng tỏa ra từ lò sưởi nữa, tôi thầm nghĩ, lò sưởi bằng đá cỡ lớn có thể đút vừa những thanh gỗ cháy rừng rực có chiều dài và bề ngang bằng cả một người đàn ông…
[2] Thần thợ rèn, người chồng chính thức của Venus – thần vệ nữ trong thần thoại Hy Lạp.
“Đây là một căn phòng đẹp”, Richard nói, bên cạnh tôi. “Tôi rất hối tiếc khi đồ đạc nghèo nàn như vậy, nhưng phần lớn đồ đạc đã bị bán đi trong suốt những năm cha tôi bị giam cầm.”
Quả thật căn phòng không có mấy đồ đạc, ngoại trừ vài chiếc ghế và bàn nhỏ, đặt gần lò sưởi lạnh lẽo, nhưng dường như cũng chẳng đáng bận tâm. Tôi tiến một bước lên trước, vươn cổ để nhìn lên huy hiệu chạm khắc trên mặt lò sưởi.
“Gia huy của gia đình tôi”, anh cho biết. “Những con diều hâu đội mũ giáp nhắc chúng tôi nhớ không được tin cậy những gì mắt mình nhìn thấy trên chiến trường, mà phải mù quáng theo sau đức vua. Chúng tôi nghe theo trái tim dẫn dắt”, anh giải thích, “chứ không phải trí óc. Và xem xem chúng tôi đã phải trả giá biết bao nhiêu”.
“Nhưng các ngài không thể bị phá hủy”, tôi chỉ ra. “Như khẩu hiệu của gia đình ngài, ít nhất cũng được phần nào an ủi.”
“Em đọc được tiếng Latin sao?” Giọng anh hoài nghi, tôi thì xấu hổ cụp mắt xuống. “Cha tôi đã dạy tôi”, tôi lí nhí thủ thế. “Ông bảo nếu một nữ hoàng có thể đọc được tiếng Latin, thì tôi cũng nên như thế.”
“Cha em hẳn phải là một người đàn ông phi thường. Ông mới mất gần đây phải không?”
Tôi lắc đầu. “Chín năm trước rồi. Ông bị sốt, rồi không hồi phục được nữa. Năm ấy tôi mười một tuổi.”
“Em không giữ lại cuốn sách nào của ông cho bản thân mình sao?”
“Chúng bị đốt”, tôi nói thẳng. “Mọi thứ trong ngôi nhà đều bị đốt cháy, sau cái chết của mẹ tôi, vì sợ bệnh dịch.”
Anh nhìn chăm chú xuống tôi. “Mẹ em chết vì bệnh dịch sao?”
Tôi gật đầu, không thể thốt nên lời, còn anh hơi lắc đầu đồng tình. “Chuyện đó thật kinh khủng”, anh nói. “Tôi nghe nói khoảng năm trăm người đã chết vì bệnh dịch ở Luân Đôn chỉ trong một tuần vừa rồi, và còn tăng nữa.”
“Sự báo thù của Chúa với những kẻ xấu xa”, tôi lơ đễnh nói chậm, rồi liếc nhìn lên xin lỗi. “Đó là điều bác tôi đã nói.”
Gương mặt anh đanh lại. “Bác em là một tên ngốc. Sự báo thù chỉ có trong tâm trí của ông ta chứ chẳng ở nơi nào khác. Ông ta ở phe chiến bại, nên ông ta muốn nhìn những kẻ chiến thắng khốn khổ.”
Tôi trừng mắt nhìn anh, không hiểu hết những gì anh nói, anh đột nhiên mỉm cười, sắc tăm tối tan dần khỏi gương mặt. “Cuộc chuyện trò của chúng ta dần trở nên thê lương rồi”, anh phàn nàn. “Tôi xin lỗi. Lại đây nào, hãy để tôi dẫn em tham quan ngôi nhà trước khi chúng ta dùng bữa.”
“Tôi không thể ở lại dùng bữa với ngài được, thưa ngài”, tôi lắc đầu phản đối.
“Tôi nhất định phải mời em ở lại. Tôi không được thiết đãi khách khứa thế này.”
Tôi đứng chôn chân tại chỗ. “Tôi không thể”, tôi lặp lại. “Rachel sẽ lo lắng nếu tôi về nhà muộn.”
Anh cười ranh mãnh. “Tôi có thể cho Evan đến Đàn Cừu Xám, để báo cho cô ấy biết về sự chậm trễ của em”, anh nói. “Rồi cô ấy sẽ không quá thiết tha chờ đợi em về nhà đâu.”
Tôi bắn cho anh ánh nhìn hốt hoảng. “Ngài nhất định không thể cho Evan đến chỗ cô ấy được!”
“Theo những gì tôi biết thì cậu ta giờ đã ở đấy rồi.”
“Nhưng Rachel đính hôn rồi”, tôi nói với anh, “với Elias Webb”.
“Thì sao?” Anh nhún vai. “Có thể dễ dàng thấy được cô ấy không yêu lão già hủ bại kia. Và tôi đánh cược Evan sẽ không phấn khởi nhường bước sang một bên trước viên khâm sai xấu xa của chúng ta đâu.”
“Cô ấy không thể chống lại bác tôi”, tôi lặng lẽ nói.
“Vậy thì cô ta không xứng với tình yêu của bạn tôi. Thề có Chúa, tôi khinh thường người đàn bà nào yếu đuối và màu mè!” Tôi biết anh đang thách thức tôi.
Anh tiến lại gần hơn, đẩy tôi dựa vào lò sưởi. “Em sẽ ở lại dùng bữa với tôi chứ, hay là không?”
Tôi lại lắc đầu, bởi không tin vào giọng nói của bản thân.
“Thôi thì một điệu nhảy vậy”, anh bất ngờ đề nghị, nét cười lấp lánh trong đôi mắt. “Phải có gì đó đền bù cho lòng mến khách của tôi chứ.”
“Tôi không biết nhảy.”
“Tôi sẽ nhảy những bước đơn giản thôi”, anh hứa hẹn, còn tôi thì bất lực lắc đầu. Khiêu vũ nơi không người với một người đàn ông thì đúng là chưa từng nghe nói bao giờ, tôi thầm nghĩ, và người đàn ông đó lại còn không phải chồng mình nữa chứ. Làm như vậy chẳng khác gì một cô gái làng chơi hay những kẻ thiếu đứng đắn, ấy vậy mà ý nghĩ về nó vẫn khiến máu tôi chảy rần rật vì sự kích động rất đáng chê trách này.
“Không có nhạc”, tôi vừa nhận xét vừa rút lui thêm một bước nữa. Richard de Mornay mỉm cười. “Em có muốn tôi gọi cậu bé trông ngựa nhà tôi không? Cậu ta chơi đàn luýt giỏi vô cùng, tôi đảm bảo cậu ta sẽ đồng ý chơi một giai điệu có thể khiêu vũ được cho chúng ta.”
“Không”, tôi ngập ngừng nói, không mong muốn có nhân chứng cho sự điên rồ của bản thân.
“Vậy thì em phải nhảy chay thôi. Hoặc tôi có thể hát, nếu em muốn.” Anh chìa bàn tay ra. “Lại đây nào, em đâu phải người hèn nhát. Một điệu vũ, một bước đơn giản, và hết nợ.”
Sập bẫy, tôi đón lấy tay anh.
Sau cùng thì anh cũng hát, êm ái và bằng tiếng Pháp. Anh có một chất giọng trầm và dịu dàng, hơi thở ấm áp phả lên má tôi khi anh dẫn tôi xoay vòng quanh căn phòng vắng lặng âm vang. Đó là một cảm giác đầy tội lỗi.
Tôi húng hắng ho một chút. “Ca khúc ngài hát tên là gì vậy?”
“Aux plaisirs, aux délices, bergères[3]”, anh đáp. “Mẹ tôi thường hát cho tôi nghe khi tôi còn nhỏ.”
[3] Được Pierre Guédron sáng tác.
“Nghe có vẻ là một bài hát vui vẻ.”
“Đúng vậy. Nó khuyên chúng ta nên sống trong tình yêu, vì thời gian một đi không trở lại, từng giờ từng giờ, cho đến khi những gì còn sót lại chỉ là nỗi tiếc nuối.” Anh xoay người tôi ra xa bên dưới những khung cửa sổ dài. “A vamour, aux plaisir, aux boccage”, anh dịu dàng trích dẫn, rồi dịch sang tiếng Anh: “Trong tình yêu, trong đê mê, trong những khu rừng, hãy sống hết mình những ngày tươi đẹp..”
Tôi lặng câm ngước nhìn lên anh, trái tim như muốn nhảy lên cổ họng. Tôi không phát hiện chính xác chúng tôi đã ngừng khiêu vũ từ lúc nào, lúc anh hướng đôi mắt sâu thẳm, mang sắc xanh ngắt của khu rừng và dùng đụng chạm tinh tế vạch theo đường nét gương mặt tôi.
“Đây là những ngày tươi đẹp của em, Mariana Farr ạ”, anh dịu dàng nói, rồi bờ vai che hết ánh mặt trời lúc cúi đầu xuống hôn tôi.
Hẳn anh sẽ phát hiện ra đây là lần đầu tiên tôi được một người đàn ông hôn. Tôi không biết phải làm sao, không biết làm thế nào đáp lại cơn xúc cảm lạ lẫm và mới mẻ dâng lên trong người. Đụng chạm của anh quá tuyệt vời, quá ngọt ngào, dịu nhẹ và đau đớn, để rồi lúc kết thúc tôi có cảm giác như thể mình vừa bị chiếm đoạt.
Anh nhìn tôi và bật cười, anh ôm mặt tôi trong tay và nói điều gì đó, bằng tiếng Pháp trầm thấp, cụm từ nào đó tôi không thể bắt kịp, gương mặt anh lại nhòe trước mắt tôi lúc anh cúi mình hôn tôi lần nữa…
Cảnh tượng trước mắt tôi trở nên rõ ràng. Tôi đang đứng, trơ trọi một mình, cạnh những khung cửa sổ cao vời vợi ở đại sảnh, nhìn chằm chằm ra ngoài bãi cỏ nơi hội tụ của những chiếc bóng chiều muộn đang dần vươn xa. Tôi có thể nhìn thấy Geoff và Iain, vẫn đứng trong vườn hồng cạnh bức tường ngăn cách nghĩa địa của nhà thờ, mái đầu đen cúi xuống mái đầu màu nâu đỏ, chăm chú lắng nghe, trong khi Iain chống người lên chiếc thuổng và nói chuyện.
Thực sự tôi chỉ nhìn thấy họ trong thoáng chốc, và sau đó tầm nhìn của tôi nhòe đi, lần này là vì những giọt nước mắt. Tôi nhanh chóng chớp mắt ngăn chúng lại, song chúng lại dâng lên từ nơi nào đó tưởng chừng như vô tận sâu bên trong tôi, tuôn trào dữ dội trong đôi mắt đớn đau của tôi. Khóc thế này thật ngu ngốc, tôi kiên định nhắc nhở bản thân. Vô cùng ngu ngốc. Sau cùng, đó chỉ là một nụ hôn, và đã diễn ra từ lâu… từ quá lâu rồi…
Tôi nghe thấy tiếng bước chân ngập ngừng trên khung cửa đằng sau, theo cùng một tiếng ho do dự. “Xin lỗi, thưa cô, nhưng… tôi có thể giúp gì cho cô không?” Đó là giọng của một cô gái và tôi đột nhiên nhớ đến những hướng dẫn viên.
Tôi quay lại và nhin thấy gương mặt cô gái giãn ra khi nhận ra tôi. “Ôi, là chị à, chị Beckett. Em không nghĩ ra là ai nữa… Em bảo này”, cô gái nhăn mày nói, “chị vẫn ổn đấy chứ?”.
Tôi với tay chạm vào gương mặt nóng rẫy của bản thân và cảm giác những giọt nước mắt đầm đìa trên hai má, sợ hãi rằng tôi chẳng thể làm gì để ngăn chúng lại. Tôi nhẹ hết cả người khi nghe thấy giọng nói điềm tĩnh, sảng khoái của bà Hutherson vang lên từ khung cửa căn phòng.
“Không cần lo đâu, Sally”, bà đều giọng nói với cô gái trẻ để cô bé yên tâm. “Chị Beckett đây chỉ bị sốc một chút thôi. Giờ cháu có thể khóa cửa được rồi đấy.” Bà cứ như thể mẹ của tôi, khi vòng tay ôm chặt lấy tôi và dẫn ra khỏi đại sảnh rồi theo hành lang dài đến phòng bếp, trong khi đó không quên duy trì mạch chuyện trò vui vẻ. Tôi thật sự không nghe được bất cứ điều gì bà nói, nhưng sức mạnh từ sự điềm tĩnh trong giọng nói của bà khiến tôi định thần lại, đến khi bà đặt tôi ngồi xuống một trong những chiếc ghế trong nhà bếp, những giọt nước mắt của tôi đã vơi bớt thành những tiếng sụt sịt đứt quãng.
“Nào, nào.” Bà vỗ về vai tôi. “Những gì cháu cần là một tách trà thật đặc.”
Tôi cảm giác chắc chắn một tách trà đặc ngon lành sẽ là hành động đầu tiên của Alfreda Hutherson trước bất cứ một cơn khủng hoảng tinh thần nào.
Bà bắc ấm lên bếp và nhìn tôi, đôi mắt thân thiết. “Ta cho rằng gặp phải chuyện như vậy có hơi sốc với cháu.”
“Anh ấy đã hôn cháu”, tôi nói, như thể điều này giải thích cho tất cả mọi chuyện.
“Phải rồi, cháu yêu, ta biết mà. Nào, giờ lau mặt đi”, bà đưa cho tôi một tấm khăn ướt và hướng dẫn. “Đám đàn ông sẽ đến đây bất cứ lúc nào.”
Tôi lau mặt và để nó tự khô, rồi nỗ lực thu mình lại. Đột nhiên nhớ đến gì đó, tôi vụt ngước lên, rối như tơ vò vì ý nghĩ ấy. “Cháu không thể ngăn nó xảy ra”, tôi nói với bà. “Trước đây cháu còn có khả năng ngăn được, nhưng giờ cháu không làm được gì hết.”
“Nào nào.” Đôi mắt xanh dương của bà vô cùng thông thái. “Rồi cháu sẽ học được một bài học giá trị từ đây, không phải sao? Cháu không thể đánh lừa số mệnh, Julia ạ. Nếu cháu không tìm kiếm những bài học từ quá khứ, vậy thì quá khứ sẽ tìm đến cháu.”