Chỉ cần giật mạnh chiếc dây thừng treo trên trần, cửa lồng sẽ rơi xuống khóa chặt lối vào trên mái vòm. Không thể trốn thoát đến bầu trời xanh tự do, những chú chim chỉ còn biết quẫy cánh trong sợ hãi trong khi những chiếc tổ của chúng bị tàn phá và đồng loại bị đem ra làm thịt. Tôi chẳng bao giờ biết được vì sao chúng vẫn chọn ở lại chuồng bồ câu sau những việc như thế. Hay vì sao chúng không bay đi, khi cái bẫy lại mở? Sao chúng nán lại và chờ đợi cái chết, như những con thỏ nuôi trong chiếc hang bên cạnh cửa nhà bếp? Vì chúng thiếu khả năng dự cảm về số mệnh ư? Hay đơn giản nỗi khiếp đảm đã làm u mê đầu óc chúng, rằng chúng đã trở nên quen thuộc với sự yên ổn trong nơi giam cầm, chúng không còn biết nơi nào khác để đi nữa?
Tôi đột ngột nghĩ mình có thể sẽ giống như vậy. Nếu không cảnh giác, tôi cũng có thể sẽ giống như những con chim có số phận bi đát trong chiếc chuồng bồ câu này. Sẽ giống như Caroline đáng yêu với đôi mắt không sinh khí và mái tóc bạc dần vì nhọc nhằn ở tuổi hai mươi lăm. Bởi nếu chiếc chuồng bồ câu là một cái bẫy, thì Đàn Cừu Xám cũng vậy, đôi bàn tay nắm dây thừng của bác tôi có thể đóng sập cánh cửa và ngăn cản cuộc rút chạy của tôi.
Ngay lúc này tôi cũng có thể cảm nhận được đôi mắt ông đang dõi theo mình từ ngôi nhà và tôi so vai kiên quyết trước khi kéo mở cánh cửa gỗ thấp và quyết tâm bước vào bên trong. Trước hết, tôi chẳng nghe được gì ngoài tiếng cửa cọt kẹt sắc nhọn đằng sau khi khom mình đóng nó lại. Rồi âm thanh khe khẽ bắt đầu lan tỏa và thẩm thấu qua các giác quan của tôi – tiếng gù hiền hòa từ hàng trăm chiếc cổ họng êm ái rung lên, hàng trăm chú chim bồ câu béo mập và ấm áp rúc mình trong những hốc tường.
Nơi này có vẻ ngoài của một nấm mồ, xin xỉn và tuềnh toàng. Bóng đen đan dày đặc trong các góc. Từ nơi đang đứng, tôi chỉ có thể hình dung ra bóng dáng của những bức tường. Ánh sáng ít ỏi trong đây tụ lại trong một vòng tròn, trải những tia nắng từ mái vòm để mở trên đầu, lẫn trong đám bụi, và khiến chúng bay lượn vu vơ trong bóng tối.
Tôi mò mẫm xuống thấp bức tường để tìm một chiếc hốc có chim làm tổ và phát hiện một con chim bồ câu đậu ngay trên gờ hốc. Con chim dễ dàng lọt vào tay tôi, mà không sợ hãi, cứ nằm đó ngước nhìn tôi với đôi mắt tròn không mấy quan tâm. Tôi có thể cảm nhận được trọng lượng nhẹ bẫng lẫn trái tim nhỏ bé đập liên hồi trên lồng ngực mảnh dẻ của nó.
“Lạy Chúa, xin người hãy giúp con”, tôi nhắm nghiền mắt, thều thào nài xin. “Con không thể.”
Giọng nói trầm sâu đáp lại từ bóng tối sau lưng đột ngột vang lên khiến tôi quay ngoắt lại với nỗi sợ hãi đột ngột dâng cao, tay áp chặt chú chim nhỏ bị giật mình vào vạt áo.
“Tên trộm nào đến cuỗm chim nhà tôi đều phải trả giá đắt đấy”, giọng nói cất lên.
Tôi đã nhận ra đấy là giọng của ai trước khi câu nói kết thúc và trái tim tôi cũng từ từ lấy lại nhịp đập bình thường. Richard de Mornay tiến một bước lên trước, đến gần hơn các tia sáng, nhưng gương mặt đang mỉm cười của anh vẫn lưu lại một nửa trong bóng tối.
“Ngài đến đây bằng cách nào?” Tôi hỏi cộc lốc, giọng nói chỉ to hơn tiếng thì thầm một chút.
“Qua cửa sau”, anh đáp, chỉ về phía lối vào chẳng mấy khi được sử dụng ở bức tường phía tây. “Bác em không nhìn thấy tôi đâu, nếu đó là những gì khiến em lo lắng.”
“Làm sao ngài có thể chắc chắn về điều đó?”
“Bởi tôi đã nhìn thấy ông ta. Tôi đảm bảo với em lúc đó ông ta đang bận rộn bên trong chuồng ngựa. Tôi là một quân nhân, Mariana à”, anh nhẹ nhàng khiển trách. “Tôi biết chiến thuật mai phục chứ.”
“Cho nên đây là một cuộc mai phục?”
“Thực tế, do cơn đói đơn thuần đã đưa tôi đến đây.” Anh vươn một bàn tay về phía ánh sáng để cho tôi thấy hai chú chim đã mất đi sự sống trong tay mình, nhưng tôi không hoàn toàn bị thuyết phục.
“Chắc chắn ngài có người hầu”, tôi nói, “những người có thể bắt chim bồ câu về cho ngài”.
“Phải.” Chút ánh sáng lóe lên từ trong bóng tối. “Nhưng rồi tôi sẽ nhớ cảm giác thỏa mãn khi được ở bên em.”
Tôi liếc nhanh những con chim bồ câu đã chết rũ xuống, ôm sát con còn sống vào lòng. “Ngài lại tâng bốc tôi rồi, thưa ngài.”
“Phải. Đây là dịp người khác sẽ làm thế.” Trong một thoáng anh trở nên im lặng và tôi cảm nhận được ánh nhìn chăm chú của anh. “Em thích cuốn sách mới đây chứ?” Cuối cùng anh hỏi.
“Thích lắm.” Tôi gật đầu. “Tôi e chẳng bao lâu nữa tôi sẽ mượn thêm một cuốn khác, tôi đã đọc gần xong rồi.”
Anh mỉm cười. “Tôi e em sẽ phải đợi vài ngày thôi. Tôi phải đi xa một chuyến.”
“Trong bao lâu?” Tôi ngẩng phắt lên, ngạc nhiên khi thấy ý nghĩ anh sắp đi khiến mình âu lo đến chừng nào.
“Có lẽ là một tuần. Không hơn. Tôi phải đến Poitsmouth để hộ tống nhà vua rời về Salisbury.”
Mắt tôi mở to. “Nhà vua sẽ rời về Salisbury sao?”
“Ngài ấy sợ phải lưu lại Luân Đôn. Thống kê hàng tuần ở đấy cho thấy có hơn một nghìn người đã chết vì bệnh dịch trong riêng tuần vừa rồi. Các cố vấn của nhà vua đã thuyết phục sẽ khôn ngoan hơn nếu về đồng quê.”
“Nhưng sao ngài lại phải hộ tống ngài ấy?”
Anh nhún vai. “Đó là bổn phận của tôi và bổn phận của gia đình tôi, để bảo vệ nhà vua. Đây vẫn là một giai đoạn còn nhiều bất ổn, Mariana ạ. Dư đảng của Phe Đầu Tròn vẫn còn khắp các làng quê, có quá nhiều kẻ muốn nhìn thấy ngài Charles mất đầu giống cha của ngài ấy.”
“Và ngài thì coi việc ngăn chặn bọn chúng là trách nhiệm của ngài?”
“Lưỡi kiếm của tôi sắc bén như lưỡi kiếm của bất cứ ai.”
“Vâng, da thịt của ngài cũng dễ tổn thương như họ vậy.” Giọng tôi đầy cay đắng làm anh tiến lên trước, cúi thấp xuống để nhìn gương mặt tôi.
“Em lo sợ cho tôi sao?” Anh dùng một ngón tay dịu dàng chạm lên má tôi. “Không cần phải lo đâu.”
Tôi quá xấu hổ vì sự bộc tuệch của bản thân. “Tôi không sợ gì cả, thưa ngài”, tôi đáp, “ngoại trừ sự chán nản nếu ngài vắng mặt”.
“Câu trả lời của một nhà ngoại giao”, anh khen.
“Hừm, thế thì tôi sẽ trao cho em quyền điều hành thư viện của tôi, trong lúc tôi đi vắng. Như vậy em sẽ không còn chán nản nữa.” Thò tay vào túi áo khoác, anh lôi ra một chiếc chìa khóa rồi giơ cho tôi xem. “Thứ này sẽ mở cửa vào sân trong, ở mặt phía tây ngôi nhà. Từ đó em có thể tiếp cận thư viện bất cứ khi nào em muốn.”
“Tôi không thể lấy chìa khóa của ngài”, tôi phản đối.
“Sao không?”
Tôi tìm kiếm lý do. “Tôi không có chỗ nào để cất cả”, tôi nói, “cất ở đâu để không bị phát hiện”.
“Vậy thì hãy giữ nó ở đây”, anh nói, giải quyết vấn đề một cách dễ dàng. Anh cúi người ra trước, gần đến mức cánh tay anh lướt qua cánh tay tôi, anh vươn tay qua người tôi và nhét chiếc chìa khóa vào một trong những chiếc hốc còn trống. “Nó nằm trong ô có đường viền nứt, em thấy chứ? Mỗi khi cần, em sẽ chẳng gặp rắc rối nào để tìm lại nó đâu.” Anh thẳng người dậy, nhưng không đứng cách ra xa. Bầu không khí trở nên đặc quánh giữa hai chúng tôi. “Còn lại là việc trừng phạt em”, anh nói, giọng lười biếng trầm trầm.
“Trừng phạt tôi?”
“Vì đã đánh cắp một con chim bồ câu của tôi”, anh nhắc.
“Tôi không đánh cắp con chim này, thưa ngài”, tôi nói thẳng, “theo những gì tôi được biết thì chuồng chim thuộc về bác tôi”.
“Chắc chắn bác em là người sử dụng nó, nhưng nó được tổ tiên nhà tôi xây dựng và nằm trên đất nhà tôi. Thế nên quyền sở hữu của tôi không cần bàn cãi nữa.”
Tôi cố gắng lên tiếng phản đối, nhưng anh càng sát lại hơn và lắc đầu. “Khó mà chối bỏ tội danh”, anh nói với tôi, “khi bằng chứng vẫn còn nằm trong tay em. Đây là đánh cắp rõ rành rành và tôi có quyền yêu cầu hình phạt”.
Anh dùng bàn tay không vướng bận giữ tôi đứng nguyên và hôn tôi, những ngón tay anh lùa qua mái tóc, đỡ lấy viền quai hàm và đường cong nơi cổ tôi. Khi anh nâng đầu lên, trái tim tôi rộn rã cùng nhịp điệu với chú chim tôi vẫn ôm trước ngực. Tôi cân nhắc đến khả năng sẽ bắt thêm một tá chim bồ câu nữa, nếu anh hứa sẽ áp dụng y nguyên hình phạt này với mỗi con bị bắt, nhưng tôi không dám nói như vậy.
Nhưng dù sao anh vẫn đọc được ý nghĩ của tôi.
“Em có muốn bắt thêm con chim nào nữa không?” Anh nhăn nhở hỏi tôi.
“Em không thể giết con chim mình bắt được”, tôi lắc đầu nói. “Bác em lệnh cho em đến đây như một sự trừng phạt, ông biết em không thể làm được điều đó.”
Nụ cười nhăn nhở bay biến. “Và em đã làm gì để chịu hình phạt ấy?”
“Em đỡ lời cho vợ ông ấy”, tôi đáp thẳng, “ông không quan tâm đến sự can thiệp của em.”
“Quả là tội nặng”. Richard châm biếm nói. Anh nhìn tôi, vẻ mặt trở nên nghiêm túc. “Trái tim dịu dàng của em đã đúng. Mariana ạ. Chẳng có gì đáng xấu hổ khi do dự giết một thứ gì đó. Vậy chúng ta sẽ để anh bạn này sống nhé?” Một cách khẽ khàng, anh tách chú chim im lìm khỏi bàn tay tôi và đặt nó trở vào ổ. “Đây, em có thể lấy những con này, thay vào đó.” Anh đưa cho tôi những con chim anh giết từ trước.
Tôi nhìn xuống những cái xác cứng đơ mất đi sự sống, thậm chí còn cảm thấy bất đắc dĩ khi phải đón lấy chúng. “Nhưng anh sẽ dùng bữa bằng gì đây?” Tôi hỏi anh.
Richard de Mornay mỉm cười thích thú. “Trái tim anh cứng rắn hơn trái tim em nhiều. Tước đi mạng sống không gây khó khăn gì với anh.” Anh khép những ngón tay tôi bao quanh những con chim chết. “Mang về cho bác em đi”, anh nói. “Anh đã có hơn những gì mình cần rồi.”
Sau đó tôi rời đi, nhưng thay vì đứng sang một bên để tôi đi qua, anh lại lấy cả hai bàn tay đỡ lấy mặt tôi và hôn tôi lần thứ hai. Một phút dài dằng dặc và nín thở trôi qua trước khi tôi được thả ra, hơi thở gấp gáp của tôi gần giống điệu gù thỏa mãn lộn xộn của đám chim.
“Sau cùng”, anh tự bào chữa, giọng nói không được vững vàng cho lắm, “em cũng được hưởng hai trong số những con chim tuyệt nhất của anh rồi”.
Đám chim trở nên ồn ào hơn, vòng sáng dưới chân chúng tôi đột nhiên trở nên rộng hơn, chói lòa, sáng rỡ, rồi chỉ còn im lặng, và ánh nắng, còn tôi thấy mình đang đứng đơn độc bên cạnh bức tường thấp đổ nát, giữa những bụi hoa tan tác gẫy gập rì rào dưới chân.
Đi bộ băng qua cánh đồng và đảo một vòng rộng quanh chuồng ngựa, tôi tiến thẳng đến mặt phía tây của lâu đài Crofton mà không cần thông báo trước, cuối cùng tôi thấy mình đứng giữa một con đường mòn chìm sâu trong bóng râm, quanh những bức tường đá cao chót vót và chẳng mấy khi sử dụng. Xác định phần tường che đi cái sân trong không phải vấn đề gì quá khó khăn. Thấp hơn hẳn những phần tường bên cạnh, không có mái và dây thường xuân lan đến đỉnh – một khối màn này đặc từ lá xanh cùng những dây leo bện xoắn không sao xuyên thủng, trĩu nặng xuống tận mặt đất bên dưới.
Mặc cho đám thường xuân, tôi thấy cánh cửa ngay lần thử tìm đầu tiên. Đó là một cánh cửa thấp, thẳng hàng với bức tường, làm từ gỗ sồi giả bạc thếch y như cái màu xin xỉn của những tảng đá bao quanh. Đám thường xuân quấn quýt dần tách ra với tiếng loạt soạt khi tôi lần bàn tay quanh viền cánh cửa, tìm kiếm tay nắm và ổ khóa.
Khi đã xác định được nó, tôi thọc tay vào túi lần tìm chiếc chìa khóa nhỏ và hít một hơi trông đợi. Chiếc chìa khóa đút gọn lỏn vào ổ… nhưng không xoay chuyển. Hàng thập kỷ, có lẽ hàng thế kỷ bị bỏ rơi và chìm trong ẩm thấp đã khiến ổ khóa gỉ sét.
Tôi thả đám dây thường xuân xuống, che khuất cánh cửa và giải thoát nỗi thất vọng thành một tiếng thở dài nho nhỏ rồi quay người, lại theo những dấu chân cũ băng qua cánh đồng trống không. Thực sự tôi cũng không trông đợi chiếc chìa khóa vẫn còn dùng được, tôi nhắc nhở bản thân. Dù sao đi nữa, tôi thậm chí còn không chắc việc mở ra cánh cửa sẽ đạt được điều gì, ít nhất giờ đây tôi cũng biết công dụng của chiếc chìa khóa và vì sao nó bị bỏ lại trong chuồng bồ câu.
Một cảm giác kỳ quặc ập đến khi tôi xuất hiện từ thung lũng và nhìn bức tường hình chữ L sụp đổ, tất cả những gì còn sót lại của chuồng bồ câu, tâm trí của tôi vẫn có thể thấy rõ ràng công trình thâm thấp vuông vắn vẫn đang đứng ở đây. Rồi cảm giác kỳ quặc bị thay bằng lòng can đảm lúc tôi tiến gần khu vườn hơn.
Mọi thứ đang rộn ràng nở rộ và sặc sỡ sắc màu hơn bao giờ hết. Cây lanh đỏ rũ tung những nhánh trĩu hoa rực rỡ, trong khi hoa dăng tử[1] và giáp trúc đào chen chúc giữa những phiến hoa phi yến màu hồng vươn cao lần trong những nhánh phụ tử như những chiếc đầu gật gù thu nhỏ. Ngay cả những bông hoa hồng, loại hồng leo đáng yêu, cổ xưa ở miền quê mà Iain trồng dọc theo bức tường, cũng đang trở nên tươi tốt và phủ kín bởi những chiếc nụ tròn mập mạp. Nhưng lại làm nên vẻ đẹp hoàn hảo cho mảnh đất nhỏ đã từng bị tàn phá. Chính bàn chân tôi đã hạ rạp một vạt cỏ ở trung tâm khu vườn, từ mặt bên cho đến bức tường, những bông hoa ở đó xô vào nhau và bị giẫm đạp không thể cứu chữa.
[1] Tên gốc: campion – một loài hoa thuộc chi cẩm chướng.
Bước thận trọng để tránh những cây còn sống sót, tôi bước đến bức tường thấp và nhìn xuống những hàng hốc bị bỏ quên từ lâu. Vẫn có thể nhận ra một cách rõ ràng cái hốc có viền nứt, và tôi cười nhẹ, dùng những ngón tay vạch theo đường gờ của nó. Tôi không cần giữ chiếc chìa khóa lâu hơn nữa, tôi thầm nghĩ. Tốt hơn nên trả về nơi Richard đã cất nó, từ rất nhiều năm trước. Tôi lại lấy chiếc chìa khóa ra và trượt nó vào nơi cất giữ bên trong hốc. Tiếng kim loại cào trên nền đá ram ráp tạo nên âm thanh quyết định cuối cùng. Tôi vẫn còn ngồi ở đó, suy nghĩ miên man lúc Geoff đi vòng qua hông nhà tôi vài phút sau đó, bước từ tốn và cẩn trọng, như thể đôi chân đang đau đớn.
“Tìm thêm được báu vật nào nữa sao?” Anh hỏi, còn tôi lắc đầu và ráng nở một nụ cười.
“Không có gì mới, em e là thế. Chuyến ghé thăm Iain của anh thế nào?”
“Tốt. Anh đã xoay xở để thuyết phục cậu ta nghỉ làm việc một thời gian”, anh vừa nói vừa nghiêng người dựa lên bức tường. Anh trông vui vẻ khủng khiếp, dù chỉ một thoáng mơ hồ. “Anh thậm chí còn khiến cậu ta mở một chai Scotch mười hai năm. Bọn anh đã có một buổi chiều tuyệt vời.”
“Em có thể thấy vậy”, tôi nói. “Anh còn bước đi được là tốt lắm rồi đấy.”
“Cũng không nhất thiết phải đi theo đường thẳng mà”. Geoff thừa nhận, “nhưng anh cũng cố gắng lắm đấy. Chúa lòng lành!”. Anh đột nhiên chú ý đến tình trạng của khu vườn và nheo mắt cố gắng tập trung. “Chuyện gì xảy ra với những trái tim rớm máu[2] của em vậy?”
[2] Tên gọi của hoa Tigôn.
Tôi nhìn theo ánh mắt anh. “Đấy là tên chúng sao?” Tôi lơ đãng lầm bầm. Những trái tim rớm máu. Và hợp thật đấy, tôi nghĩ.
“Những con vật đã tạo nên đống hỗn độn này phải không?” Anh lắc đầu bình luận. “Iain sẽ ngất xỉu mất thôi.”
“Không đâu”, tôi phản đối, với vẻ chắc chắn. “Anh ấy không lăn ra ngất xỉu vì khu vườn của em, ngay cả khi em nhổ cây gì đó không nên nhổ. Anh ấy điềm đạm hơn nhiều so với những gì anh và Vivien gán cho anh ấy đấy.”
“Có lẽ vậy.” Anh nhún vai tỏ vẻ ra sao cũng được.
“Dù sao anh không đến đây để nói chuyện về Iain hay khu vườn đâu.”
“Anh có lý do nào hấp dẫn hơn ư?”
“Thực tế là hai lý do.” Anh ngả người một chút lên bức tường đá, nhưng nhanh chóng đứng thẳng. “Thứ nhất, anh đến để thông báo anh không thể giữ hẹn về bữa tối thứ Bảy của chúng ta rồi. Anh phải đến Luân Đôn vài ngày. Anh xin lỗi.”
“Anh lại đi công tác à?” Tôi hỏi và anh gật đầu.
“Hừm”, tôi nói, “không sao đâu. Chúng ta đi vào lần khác vậy”.
“Em không thất vọng à?”
“Lạy trời, không đâu.” Tôi tròn mắt nhìn anh. “Sao em lại phải thế? Anh đâu thể ngừng làm việc. Làm gì có chuyện giàu có mà nhàn rỗi đúng không?”
Geoff nhe răng cười. “Em đừng vội tin. Đây là công việc nghiêm túc đầu tiên anh phải làm trong nhiều tháng trời đấy, anh sẽ lại nhàn rỗi vào tháng Tám.”
“Còn lý do thứ hai là gì?” Tôi hỏi anh.
“Gì cơ?”
“Lý do của anh để tạt vào đây thăm em”, lời nhắc của tôi khiến anh như bừng tỉnh.
“Ồ. Anh muốn hỏi em xem có thể pha cho anh một tách cà phê không.” Anh mỉm cười hạnh phúc. “Rượu Scot của Iain mạnh kinh khủng, em biết đấy, đã vậy cậu ta còn rót rất hào phóng, anh thì quá kiêu ngạo để tự thú lúc đã uống đủ rồi. Cậu ta có thói quen nhắc anh nhớ người Anh uống rượu tệ đến mức nào. Nhưng anh không nghĩ mình có khả năng đi bộ về ngay bây giờ”, anh thú nhận, “mà không ngã vào một cái mương ở dọc đường”.
“Ừm, chúng ta không thể để điều đó xảy ra”, tôi đồng ý. ‘”Nếu anh gặp may, Jerry Walsh sẽ câu anh lên và chắc chắn anh sẽ trở thành đề tài bàn tán cho cả thị trấn. Đi theo em”, tôi nói, thận trọng nhón chân ra khỏi khu vườn, “em sẽ pha cho anh một chút cà phê”.
Trông tệ hơn một chút so với vẻ ngoài đang thể hiện, anh nghiêng ngả sang một bên như con tàu thủng đáy lúc băng qua bãi cỏ phía trước tôi. Anh cố gắng với tay đến cửa sau mà không xảy ra va chạm, nhưng lại ước lượng nhầm không gian mở của cánh cửa và khẽ lia qua khung cửa trước khi lắc lư người khá cứng nhắc để vào bếp. Tôi theo sau, một chân bước qua cửa thì từ đuôi mắt chợt thấy một bóng đen thẫm quanh quất ở thung lũng, bên dưới tán sồi già.
Tôi nhanh chóng quay đầu, nhưng không đủ nhanh. Bên dưới cây sồi trống không, chẳng có âm thanh nào hết ngoại trừ những tiếng thì thầm của cơn gió thổi qua khu vườn có chuồng chim bồ câu trống rỗng.