“Tôi sẽ mang cho cô một ly nước”, anh ta lên tiếng lúc trở vào phòng. “Không, đừng ngồi ngay dậy. Cô thấy thế nào rồi?”
“Ổn.” Giọng nói của tôi như bị bóp nghẹt.
Anh ta ấn ly nước vào tay tôi và tôi ngửa đầu để uống một hớp, hành động này cho phép tôi có cái nhìn đầy đủ đầu tiên về vị chủ nhà. Dẫu không có giọng nói, học thức, quần áo cắt may khéo léo cùng những vật dụng đắt tiền xung quanh, Geoffrey de Mornay hẳn vẫn sẽ được anh bạn đồng nghiệp Bridget cổ lỗ của tôi xếp vào loại “xuất sắc”. Bridget sẽ để ý tới chiều cao, thân hình lực lưỡng và nụ cười rạng rỡ lóe lên trong giây lát của người đàn ông này. Tôi thì chú ý đến những đường nét cổ điển trên cấu trúc xương và chiều sâu tĩnh lặng từ đôi mắt nâu đỏ của anh ta, nằm bên dưới hàng lông mày đen tương ứng chính xác với màu nâu sẫm trên mái tóc.
“Cảm ơn anh”, tôi nói, gắng gượng trao cho anh ta nụ cười tươi tắn nhất. Tôi không chắc mình đã ngất xỉu bao lâu, nhưng hẳn mới vài phút thôi, bởi ánh mặt trời vẫn đang tràn qua ban công ốp kính rộng đối diện. Tôi nhớ lờ mờ là mình đã được nâng lên và bế đi một đoạn, rồi không có gì xảy ra cho đến vài phút tiếp theo, thời điểm tôi mở choàng mắt, hét lên đòi đứng dậy và bị ấn một cách thô lỗ xuống vị trí không đúng đắn hiện thời.
“Không có gì.” Anh ta ngồi lên chiếc ghế chênh chếch với tôi, thận trọng quan sát gương mặt tôi như thể nghĩ tôi sẽ thình lình bật dậy bất cứ lúc nào. “Tôi xin lỗi nếu khiến cô hoảng sợ. Brutus không đơn thuần chỉ là một con ngựa to lớn, và tôi thường quên mất…”
“Không phải lỗi của anh, thực đấy. Mấy hôm nay tôi cứ thức khuya dậy sớm nên mới bị vậy, thế thôi.”
“Cô chắc không cảm thấy ốm chứ?”
“Chắc chắn.” Giọng tôi vững vàng, sau khi nghiên cứu gương mặt tôi một chốc, anh ta mỉm cười.
“Vậy có lẽ chúng ta sẽ thử giới thiệu lần hai xem sao”, vừa đề nghị anh ta vừa nhoài người ra trước và vươn bàn tay ra. “Geoffrey de Mornay, rất lấy làm hân hạnh.”
“Julia Beckett.” Tôi đáp lại cái bắt tay. Cẩn thận ngồi dậy, tôi cố gắng cứu vớt tình huống bằng việc mở lời. “De Mornay… vậy là tôi đã nhìn thấy một vài tổ tiên của anh trong nhà thờ. Gia tộc anh hẳn là một trong những gia tộc cổ xưa nhất ở đây.”
“Còn tùy thuộc vào cách hiểu của cô”, anh ta nhún vai đáp. “Dòng họ de Mornay ngụ tại lâu đài Crofton từ triều đại của nữ hoàng Elizabeth I nhưng lại bán nó đi khoảng một thế kỷ sau. Cha tôi đã đợi người ta rao bán lâu đài hàng năm trời, và cuối cùng khi thời điểm đến, ông mua lại. Ông là người cực kỳ tâm huyết với lịch sử gia đình.”
Tôi đánh giá xung quanh, phát hiện căn phòng dài và chan hòa ánh nắng, trần thạch cao được trang trí công phú, những bức tường dán giấy nhuốm đầy vẻ trang nhã và hào hoa từ một kỷ nguyên xa xưa. “Bảo tồn các ngôi nhà cổ như thế này quả là một công việc tuyệt vời”, tôi nói.
“Và đắt đỏ”, anh ta đáp, dùng hiện thực kìm tính lãng mạn của tôi. “Còn chưa đề cập đến việc thiếu thực tế. Khi có quá nhiều phòng cho một con người.”
“Đấy là lý do anh mở cửa ngôi nhà cho các đoàn tham quan?”
“Không.” Anh ta lại mỉm cười thích thú. “Không, tôi e mình không phải một công dân có đầu óc đến thế. Tôi đã đăng ký nhận khoản trợ cấp của chính phủ vài năm trước, để kiến tạo một số thứ và đổi lại, nghĩa vụ của tôi là mở cửa nơi này.”
“Rất đẹp để tham quan”, tôi chỉ ra. “Vài người đã kể với tôi là vé vào rất đáng tiền.”
“Ngôi nhà đúng là rất đáng yêu. Giờ tôi sẽ dẫn cô đi một vòng, miễn phí, nhưng tôi e sẽ hơi khó với tình trạng của cô.”
Đôi chân đang có cảm giác như muốn sụm xuống, nhưng tôi không muốn nghĩ sâu hơn về nguyên nhân. Tôi mỉm cười. “Có lẽ để lần khác.”
“Chắc chắn rồi. Lúc nào đó vào tuần sau, khi tôi cũng thu xếp ổn thỏa một chút. Tôi vừa mới đi nghỉ về.”
“Tôi biết. Từ Pháp, phải không?”
Geoffrey de Mornay mỉm cười, một nụ cười rộng – không chủ định quyến rũ tôi – và có vẻ hơi buộc tội. “Cô đã đến quán Sư Tử Đỏ”, anh ta nói. “Phải, tôi neo một con thuyền trong cảng tại Antibes[1], miền nam nước Pháp. Hằng năm, tôi đều đưa nó ra khơi một hoặc hai lần. Thi thoảng tránh mùa mưa cũng thú vị lắm.”
[1] Một thành phố du lịch nổi tiếng ở đông nam nước Pháp bên bờ Địa Trung Hải.
“Và ai đã trông coi lâu đài khi anh vắng mặt?”
“Tôi có một đội ngũ nhân viên siêu năng lực quản lý thay mình.” Anh ta ngả lưng trên ghế, hơi xoay đôi vai rộng. “Hai hướng dẫn viên, một quản gia, một nhân viên vệ sinh làm ngoài giờ, một người làm vườn – theo mùa – và một người chăm sóc lũ ngựa. Thực sự là cả một chu trình.”
“Đương nhiên rồi!” Tôi gật đầu khi đột nhiên lĩnh hội. “Điều đó giải thích hết thảy.”
“Giải thích cái gì?”
“Xin lỗi. Tôi chỉ mới tháo gỡ được một bí ẩn, thế thôi. Tôi đã nhìn thấy một người đàn ông cưỡi ngựa trên các cánh đồng của anh, một người đàn ông mặc quần áo đen cưỡi con ngựa màu xám. Hẳn là người chăm sóc ngựa nhà anh.”
“Nếu là ngựa xám thì không phải. Trong chuồng nhà tôi chỉ có ngựa màu hạt dẻ và hồng mao.” Anh ta lười nhác lướt ngón cái dọc tay cầm chiếc ghế, vuốt ve mặt vải, và giọng anh ta, khi cất lên, có vẻ rất tùy tiện. “Cô chắc nó có màu xám chứ?”
“Ngựa có thể không phải thế mạnh của tôi”, tôi bảo anh ta, “nhưng màu sắc thì có”.
Anh ta cười toe toét. “Tôi quên mất. Cô là họa sĩ, phải không? Hừm, tôi cũng không lo ngại gì đâu. Tôi không quá so đo về quyền sở hữu đất đai. Nếu ai đó muốn sử dụng con đường cưỡi ngựa của tôi thì họ đều được hoan nghênh. Trông anh ta thế nào?”
Tôi cố gắng nhớ lại một cách thật chính xác. “Tôi thực sự không nhìn rõ anh ta, anh ta ở quá xa. Tôi nghĩ anh ta khá cao – dù khó mà nói vậy nếu ngồi trên lưng ngựa, đúng chứ? Anh ta mặc quần áo đen, lạ cái là tóc anh ta cũng dài”
“Nghe như mấy gã từ quán trọ. Có một quán trọ dành cho khách nghỉ qua đêm cách đây ba dặm về hướng tây”, anh ta giải thích. “Tương đối lớn. Rất nhiều khách du lịch đi ngang qua nó. Thi thoảng họ cũng thuê một con ngựa.”
“Tôi hiểu.” Điều này chắc chắn nghe có vẻ hợp lý với tôi. Tôi uống nốt ly nước, Geoffrey de Mornay cựa quậy trên chiếc ghế.
“Cô muốn uống thêm không?” Anh ta đề nghị. “Thứ gì đó có vị hơn?”
“Ôi, không đâu. Tôi thực sự ổn rồi mà. “ Đặt ly xuống cuối chiếc bàn bên cạnh rồi lúng túng đứng dậy, tôi lùa bàn tay qua mái tóc rối bù. “Anh thật tốt bụng, nhưng tôi quả thực nên đi thôi. Tôi đã chiếm dụng thời gian của anh đủ rồi.”
“Không hề. Nhưng tôi chưa bao giờ tranh cãi với hàng xóm cả.” Anh ta cũng đứng lên, khiến tôi trông lùn tịt, và lịch thiệp nghiêng đầu. “Lại đây, tôi sẽ tiễn cô.”
Tôi đi theo anh ta qua hành lang hẹp và tối đến cửa ngách, rồi quay người lại nơi ngưỡng cửa để cảm ơn anh ta lần nữa.
“Vinh dự của tôi”, anh ta quả quyết, một vai dựa vào trụ cửa và khoanh hai tay trước ngực. “Thay đổi thú vị trong lịch trình hằng ngày. Tôi không thường được gặp các cô gái xinh đẹp là người dưới chân mình như thế.”
“Ừm, vâng, chuyện đó”, tôi đỏ mặt nói, “sẽ không xảy ra nữa đâu”.
Anh ta mỉm cười với tôi, sau cái bắt tay cuối cùng, tôi lên đường ra về. Khi tôi gần đến cuối quãng đường có hai bên lề cỏ được cắt tỉa gọn ghẽ, thì anh ta lên tiếng.
“Đáng tiếc thật đấy”, anh ta nói, nhưng tôi không nghĩ đấy là câu anh ta định nói cho tôi nghe.
“Em cần cẩn thận, cưng ạ”, anh trai tôi ra chiều am hiểu dặn dò lúc tôi kể cho anh câu chuyện về lần gặp gỡ Geoffrey de Mornay. “Em biết đấy, các lãnh chúa có những đặc quyền bất di bất dịch trong lịch sử. Lựa chọn các cô trinh nữ trong làng, và nhiều hơn nữa kìa.”
“Anh thôi vớ vẩn đi”, tôi đáp.
Một tuần đã trôi qua, giờ là tối thứ bảy, và chúng tôi đang ngồi giữa những vật dụng sang trọng không lẫn đi đâu được trong nhà Roderick Denton tại Luân Đôn. Bữa tiệc tối hết sức thành công, khi toàn bộ các đối tác đầu tư của Rod đều tề tựu, đây cũng không phải lần đầu tiên tôi buộc phải thừa nhận lời khuyên của anh trai là chính xác.
Bữa tối cho tôi một quãng nghỉ thư thái khỏi vòng quay của việc dỡ đồ và trang trí liên miên, tôi có cảm giác gần như lại được làm người. Hơn hết, tôi cuối cùng cũng có lý do để mặc quần áo sang trọng, thay cho những chiếc quần jean và áo sơ mi mềm suốt hai tuần qua. Chúng cho tôi cảm giác trưởng thành và lọc lõi một cách thú vị. Giá như mình không quá đỗi buồn chán như thế…
Mới có hai tuần rời Luân Đôn thôi, tôi nghĩ, mà cuộc chuyện trò diễn ra quanh căn phòng này dường như đã chẳng còn lien quan đến tôi rồi, hơn nữa còn hời hợt đến hợm hĩnh. Tom tóm được cái ngáp của tôi và trêu chọc huých tôi một cái.
“Anh đã bảo em uống rượu từ từ rồi mà”, anh nhắc.
“Xin lỗi.” Tôi lại ngáp. “Em nghĩ mình đến giới hạn rồi, Tom à. Em phải đi đây.”
“Được rồi. Anh sẽ gặp em ở cửa.”
“Julia yêu quý.” Roderick Denton bất ngờ tấn công với hai cánh tay dang rộng, chặn đường đào tẩu của tôi. “Anh rất vui vì em đã đến.”
Tôi ôm lại anh ta. “Cảm ơn vì lời mời. Em vui lắm. Và nhớ gửi lời cảm ơn đến chị Helen hộ em nhé.”
“Không phải em đang định về đấy chứ?”
“Em e là thế. Có một người bạn đang đợi em.”
“Ồ?” Anh ta nhướn một bên lông mày đưa chuyện lên. “Em định nghỉ lại tối nay trong thành phố à?”
“Vâng, ở chỗ Cheryl. Anh nhớ Cheryl chứ, Rod? Cô ấy làm ở Whitehall[2].”
[2] Tên con đường tập trung các cơ quan đầu não của Anh. Hay còn để chỉ chính phủ Anh.
Anh ta thoáng nhíu mày, rồi hỏi. “Tóc đỏ hả? Khá thông minh? Sống ở Camden Town[3]?”
[3] Một quận nội thành phía tây bắc Luân Đôn.
“Giờ ở Islington rồi”, tôi sửa lại. “Cô ấy được tăng lương.”
Rod hẳn sẽ đánh giá cao điều đó, tôi suy luận, khi tự bản thân cũng là một người leo lên không ngừng trong xã hội thượng lưu. Tôi lén lấy Cheryl làm lý do để rời bữa tiệc. Thực tế, cô ấy không hề đợi tôi. Cô ấy giờ thậm chí còn không ở Luân Đôn. Cô ấy được bạn trai mời đi nghỉ ở quận Hồ[4], nên rất hân hoan cho tôi mượn căn hộ một đêm, cùng với con mèo cưng và sử dụng chỗ đỗ xe của cô ấy.
[4] Công viên quốc gia lớn nhất nước Anh.
“Nếu em đợi vài phút, anh có thể tìm ai đó cho em đi nhờ”, Rod – vị chủ nhà chu đáo hơn bao giờ hết – đề nghị.
“Thôi, em cảm ơn.” Tôi lắc đầu. “Đi tàu điện ngầm cũng nhanh mà. Còn anh”, tôi thúc vào cánh tay Tom, “cũng nên về đi. Nếu không anh sẽ ngủ gật suốt buổi thuyết giảng ngày mai mất”,
“Cùng với phần còn lại của giáo đoàn”, Rod nói, làm tôi cười khúc khích.
Tom mỉm cười khoan dung. “Cứ cười to vào”, anh mời mọc. “Em thừa biết anh sẽ không để mặc em đi tàu điện ngầm trong tình trạng này rồi còn gì. Anh sẽ tìm cho em một chiếc taxi.”
“Em không muốn đi taxi”, tôi phản đối. “Em muốn đi tàu điện ngầm. Hoặc đi bộ. Em thích hít thở một chút không khí trong lành.”
Nhưng Tom rất cương quết. Anh đưa tôi xuống đường, vẫy một chiếc taxi, ấn tôi vào và đưa chỉ dẫn đến thẳng căn hộ của Cheryl. Ngay khi chiếc xe ngoặt vào góc đầu tiên, tôi chúi người lên trước và đập vào vai tài xế. “Tôi đổi ý rồi”, tôi bảo anh ta. “Làm ơn cho đến ga tàu điện ngầm Embankment.”
Sau cùng, tôi nên đi taxi. Lối vào ga tàu điện ngầm đông nghẹt thanh niên, người người chen chúc nhau trong mùi bia ôi cùng mồ hôi đêm thứ Bảy khiến nỗi sợ không gian kín của tôi càng rõ rệt. Tôi đã định bắt tuyến bắc chạy thẳng đến Islington, rồi đột nhiên ánh đèn sặc sỡ trong ga điện ngầm chỉ còn lại chút mời gọi. Thực sự cũng không cần phải vội, tôi tự nhủ. Tôi có thể tản bộ một đoạn dọc bờ sông rồi bắt tuyến đi vòng ở ga xa hơn. Với ánh nhìn quyết định cuối cùng về phía đám đông huyên náo, tôi quay gót hướng đến ánh đèn dìu dịu của đường Embankment và vô số hình ảnh phản chiếu lấp lánh trên sông Thames đang thiu thiu ngủ.
Đằng sau tôi, sau cây cầu Westminster, là mặt ngoài ấn tượng của tòa lâu đài cổ County uốn cong, phía trước là kiến trúc mái vòm thân thuộc của nhà thờ St. Paul đang sáng lung linh, hiện lên như một ngọn hải đăng trên bầu trời đêm. Quả là một đêm tuyệt đẹp, yên ả đến không ngờ và nhiệt độ khá dịu, mặc cho độ ẩm cao. Tôi lững thững bước, vượt qua ngọn tháp hình chiếc kim của Cleopatra, với những con nhân sư canh gác, vượt qua chiếc bóng khổng lồ của tòa nhà Somerset[5] và cổng vào còn uy nghi hơn dẫn đến trường Luật và Hội luật Hoàng gia.
[5] Trung tâm văn hóa nghệ thuật lớn ở Luân Đôn.
Đầu tiên, tôi khoan khoái tận hưởng cảm giác đơn độc. Nhưng vài phút sau, nỗi thỏa mãn bị rượu che mờ của tôi dần dần rẽ lối cho sự thận trọng trườn vào. Sau cùng, giờ đang là khuya thứ Bảy, dù cũng có thể đáng yêu như đường Embankment, nhưng đây không phải nơi khôn ngoan nhất cho một người phụ nữ đi dạo một mình. Tôi bồn chồn rảo bước. Đến đúng trạm tiếp theo, tự hứa với bản thân, tôi sẽ đi xuống ga điện ngầm. Tôi đã đi bộ đủ xa trong một đêm. Bên cạnh đó, tôi cũng uống rượu hơi quá mức cho phép và lúc này tôi có cảm giác mệt mỏi kinh khủng. Những bước chân của tôi bắt đầu thoáng lung lay và loạng choạng, song đầu óc lại có cảm giác tỉnh táo đến lạ lung, chứa đầy những hồi chuông vang vang kỳ quặc.
Một phút sau, tôi bỏ luôn ý định bắt tàu điện ngầm và đổi hướng khỏi bờ sông để tìm một chiếc taxi. Nhưng không có một chiếc xe nào trong tầm măt, và càng tìm kiếm trong những con đường rối như mê cung, tôi càng bị lạc. Những con đường đầu tiên hẹp lại thành ngõ, rồi hẻm nhỏ, lối đi mỗi lúc một tối thêm và nhấp nhô thêm dưới chân, trong khi tiếng chuông bên tai càng trở nên rõ nét. Sau vài lần rẽ nhầm, tôi cuối cùng cũng băng qua một con đường trông có vẻ quen thuộc – một con đường hơi quanh co với những ngôi nhà dựng từ gỗ sồi có tường thạch cao, những tầng cao trên cùng nhô lên được sơn màu và trang trí. Khi tôi đi qua một khug cửa có mái che, một cậu bé nhỏ thó, rách rưới giơ chiếc đèn lồng tiến lên trước.
“Cô có cần đèn không, thưa cô?” Cậu bé hỏi tôi đầy hy vọng, nhưng tôi lắc đầu và vội vã đi tiếp.
Thêm một đoạn ngắn xuôi xuống con đường, tôi dừng lại ở một trong những ngôi nhà đứng tụm lại với nhau và gõ dồn dập lên khung cửa. Tưởng như thời gian trôi qua rất lâu trước khi tiếng gõ cửa của tôi cuối cùng cũng được trả lời bởi một người phụ nữ nhỏ bé, trung tuổi với đôi mắt xanh hiền hòa và gương mặt mộc mạc. Bà đang mặc đồ ngủ và choàng một tấm khăn từ đầu xuống vai để tránh làn hơi buốt lạnh buổi đêm.
Nhìn thấy tôi, đôi mắt bà trừng lớn vì kinh ngạc. “Cháu tôi! Sao cháu lại ra ngoài lúc đêm hôm thế này? Vào trong đi… vào trong và làm ấm người lên!”
Tôi như lê khỏi ngưỡng cửa và đứng trước ngọn lửa bập bùng. Tôi nhìn chằm chằm vào đống lửa, cảm thấy hơi lạnh trũng sâu vào nơi hơi ấm từ ngọn lửa không thể chạm đén.
“Mẹ cháu bị ốm”, tôi nói.
Ánh mắt người phụ nữ chạm ánh mắt tôi và có một nỗi đau khổ thấu hiểu lướt qua chúng tôi còn hơn cả việc diễn đạt bằng lời.
“Khi nào?” Bà hỏi.
“Mẹ đột ngột ngã bệnh.” Giọng tôi đờ đẫn. “Vào bữa tối. Rồi bà sốt cao và không nhận ra cháu nữa. Người hầu đã đưa cháu ra khỏi nhà.”
“Họ đã làm đúng. Cháu không thể quay lại đấy.” Bà nặng nhọc ngồi xuống bên cạnh tôi. “Cũng không thể ở lại đây. Hàng xóm nhà bác cũng rất sợ bệnh dịch. Họ sẽ gây rắc rối.” Bà nghĩ ngợi rồi trầm ngâm một lúc lâu. “Cháu sẽ về nông thôn”, cuối cùng bà lên tiếng. “Đến chỗ bác cả của cháu.”
“Bác Jabez ạ?” Tôi cắn môi. Bà biết nguyên nhân cho những e ngại của tôi.
“Bác ấy không giống bác John của cháu, Chúa phù hộ cho linh hồn hiền lành của ông ấy. Nhưng là người đáng kính trọng và lương thiện. Bác sẽ sắp xếp một chiếc xe ngựa vào sáng mai. Cháu không mang gì theo sao?”
Tôi lắc đầu khiến bà nhíu mày. “Cháu sẽ cần quần áo. Ellen nhà bác cũng tương tự với cháu. Con bé có lẽ sẽ có thứ gì đó phù hợp.”
Bà đứng dậy khỏi ghế và hối hả hướng về cầu thang hẹp. Tôi yếu ớt phản đối.
“Bác Mary…”
“Mariana.” Giọng bà chắc nịch. “Đây là ý Chúa. Tất cả đã định rồi.”
Điệu vũ của những ngọn lửa chập chờn, mờ ảo, và biến mất.
Tôi chớp mắt. Tôi đang đứng ở hẻm Blackfriars, giữa chồng gạch xây dựng trong một lô đất trống tối đen. Trời bắt đầu mưa, lại một trận mưa xuân lạnh lẽo không ngớt, một chiếc xe vụt qua hắt làn nước buốt giá khiến cả thân thể tôi lạnh cóng và hàm răng va vào nhau lập cập. Một tòa nhà lùm lùm hiện lên ngay phía trước, ánh đèn vàng cùng tiếng cười hòa trong âm nhạc tràn khắp con đường qua ô cửa để mở của quán rượu trong khu và tôi xoay những bước chân vấp váp của mình thẳng về hướng đó.
Hãng taxi nhanh chóng phản hồi cuộc điện thoại của tôi. Nhét mình vào ghế sau trong một quãng ngắn ngược lên Islington, tôi rụt người vào trong một góc tối, tránh xa ánh sáng loang loáng của những ngọn đèn đường bỏ lại sau lưng.
Trong chiếc xe, thoát khỏi màn mưa, không còn thấy lạnh nữa; nhưng tôi liên tục rùng mình, như thể chẳng bao giờ sẽ lại cảm thấy ấm áp.