Bóng hồn của Goody Alsop buồn bã đứng đợi phía cuối con đường nhỏ, khi tôi tới thăm người thầy của mình lần cuối. Linh hồn đó bơ phờ theo sau trong lúc tôi trèo lên các bậc thang để tới phòng của bà phù thủy.
“Vậy là con sẽ rời bỏ chúng ta,” Goody Alsop nói vọng ra từ chiếc ghế bành cạnh lò sưởi của mình. Bà mặc bộ đồ bằng len cùng một cái khăn choàng và ngọn lửa cũng đang cháy rực.
“Chúng cháu buộc phải đi.” Tôi cúi người và hôn lên một bên má mỏng manh của bà. “Hôm nay bà cảm thấy thế nào?”
“Có vẻ tốt hơn, nhờ các phương thuốc của Susanna đấy.” Goody Alsop ho khùng khục khiến cơ thể mảnh mai của bà cúi gập lại. Khi đã hồi phục, bà ngắm nhìn tôi bắng ánh mắt sáng ngời rồi gật đầu. “Đứa bé lần này đã ổn định rồi.”
“Đúng vậy,” tôi mỉm cười đáp. “Cháu đã có cảm giác ốm mệt. Bà có muốn cháu nói với những người khác không?” Tôi không muốn Goody Alsop gánh vác quá nhiều gánh nặng về mặt cảm xúc hay vật chất. Susanna tỏ ra lo lắng trước tình trạng suy nhược của bà và Elizabeth Jackson đã được tham gia vào một vài nhiệm vụ cùng nhóm phù thủy tiền bối.
“không cần đâu, Catherine kể với ta rồi. Bà ấy nói, Corra đã bay lượn từ vài ngày trước, vẫn vừa cười vừa nói luôn mồm như thường lệ, mỗi khi bà ấy biết một bí mật.”
Rồng lửa và tôi đã đi đến một thỏa thuận rằng, cô nàng sẽ giới hạn số lần bay lượn ngoài không trung xuống còn một lần một tuần và chỉ vào buổi tối. Tôi miễn cưỡng chấp nhận cho phép cô nàng bay vào đêm thứ hai trong những ngày không trăng, khi nguy cơ bị con người trông thấy và hiểu nhầm về một điềm báo tận thế liên quan tới lửa là thấp nhất.
“Vậy ra đó là chỗ cô nàng đã tới,” tôi cười nói. Corra tìm đến bà phù thủy dịu dàng để bầu bạn và Catherine cũng thích thú được thách thức Corra bằng những buổi thi thở ra lửa.
“Tất cả chúng ta đều thấy mừng vì Corra đã tìm thấy thứ gì khác để làm ngoài việc bám dính vào các ống khói và gầm thét vào đám hồn ma.” Goody Alsop chỉ vào chiếc ghế đối diện. “Sao con không ngồi cùng ta nhỉ? Nữ thần sẽ không cho chúng ta cơ hội khác đâu.”
“Bà có nghe được tin gì từ Scotland không?” Tôi hỏi khi ngồi xuống ghế.
“Ta chẳng nghe được gì từ khi con kể về việc Euphemia MacLean dẫn cái bụng bầu của mình ra van xin mà vẫn không thoát khỏi giàn hỏa thiêu.” sự suy nhược của Goody Alsop bắt đầu từ cái đêm tôi kể với bà về một nữ phù thủy trẻ tuổi đến từ Berwick đã bị hỏa thiêu, bất chấp những nỗ lực của Matthew.
“Cuối cùng, Matthew thuyết phục Đại Hội Đồng phải dừng lại việc buộc tội và hành hình. Hai trong số các phù thủy bị kết án đã lật ngược lời khai và nói rằng, lời thú tội của họ là kết quả của việc tra tấn.”
“Hẳn là Đại Hội Đồng sẽ tạm dừng lại khi có một wearh lên tiếng thay mặt một phù thủy.” Goody Alsop nhìn tôi sắc bén. “Ông ta nên tránh xa chuyện này chừng nào con còn ở đây. Matthew Roydon sống trong thế giới của những sự thật nửa vời, nhưng không ai có thể tránh bị phát hiện mãi mãi. Vì đứa bé, con buộc phải cẩn thận hơn nữa.”
“Chúng cháu sẽ làm vậy,” tôi cam đoan với bà. “Trong khi đó cháu vẫn chưa chắc chắn nút thắt thứ tám có đủ mạnh để du hành thời gian không. Ngay cả không có Matthew hay đứa bé.”
“Để ta xem nào,” Goody Alsop nói và giơ tay ra. Tôi cúi người, đặt các sợi thừng vào lòng bàn tay bà. Tôi sẽ dùng tất cả chín sợi thừng trong lúc chúng tôi du hành qua thời gian và tạo ra chín nút thắt khác nhau mà không dùng thêm bất kỳ bùa chú nào. Bằng đôi bàn tay thành thục, Goody Alsop tạo ra tám điểm vắt chéo trên sợi thừng màu đỏ, sau đó buộc hai đầu dây lại tạo thành một nút thắt không thể phá vỡ.
“Ta làm theo cách này.” Nút thắt đơn giản mà tuyệt đẹp, với các vòng mở và vòng xoắn như những mẫu trang trí trên đá trong cửa sổ thánh đường.
“Cháu làm không giống vậy.” Tiếng cười của tôi đượm buồn. “Nó bị lỏng lẻo và cong queo.”
“Mọi sợi dệt đều độc nhất vô nhị như chính người thợ dệt tạo ra nó. Nữ thần không muốn chúng ta bắt chước các ý niệm của sự hoàn hảo mà là chính con người chúng ta.”
“Vậy, hẳn là cháu không đủ trầm ổn rồi.” Tôi đưa tay ra nhận lấy nắm dây thừng để nghiên cứu hình thiết kế.
“Ta sẽ chỉ cho con một nút thắt khác,” Goody Alsop nói.
“Còn nữa sao?” Tôi cau mày.
“Nút thắt thứ mười. Ta không có khả năng tạo ra nó mặc dù nó là cái dễ nhất.” Goody Alsop mỉm cười nhưng cằm bà run run. “Người thầy của ta cũng không thể tạo ra nút thắt này, nhưng chúng ta vẫn truyền lại nó với hy vọng một thợ dệt như con có thể thực hiện được.”
Goody Alsop tháo lỏng chiếc nút vừa thắt chỉ bằng một cái búng trên ngón tay trỏ xương xẩu. Tôi trao lại cho bà dải lụa đỏ và bà tạo ra một vòng thắt đơn giản. Trong chốc lát, sợi dây thừng được nung chảy thành một vòng tròn không thể phá vỡ, nhưng ngay khi bà thả tay, vòng thắt bị bung ra.
“Nhưng bà mới nối hai đầu sợi dây với nhau một phút trước, và quy trình đó thậm chí còn phức tạp hơn rất nhiều,” tôi bối rối nói.
“Chừng nào còn một điểm vắt chéo trên sợi dây, ta đều có thể thắt hai đầu và hoàn thành bùa chú. Tuy nhiên, chỉ có duy nhất một thợ dệt, người đứng giữa các thế giới mới có thể tạo ra nút thắt thứ mười,” bà đáp. “Thử đi và hãy dùng dải lụa màu bạc.”
Tuy vẫn hoang mang nhưng tôi thử xỏ hai đầu của sợi dây vào cùng một vòng xuyến. Các thớ dây bện xoắn vào nhau thành hình một vòng thắt và không có đầu, không có cuối. Tôi nhấc ngón tay khỏi dải lụa nhưng vòng tròn vẫn giữ nguyên.
“Làm tốt lắm,” Goody Alsop nói với vẻ thỏa mãn. “Nút thắt thứ mười nắm giữ sức mạnh của sự vĩnh cửu, một quá trình dệt nên sự sống và cái chết. Nó khá giống hình con rắn của chồng con hoặc cách mà đôi lúc Corra ngậm đuôi trong miệng.” Bà cầm nút thắt thứ mười lên. Nó là một biểu tượng tuần hoàn khác, cảm giác về sự huyền bí dâng lên trong căn phòng khiến tôi dựng hết lông tơ trên cánh tay. “Sáng tạo và phá hủy là những phép thuật đơn giản và quyền năng nhất, cũng như nút thắt đơn giản nhất cũng khó thực hiện nhất.”
“Cháu không muốn sử dụng phép thuật để phá hủy điều gì,” tôi nói. Gia đình Bishop của tôi có một truyền thống kiên quyết là không gây tổn hại điều gì. Dì Sarah của tôi tin rằng, bất kỳ phù thủy nào sống xa nguyên lý căn bản thì sẽ thấy quỷ dữ theo sau mình ở đoạn cuối con đường.
“không ai muốn sử dụng những món quà mà nữ thần ban tặng như một loại vũ khí, nhưng đôi khi điều đó là cần thiết. Wearh của con biết vậy và sau những chuyện xảy ra tại đây cũng như tại Scotland, con cũng biết mà.”
“Có thể, nhưng thế giới của cháu thì khác,” tôi nói. “Ít khi ta phải kêu gọi tới thứ vũ khí phép thuật.”
“Các thế giới đều thay đổi mà, Diana.” Goody Alsop tập trung hồi tưởng những ký ức xa xôi. “Người thầy của ta, Mẹ Ursula, là một thợ dệt vĩ đại. Ta đã nhớ ra một lời tiên tri của người vào đêm trước dịp All Hallows, khi chuỗi sự kiện kinh hoàng bắt đầu tại Scotland và lúc con tới để thay đổi thế giới của chúng ta.”
Giọng nói của bà ngân nga giai điệu tựa như một câu thần chú.
“Khi những cơn bão nổi giận và đại dương gầm gào
Gabriel đứng trước biển và bờ cát.
Người thổi chiếc tù và kỳ lạ,
Thế giới cũ sẽ chết đi và cái mới sẽ ra đời.”
Khi Goody Alsop kết thúc, không một cơn gió thoảng hay tiếng lách tách nào làm náo động căn phòng. Bà hít lấy một hơi thật sâu.
“Con thấy đấy, tất cả trong một, cái chết và sự ra đời. Nút thắt thứ mười không có bắt đầu cũng như không có kết thúc, cả con rắn của ma cà rồng nữa. Tuần này, trăng tròn sớm hơn thường lệ và cái bóng của Corra trải rộng trên sông Thames là điềm gở cho chuyến ra đi của hai người. Thế giới cũ và mới.” Goody Alsop mỉm cười yếu ớt. “Ta đã rất vui khi con đến với ta, Diana Roydon. Và lúc con đi vì con buộc phải làm vậy, thì trái tim ta cảm thấy nặng trĩu.”
“Matthew thường báo mỗi khi ông ta rời khỏi thành phố của ta.” Hai bàn tay trắng nhợt của Andrew Hubbard thả lỏng trên phần tay tựa của chiếc ghế bành trong hầm mộ nhà thờ. trên đầu chúng tôi, ai đó đang chuẩn bị cho một buổi lễ nhà thờ sắp diễn ra. “Điều gì đưa bà tới đây vậy, bà Roydon?”
“Tôi đến để nói chuyện về Annie và Jack.”
Ánh mắt xa lạ của Hubbard ngắm nghía tôi kỹ càng, trong lúc tôi rút một bọc tiền nhỏ bằng da từ trong túi áo mình. Số tiền này bao gồm tiền công năm năm chăm sóc cho mỗi đứa trẻ.
“Tôi sẽ rời London và tôi muốn ông nhận lấy chỗ tiền này để chăm sóc chúng.” Tôi đẩy cái bọc về phía Hubbard nhưng ông ta tỏ ra không buồn nhận nó.
“Thứ này không cần thiết, thưa bà.”
“Làm ơn đi. Đáng lẽ tôi đã đưa chúng theo nếu có thể nhưng vì chúng không thể đi khỏi đây nên tôi cần đảm bảo sẽ có người trông coi chúng.”
“Và bà sẽ cho ta thứ gì để đổi lại?”
“Tại sao chứ… tiền, tất nhiên là vậy.” Tôi giơ chiếc túi ra một lần nữa.
“Ta không muốn hay cần tiền, thưa bà Roydon.” Hubbard ngả lưng ra sau, đôi mắt khẽ nheo lại.
“Vậy ông…” Tôi dừng lại. “không.”
“Chúa chẳng làm điều gì vô nghĩa cả, không hề có sự cố nào trong kế hoạch của Người. Người muốn bà tới đây hôm nay bởi Người muốn đảm bảo rằng, không có kẻ nào nhận máu từ bà sẽ sợ hãi ta hay người của ta.”
“Tôi có đủ người bảo vệ rồi,” tôi phản đối.
“Và bà cũng nói vậy với chồng mình sao?” Hubbard liếc nhìn ngực tôi. “Giờ đây, trong huyết quản của ông ấy, máu của bà trở nên mạnh mẽ hơn lúc mới đến. Và bà còn có đứa trẻ để cân nhắc.”
Trái tim tôi đập loạn nhịp. Khi tôi đưa Matthew trở lại thế giới hiện đại, Andrew Hubbard sẽ là một trong số ít người biết về tương lai của anh ấy và rằng tương lai đó sẽ tồn tại một nữ phù thủy.
“Ông không thể sử dụng những hiểu biết từ tôi để chống lại Matthew, không thể được sau những gì anh ấy đã làm – cả sự thay đổi của anh ấy nữa.”
“Ta sẽ không thể sao?” Nụ cười nhăn nhở của Hubbard cho tôi biết, lão ta sẽ làm bất cứ điều gì để bảo vệ đám con chiên của mình. “Thế giới của chúng ta có rất nhiều dòng máu xấu xa.”
“Tôi sẽ tìm cách khác để đảm bảo an toàn cho chúng,” tôi nói và quyết định đi khỏi đây.
“Annie đã là con của ta rồi. cô nhóc là một phù thủy và là thành viên trong gia đình ta nên ta sẽ chăm lo cho hạnh phúc của nó. Jack Blackfriars lại là vấn đề khác. Nó không phải sinh vật khác người và sẽ phải tự lo cho bản thân.”
“Nhưng nó chỉ là một đứa trẻ – một cậu bé!”
“Nhưng không phải con ta, cũng như bà. Ta không nợ bà bất cứ thứ gì. Chúc một ngày tốt lành, bà Roydon.” Hubbard quay mặt đi.
“Vậy nếu tôi là một phần trong gia đình của ông thì sao? Ông sẽ thực hiện yêu cầu của tôi với Jack chứ? Ông sẽ thừa nhận Matthew như một người nhận máu từ tôi và từ đó, đặt anh ấy dưới sự bảo hộ của mình?” Người tôi đang nghĩ tới là Matthew thế kỷ mười sáu. Khi chúng tôi quay lại hiện tại thì Matthew kia sẽ vẫn ở đây, trong quá khứ.
“Nếu bà trả cho ta bằng máu mình thì không chỉ Matthew, không chỉ Jack, mà cả đứa con chưa sinh của bà cũng chẳng cần sợ hãi ta hay người của ta.” Hubbard truyền đạt lại thông tin một cách thản nhiên, tuy vậy ánh mắt thoáng qua của lão ẩn chứa sự tham lam giống như tôi từng thấy trong mắt Rudolf.
“Vậy ông cần bao nhiêu máu?” Hãy suy nghĩ. Hãy sống sót.
“Rất ít, chỉ một giọt thôi.” sự chú ý từ Hubbard không còn dao động.
“Tôi không thể để ông trực tiếp lấy máu từ cơ thể mình. Matthew sẽ biết – dù sao thì chúng tôi là một đôi bạn đời,” tôi nói. Ánh mắt của Hubbard đảo qua đảo lại vị trí ngực của tôi.
“Tôi luôn luôn nhận máu hiến tế trực tiếp từ cổ con chiên của mình.”
“Tôi cũng biết vậy, Cha Hubbard. Nhưng ông có thể hiểu được lý do tại sao hành động đó bất khả thi hay thậm chí cả những điều đáng thèm khát trong trường hợp này.” Tôi im lặng, hy vọng lòng ham muốn mãnh liệt của Hubbard – dành cho quyền lực, sự thấu hiểu Matthew và tôi, cũng như những thông tin có thể đe dọa tới gia đình de Clermont mà biết đâu ông ta cần chúng – sẽ chiến thắng. “Tôi có thể dùng cốc.”
“không,” Hubbard lắc đầu đáp. “Máu của bà sẽ bị ô uế. Nó phải thật thuần khiết.”
“Vậy thì một cái cốc bạc,” tôi nói và liên tưởng tới các bài thuyết trình của Đầu Bếp ở Sept-Tours.
“Bà hãy cắt mạch máu tại cổ tay phía trên miệng tôi rồi để giọt máu rơi xuống. Chúng ta sẽ không chạm vào nhau.” Hubbard quắc mắt nhìn tôi. “Nếu không, tôi sẽ nghi ngờ tính chân thật trong lời đề nghị của bà.”
“Rất tuyệt, Cha Hubbard. Tôi chấp nhận điều kiện của ông.” Tôi nới lỏng sợi dây buộc cổ tay áo bên phải rồi kéo lên trong lúc thì thầm một yêu cầu câm lặng tới Corra. “Ông muốn làm ở đâu? Theo như tôi thấy trước đây thì các con chiên sẽ quỳ xuống trước mặt, nhưng trong trường hợp tôi nhỏ máu mình vào miệng ông thì cách đó không có hiệu quả.”
“Đó là một lễ ban phước. Ai quỳ trước Chúa cũng vậy thôi.” Trước vẻ mặt ngạc nhiên của tôi, Hubbard quỳ xuống sàn trước mặt tôi và đưa ra một con dao.
“Tôi không cần.” Tôi búng ngón tay vào các mạch máu màu xanh trên cổ tay mình, rồi lẩm bẩm một câu thần chú mở đơn giản. một vệt đỏ thẫm hiện ra, sau đó máu bắt đầu chảy.
Hubbard mở miệng, ánh mắt dán chặt vào khuôn mặt tôi. Ông ta đang đợi những biểu hiện từ bỏ hoặc lừa dối từ tôi. Nhưng tôi sẽ tuân theo từng từ của thỏa thuận nàycủa nó. Cảm ơn, Goody Alsop, tôi thầm cầu chúc cho bà, cảm ơn vì đã hướng dẫn tôi cách điều khiển đàn ông.
Tôi đưa cổ tay lên phía trên miệng ông ta và nắm chặt bàn tay. một giọt máu lăn quanh cổ tay và bắt đầu rơi xuống. Đôi mắt của Hubbard chợt khép lại như thể ông ta muốn tập trung vào những điều dòng máu trong tôi truyền đạt.
“Máu là gì nếu không phải là lửa và nước?” Tôi lẩm bẩm và gọi gió tới để làm giảm tốc độ giọt máu. Khi sức mạnh không khí tăng lên, nó làm kết tinh và tăng phần sắc lạnh cho hạt chất lỏng chạm vào lưỡi của Hubbard. Gã ma cà rồng mở bừng mắt với vẻ ngạc nhiên.
“Chỉ một giọt thôi.” Cơn gió đã làm se phần máu còn lại trên da, tạo thành một đám vết đỏ ngoằn ngoèo trên sợi tĩnh mạch màu xanh. “Ông là người của Chúa, là người giữ lời, phải không Cha Hubbard?”
Cái đuôi của Corra nới lỏng khỏi phần thắt lưng tôi. cô nàng dùng nó để ngăn cách đứa trẻ khỏi nhận biết về vụ giao dịch bẩn thỉu này, nhưng lúc này, có vẻ cô nàng muốn dùng đuôi mình để đánh Hubbard bất tỉnh nhân sự.
Tôi chầm chậm rút tay lại. Hubbard đã thoáng nghĩ tới việc chộp lấy tay tôi và đưa vào miệng gã. Tôi trông thấy ý tưởng đó lướt qua tâm trí gã rõ ràng như trông thấy Edward Kelley thưởng thức hình ảnh tôi bị đánh đập bằng cây gậy chống của hắn. Tuy nhiên, Hubbard tỉnh táo hơn. Tôi liền thì thầm một câu thần chú đơn giản khác để khép miệng vết thương rồi quay người bỏ đi không nói lời nào.
“Lần sau khi bà tới London,” Hubbard nhẹ nhàng nói, “Chúa sẽ thì thầm thông báo tới ta và nếu vậy, chúng ta sẽ gặp nhau lần nữa. Tuy nhiên hãy nhớ rằng, không cần biết từ lúc này, bà đi xa tới đâu, thậm chí là đã qua đời, nhưng một phần nhỏ bé trong bà sẽ sống mãi cùng ta.”
Tôi dừng bước và nhìn lại phía gã. Lời nói của Hubbard mang tính đe dọa nhưng biểu hiện trên nét mặt thì có vẻ trầm ngâm, thậm chí là buồn bã. Tôi rảo bước thật nhanh rời khỏi khu hầm mộ của nhà thờ, chỉ muốn tránh gã càng xa càng tốt.
“Tạm biệt Diana Bishop.” hắn gọi với sau lưng.
Tôi đã băng qua gần nửa thị trấn rồi mới chợt nhận ra, tuy chỉ một giọt máu bé nhỏ nhưng có thể tiết lộ rất nhiều điều. Cha Hubbard giờ đã biết tên thật của tôi.
***
Walter và Matthew đang quát tháo nhau lúc tôi trở về Hươu Đực và Vương Miện. Người giữ ngựa của Raleigh cũng có thể nghe thấy tiếng họ. Ông ta đang đứng trong sân, cầm dây cương của một con ngựa đen hung tợn và lắng nghe hai người mắng nhiếc nhau qua các cánh cửa sổ mở toang.
“Chuyện này đồng nghĩa với việc tôi chết – và cô ấy cũng vậy! không ai được phép biết về cô ấy cùng sự tồn tại của đứa trẻ!” thật kỳ quặc, lời nói này là của Walter.
“Cậu không thể bỏ rơi người phụ nữ cậu yêu cùng đứa con của chính mình chỉ để cố gắng trung thực trước nữ hoàng, Walter. Elizabeth sẽ phát hiện việc cậu phản bội bà ta và Bess sẽ bị hủy hoại mãi mãi.”
“Vậy cậu muốn tôi làm gì? Cưới cô ấy à? Nếu tôi làm vậy mà không có sự cho phép của nữ hoàng, tôi sẽ bị bắt giam ngay.”
“Cậu vẫn sống sót cho dù chuyện gì xảy ra,” Matthew nói thẳng thừng. “Nhưng nếu cậu bỏ mặc Bess không được bảo vệ, cô ấy chẳng sống nổi đâu.”
“Sao cậu có thể tỏ vẻ quan tâm tới tính trung thực trong hôn nhân sau tất cả những lời nói dối về Diana? Nhiều lúc cậu khăng khăng rằng mình đã kết hôn, nhưng lại bắt chúng tôi phải thề thốt phủ nhận điều đó, khi có bất kỳ phù thủy hoặc wearh lạ mặt nào tới đánh hơi hỏi dò.” Giọng của Walter giảm nhỏ nhưng tính hung tợn vẫn giữ nguyên. “Chẳng lẽ cậu muốn tôi tin rằng, cậu sẽ quay trở về cái nơi quái quỷ mà từ đó cậu tới và thừa nhận cô ấy là vợ cậu?”
Tôi lẻn vào phòng để không ai nhận ra.
Matthew ngập ngừng.
“Tôi nghĩ là không,” Walter nói rồi đeo găng tay vào.
“Đây là cách hai người muốn nói lời tạm biệt nhau sao?” Tôi hỏi.
“Diana,” Walter cảnh giác nói.
“Xin chào Walter. Người hầu của anh đang ở bên dưới cùng con ngựa.”
anh ta bắt đầu hướng về phía cửa, nhưng bỗng dừng lại. “Matthew, hãy biết điều. Tôi không thể đánh mất toàn bộ sự tín nhiệm trong triều đình. Bess hiểu rõ mối nguy hiểm từ cơn giận dữ của nữ hoàng hơn bất kỳ ai. Trong triều đình của Elizabeth, may mắn hay xui xẻo cũng chỉ là thoáng qua, nhưng sự thất sủng thì kéo dài mãi mãi.”
Matthew quan sát bạn mình ầm ầm bước xuống cầu thang. “Chúa tha thứ cho con. Đây là lần đầu tiên anh nghe thấy kế hoạch này và anh đã bảo cậu ta hãy lựa chọn sáng suốt. Tội nghiệp Bess.”
“Chuyện gì xẽ xảy ra sau khi chúng ta đi?” Tôi hỏi.
“Tới mùa thu, bụng bầu của Bess bắt đầu lộ rõ. Họ kết hôn trong bí mật. Khi nữ hoàng hỏi về mối quan hệ của hai người, Walter sẽ phủ nhận, hết lần này tới lần khác. Danh tiếng của Bess bị hủy hoại và chồng của cô ấy bị phát giác là một kẻ nói dối, cả hai liền bị bắt giam.”
“Còn đứa bé?” Tôi thì thào.
“Nó sẽ sinh vào tháng ba nhưng chết vào mùa thu sau.” Matthew ngồi xuống chiếc bàn, hai tay ôm đầu. “anh sẽ viết thư cho cha và đảm bảo rằng Bess sẽ được ông bảo vệ. Susanna Norman có thể trông nom cô ấy suốt thời kỳ mang thai.”
“Cả cha anh lẫn Susanna đều không thể che chắn cô ấy khỏi cú đòn phủ nhận của Raleigh.” Tôi đặt hai tay lên ống tay áo của anh. “Và anh cũng sẽ phủ nhận chuyện chúng ta đã kết hôn sau khi trở về phải không?”
“Mọi thứ không đơn giản vậy,” Matthew đáp, nhìn tôi bằng ánh mắt ám ảnh.
“Walter nói điều đó và anh đã phủ nhận.” Tôi nhớ lại lời tiên tri của Goody Alsop. “Thế giới cũ sẽ chết đi và cái mới sẽ ra đời. Thời điểm anh phải chọn lựa giữa sự an toàn của quá khứ hay lời hứa cho tương lai đang tới rồi, Matthew.”
“không thể sửa chữa quá khứ cho dù ta có cố gắng thế nào,” anh nói. “anh luôn nói điều này với nữ hoàng mỗi khi bà ta khổ sở vì một quyết định sai lầm. Tự mình làm đau bản thân, như Gallowglass thường nói.”
“Chú đã nói trước cháu rồi.” Gallowglass âm thầm tiến vào phòng và dỡ các gói bưu kiện ra. “Cháu đã lấy giấy cho chú, cả bút nữa và thuốc bổ cho cổ họng của Jack.”
“Đấy là những gì thằng bé nhận được sau nhiều lần lên tháp cùng Tom và nói chuyện về các vì sao.” Matthew xoa mặt. “Chúng ta cần chắc chắn rằng, Tom được chu cấp đầy đủ, Gallowglass. Walter không có khả năng giữ cậu ta phục vụ lâu hơn nữa. Henry Percy cần phải tham gia hỗ trợ – một lần nữa – tuy nhiên, ta cũng nên đóng góp phần nào cho trợ cấp của cậu ta.”
“Bài phát biểu của Tom ư, chú đã nhìn thấy các phác thảo của cậu ta về cái kính nhìn bằng một mắt để quan sát thiên đường chưa? Cậu ta cùng Jack gọi nó là kính sao.”
Da đầu tôi bỗng ngứa râm ran và các sợi tơ trong căn phòng rung lên lách tách. Thời gian đang lên tiếng phản đối âm thầm nơi góc phòng.
“một cái kính sao.” Tôi giữ cho giọng nói vẫn điềm tĩnh. “Trông nó thế nào?”
“cô hãy tự hỏi cậu ta đi,” Gallowglass nói, quay đầu về phía cầu thang. Jack và Giẻ Lau bất ngờ lao vào phòng. Tom lơ đãng theo sau, trên tay cầm hai bên mắt của một chiếc kính gãy.
“Nếu em can thiệp vào chuyện này, chắc chắn sẽ để lại dấu vết cho tương lai đấy, Diana,” Matthew cảnh báo.
“Nhìn, nhìn này.” Jack khua ra một mảnh gỗ dày. Giẻ Lau dõi theo chuyển động của nó và đớp cái que khi nó tới gần. “Ông Harriot bảo rằng, nếu chúng ta khoét rỗng nó và đặt các miếng kính vào phần đuôi, thì ta có thể khiến các vật ở xa dường như gần hơn. Ông có biết cách nào để khoét nó không? Nếu không, ông có nghĩ thợ mộc ở St. Dunstan sẽ dạy cháu không? Mà bánh bao nhân nho còn không ạ? Bụng của ông Harriot đã réo cả chiều nay rồi.”
“Để ta xem nào,” tôi nói, đưa tay ra cầm cái ống gỗ. “Bánh bao ở trong tủ chạn chỗ đầu cầu thang đó Jack, chúng luôn ở đấy mà. Đưa cho ông Harriot một cái và lấy một cái cho cháu nhưng,” tôi cắt ngang lời cậu nhóc định nói, “đừng chia phần của cháu cho Giẻ Lau đấy.”
“Chúc một ngày tốt lành, bà Roydon,” Tom mơ màng nói. “Nếu một cặp kính mắt đơn giản có thể giúp con người nhìn thấy lời Chúa trong Kinh thánh, thì chắc chắn cũng có thể giúp anh ta thực hiện công việc phức tạp hơn để quan sát công việc của Chúa trong Cuốn sách Thiên nhiên. Cảm ơn Jack.” Tom thẫn thờ cắn một miếng bánh.
“Vậy anh sẽ làm nó phức tạp hơn bằng cách nào?” Tôi lớn tiếng nói ra sự băn khoăn, gần như không dám thở.
“Tôi sẽ kết hợp các thấu kính lồi và lõm, giống như quý ông người xứ Naples, ngài della Porta đã đưa ra trong một cuốn sách tôi đọc năm ngoái. Cánh tay của tôi không thể giữ chúng ở khoảng cách thích hợp nên chúng tôi đang cố gắng mở rộng tầm với bằng mảnh gỗ này.”
Bằng những lời này, Thomas Harriot đã thay dổi lịch sử khoa học. Và tôi không được can thiệp vào quá khứ – tôi chỉ có thể quan sát phần quá khứ không bị lãng quên.
“Tuy nhiên, đây chỉ là các tưởng tượng vô nghĩa. Tôi sẽ viết ra giấy và suy ngẫm về chúng sau.” Tom thở dài.
Đây chính là vấn đề của các nhà khoa học tiền hiện đại: Họ chưa hiểu được sự cần thiết của việc công bố. Trong trường hợp của Thomas Harriot thì hiển nhiên, các ý tưởng của anh ta sẽ bị nuốt trọn ngay trước nhu cầu của một nhà xuất bản.
“Tôi nghĩ anh nói đúng đấy Tom. Nhưng ống gỗ này chưa đủ dài.” Tôi mỉm cười rạng rỡ nhìn anh ta. “Về các thợ mộc ở St. Dunstan thì ông Monsieur Vallin có thể giúp anh kiếm một cái ống rỗng và dài đúng cỡ anh cần. Chúng ta sẽ tới gặp ông ta chứ nhỉ?”
“Vâng!” Jack hét lớn và nhảy cẫng lên. “Ông Monsieur Vallin có đủ kiểu bánh răng và lò xo, ông Harriot ạ. Ông ấy từng cho cháu một cái nằm trong hộp kho báu của cháu đấy. Hộp của cháu không lớn bằng hộp của bà Roydon, nhưng cũng vừa đủ. Chúng ta có thể đi ngay chứ?”
“Có chuyện gì với cô vậy?” Gallowglass hỏi Matthew, vừa bối rối vừa đề phòng.
“Ta nghĩ cô ấy đang trả miếng Walter vì không quan tâm đầy đủ tới tương lai,” Matthew ôn tồn nói.
“Ôi, mọi chuyện sẽ ổn thôi. Cháu nghĩ mình đánh hơi thấy mùi rắc rối ở đây.”
“Luôn luôn có rắc rối mà,” Matthew đáp. “Em có chắc mình đang làm gì không, ma lionne?”
đã có quá nhiều chuyện xảy ra mà tôi không thể sửa chữa. Tôi không thể mang đứa con đầu tiên quay trở lại hay không thể bảo vệ các phù thủy tại Scotland. Chúng tôi đã bằng mọi cách đưa Ashmole 782 ra khỏi Praha, chỉ để khám phá ra rằng, không thể mang nó tới tương lai an toàn. Chúng tôi đã nói lời từ biệt với cha mình và sắp sửa rời xa bạn bè. Phần lớn các trải nghiệm này sẽ biến mất không còn một dấu vết. Nhưng tôi biết chính xác cách đảm bảo chiếc kính viễn vọng của Tom tồn tại.
Tôi gật đầu. “Quá khứ đã thay đổi chúng ta, Matthew. Tại sao chúng ta không thay đổi nó?”
Matthew nắm lấy bàn tay tôi và đặt một nụ hôn lên đó. “Hãy tới gặp Monsieur Vallin đi và bảo ông ấy gửi hóa đơn cho anh.”
“Cảm ơn anh.” Tôi cúi xuống thì thầm bên tai anh. “Đừng lo, em sẽ đưa Annie theo cùng để mặc cả giá. Ai mà biết được giá cho một cái kính thiên văn năm 1591 là bao nhiêu chứ?”
Vậy nên một phù thủy, một yêu tinh, hai đứa trẻ cùng một con chó tới ghé thăm Monsieur Vallin vào buổi chiều. Tối hôm đó, tôi gửi thư mời những người bạn của mình tới chơi với gia đình vào tối hôm sau. Đó sẽ là lần cuối chúng tôi gặp mặt họ. Trong khi tôi xoay sở với chiếc kính viễn vọng và các kế hoạch cho bữa tối thì Matthew chuyển Verum Secretum Secretorum của Roger Bacon tới chỗ Mortlake. Tôi không muốn thấy cuốn Ashmole 782 bị chuyển tới cho tiến sĩ Dee. Tôi biết là cuốn sách phải quay trở về thư viện khổng lồ của nhà giả kim thuật, để Elias Ashmole có thể sưu tập được vào thế kỷ mười bảy. Tuy nhiên, việc trao cuốn sách cho một người khác lưu giữ thật khó khăn, còn hơn lúc tôi phải từ bỏ bức tượng nhỏ tạc hình nữ thần Diana vào tay Kit, lúc cả hai mới tới nơi. Các chi tiết thực tế quanh chuyến khởi hành của cả hai được giao cho Gallowglass cùng Pierre. Họ đóng gói rương hòm, rút hết tiền trong két, phân phối lại nguồn tài chính và gửi đồ dùng cá nhân về Chòi Gác Cổ với tác phong đầy kinh nghiệm, cho thấy cả hai đã phải làm việc này rất nhiều lần trước đó.
Chuyến khởi hành của chúng tôi sẽ diễn ra sau vài tiếng nữa. Tôi đang trên đường trở về từ tiệm của Monsieur Vallin cùng một gói đồ lỉnh kỉnh bọc da mềm, thì thoáng trông thấy hình ảnh một cô bé mười tuổi đứng trên phố, bên ngoài tiệm bánh nướng, quan sát chăm chú như bị thôi miên vào dãy hàng hóa trong cửa sổ. cô nhóc nhắc tôi nhớ về chính mình vào độ tuổi đó, từ mái tóc màu vàng rơm bất trị cho tới hai cánh tay quá dài so với khung người. cô nhóc trở nên cứng đờ như thể biết rằng mình bị quan sát. Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, tôi biết lý do tại sao: cô bé là một phù thủy.
“Rebecca!” một phụ nữ gọi lớn sau khi bước ra khỏi cửa tiệm. Trái tim tôi đập nhanh hơn lúc trông thấy hình ảnh trước mắt, người phụ nữ đó giống như một sự kết hợp của mẹ tôi và dì Sarah.
Rebecca chẳng nói gì ngoài việc tiếp tục nhìn tôi chằm chằm như thể cô nhóc trông thấy một hồn ma. Mẹ cô hình như đã bắt được mục tiêu chú ý của con gái liền thở hổn hển. Ánh mắt râm ran lướt trên da tôi trong lúc bà thu vào hình ảnh gương mặt cũng như vóc dáng của tôi. Bà ấy cũng là một phù thủy.
Tôi buộc bản thân tiến vài bước tới tiệm bánh nướng. Mỗi bước đi đưa tôi lại gần hai phù thủy hơn. Người mẹ kéo con gái nấp sau váy mình và Rebecca oằn người phản kháng.
“cô ấy trông giống hệt bà ngoại,” Rebecca thì thầm, cố vươn người tới gần để nhìn tôi.
“Suỵt,” mẹ cô bé nói. Bà ta nhìn tôi vẻ có lỗi. “Con biết bà ngoại mất rồi mà, Rebecca.”
“Tôi là Diana Roydon.” Tôi gật đầu ra hiệu qua vai họ. “Tôi sống tại Hươu Đực và Vương Miện ở đây.”
“Vậy bà là…” Đôi mắt người phụ nữ mở lớn và kéo Rebecca lại gần hơn.
“Cháu là Rebecca White,” cô nhóc nói, không hề quan tâm tới phản ứng của mẹ mình. cô nhóc loạng choạng hơi nhún gối chào. Hình ảnh này cũng thật thân thuộc.
“Rất vui được gặp cháu. Cháu mới tới Blackfriars sao?” Tôi muốn nói chuyện vẩn vơ lâu tới chừng nào có thể, chỉ để nhìn chằm chằm vào hai gương mặt xa-lạ-có-cảm-giác-thân-quen.
“không ạ, mẹ con cháu sống nhờ nhà tế bần gần chợ Smithfield,” Rebecca giải thích.
“Tôi tiếp nhận các bệnh nhân khi khu vực của họ đã quá tải.” Người phụ nữ ngập ngừng. Tôi là Bridget White và Rebecca là con gái tôi.”
Ngoài hai cái tên quen thuộc Rebecca và Bridget, từ trong thâm tâm mình, tôi đã nhận ra hai sinh vật khác người này. Bridget Bishop sinh năm 1632 và cái tên đầu tiên trong cuốn sách bí kíp nhà Bishop là bà ngoại của Bridget, Rebecca Davies. Phải chăng, chính là cô bé mười tuổi này một ngày nào đó sẽ kết hôn và mang họ kia?
Ánh mắt của Rebecca tập trung vào một thứ gì đó trên cổ tôi. Tôi đưa tay lên. Đôi khuyên tai của Ysabeau.
Tôi đã sử dụng ba vật để đưa hai vợ chồng trở về quá khứ: một bản chép tay cuốn Doctor Faustus, một quân cờ bằng bạc và một chiếc khuyên giấu trong hình nhân của Bridget Bishop. Chiếc khuyên tai này. Tôi với tay tháo sợi dây vàng mỏng ra khỏi tai. Qua những trải nghiệm với Jack, tôi hiểu rằng, tạo sự kết nối bằng mắt với bọn trẻ là cách khôn ngoan để khiến chúng có ấn tượng lâu dài về mình. Tôi cúi thấp xuống cho tới lúc hai bên gần ngang bằng nhau.
“cô cần ai đó giữ giùm vật này.” Tôi đưa chiếc khuyên tai ra. “một ngày nào đó cô sẽ cần nó, cháu sẽ giữ kỹ cho cô chứ.”
Rebecca nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm túc rồi gật đầu. Tôi cầm lấy tay cô bé, cảm nhận được một luồng ý thức nhận biết chuyền qua giữa chúng tôi và đặt hai chiếc khuyên tai vào lòng bàn tay cô bé. cô nhóc nắm thật chặt tay giữ chúng. “Có được không mẹ?” Sau đó, Rebecca mới thì thầm hỏi Bridget.
“Mẹ nghĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi,” mẹ cô thận trọng nói. “Lại đây nào Rebecca, chúng ta phải đi rồi.”
“Cảm ơn cháu,” tôi nói rồi đứng thẳng dậy và vỗ nhẹ lên vai Rebecca, trong khi nhìn thẳng vào mắt Bridget. “Cảm ơn bà.”
Tôi nhận thấy một ánh mắt thúc vào mình, nhưng vẫn đợi tới khi Rebecca cùng Bridget ra khỏi tầm mắt rồi mới quay lại đối diện Christopher Marlowe.
“Bà Roydon.” Giọng của Kit khàn khàn và trông anh ta như đã chết. “Walter bảo tôi rằng bà sẽ đi tối nay.”
“Tôi yêu cầu anh ấy thông báo với anh.” Tôi buộc Kit nhìn vào mắt mình bằng một hành động của ý chí tuyệt đối. Đây là một điều khác mà tôi có thể sửa chữa: tôi có thể đảm bảo rằng, Matthew sẽ nói lời tạm biệt với một người đã từng là bạn thân nhất của anh.
Kit nhìn xuống bàn chân để che giấu khuôn mặt mình. “Đáng lẽ tôi không nên tới đây.”
“Tôi tha thứ cho anh, Kit.”
Marlowe bất ngờ ngẩng đầu lên bởi những lời tôi nói. “Tại sao?” anh ta lặng người hỏi.
“Bởi anh yêu anh ấy. Và bởi chừng nào Matthew còn đổ lỗi cho anh những chuyện xảy ra với tôi thì một phần của anh ấy vẫn ở bên anh. Mãi mãi.” Tôi nói thẳng. “Hãy lên gác và nói lời tạm biệt đi.”
Matthew đang đợi chúng tôi ở đầu cầu thang, anh đã đoán trước rằng tôi sẽ đưa người về nhà. Tôi hôn nhẹ lên môi khi đi ngang qua anh về phòng ngủ.
“Cha đã tha thứ cho anh,” tôi lẩm bẩm. “Hãy trao Kit món quà tương ứng để đền đáp lại.”
Rồi tôi để hai người họ với nhau, sửa chữa những gì có thể trong khoảng thời gian ít ỏi còn lại.
***
Vài tiếng sau, tôi trao Thomas Harriot một cái ống thép. “Đây là kính sao của cậu, Tom.”
“Tôi đã tạo dáng theo kiểu nòng súng cho nó – tất nhiên là có thay đổi vài chỗ,” Monsieur Vallin, người thợ nổi tiếng về các kiểu bẫy chuột và đồng hồ giải thích. “Và nó được chạm khắc theo yêu cầu của bà Roydon.”
Bên cạnh thân ống đặt một dải biểu ngữ nhỏ xinh xắn màu bạc là một huyền thoại N.VALLIN ME FECIT, T.HARRIOT ME INVENIT, 1591.
“N. Vallin tạo ra tôi, T. Harriot phát minh tôi, 1591.” Tôi mỉm cười nhìn Mosieur Vallin một cách ấm áp. “thật hoàn hảo.”
“Chúng ta có thể nhìn mặt trăng bây giờ không?” Jack hét lên, nhảy cẫng trên sàn. “Trông nó sẽ lớn hơn cái đồng hồ ở nhà thờ St. Mildred!”
Vậy là, nhà toán học và ngôn ngữ học Thomas Harriot đã tạo nên lịch sử khoa học trong sân của Hươu Đực và Vương Miện, trong khi ngồi trên chiếc ghế mây mòn vẹt, được kéo xuống từ gác xép của chúng tôi. anh ta chĩa cái ống sắt dài được ghép khớp với hai chiếc mắt kính về phía trăng tròn, rồi thở dài hân hoan.
“Xem này Jack. Nó giống như lời ngài della Porta đã nói.” Tom bảo cậu bé ngồi lên lòng mình và đặt một đầu ống vào mắt của người phụ tá nhiệt tình. “Hai cái mắt kính, một lồi, một lõm quả là giải pháp đúng đắn nếu được đặt vào vị trí thích hợp.”
Sau Jack, tất cả chúng tôi lần lượt nhòm qua ống.
“Ôi, đây không phải là những gì tôi mong đợi,” George Chapman thất vọng nói. “Cậu có nghĩ, đáng lẽ mặt trăng phải gây xúc động hơn không? Tôi nghĩ mình thích mặt trăng huyền diệu trong thơ ca hơn cái này, Tom ạ.”
“Tại sao trông nó chẳng hoàn hảo gì cả,” Henry Percy phàn nàn, xoa xoa hai mắt rồi lại nhìn qua ống lần nữa.
“Tất nhiên nó không hoàn hảo, chẳng có gì là hoàn hảo cả,” Kit nói. “anh không thể tin mọi điều mà các nhà triết học bảo anh, Hal. Điều đó chắc chắn sẽ phá hủy mọi thứ. anh thấy chút ít triết học đã làm gì với Tom rồi đấy.”
Tôi liếc nhìn Matthew và nhoẻn miệng cười. đã lâu rồi chúng tôi mới tham dự vào những buổi tranh cãi trực tiếp của Bè Lũ Bóng Đêm. “Ít nhất Tom có thể tự nuôi sống mình hơn nhiều nhà viết kịch mà tôi quen biết.” Walter nhòm qua cái ống rồi huýt sáo. “Tôi ước gì cậu đã phát minh ra ý tưởng này trước khi chúng tôi tới Virginia, Tom ạ. Nó sẽ rất có ích trong việc khảo sát đường bờ biển khi chúng ta ở trên boong tàu an toàn. Gallowglass này, nhìn đi và hãy nói rằng tôi đã sai.”
“anh chẳng bao giờ sai, Walter.” Gallowglass nói rồi nháy mắt với Jack. “Tôi vẫn còn tỉnh táo, chàng trai trẻ Jack ạ. Người trả công cho mình thì nói gì cũng đúng.”
Tôi đã mời Goody Alsop và Susanna tới tham dự cùng và thậm chí, họ cũng nhìn qua cái ống kính sao của Tom. Chẳng ai trong số họ có vẻ bị ấn tượng quá mức với phát minh này, dẫu họ vẫn xuýt xoa thành tiếng sau khi được nhắc nhở.
“Tại sao đám đàn ông lại bận tâm mấy chuyện lặt vặt này?” Susanna thì thầm với tôi. “Tôi có thể nói với họ rằng, bề mặt của mặt trăng không hoàn toàn mềm mịn mà chẳng cần cái công cụ mới này. Họ không có mắt sao?”
Sau niềm hân hoan được nhìn ngắm thiên đường, chỉ còn lại những lời từ biệt khó khăn. Chúng tôi đã gửi Annie tới chỗ Goody Alsop và lấy cớ rằng, Susanna cần người giúp đỡ cụ bà bên kia thị trấn. Lời tạm biệt của tôi diễn ra chóng vánh và Annie nhìn tôi ngập ngừng.
“Bà ổn chứ? Cháu có thể ở lại đây được không?”
“không, Annie. Hãy đi với dì cháu và bà Goody Alsop.” Tôi chớp mắt để che giấu những giọt nước mắt. Làm sao Matthew có thể chịu đựng được việc lặp đi lặp lại những lời từ biệt thế này?
Kit, George cùng Walter rời đi sau đó cùng lời chào cộc lốc, những bàn tay siết lấy cánh tay Matthew và chúc anh mọi điều tốt đẹp.
“Lại đây nào Jack. Cháu và Tom sẽ về nhà với ta,” Henry Percy nói. “Buổi tối vẫn còn dài.”
“Cháu không muốn đi đâu,” Jack nói. Cậu nhóc lảng về phía Matthew, hai mắt mở lớn, dường như cảm nhận được sự thay đổi sắp xảy ra.
Matthew khom người trước mặt Jack. “Chẳng có gì phải sợ đâu, Jack. Cháu biết ông Harriot và Đức ngài Northumberland mà, họ sẽ không hại cháu đâu.”
“Thế nếu cháu gặp ác mộng?” Jack thì thầm.
“Những cơn ác mộng cũng giống như cái kính sao của ông Harriot thôi. Chúng chỉ là trò đùa của ánh sáng, khiến những thứ ở xa trở nên gần và to lớn hơn.”
“Ồ.” Jack ngẫm nghĩ về câu trả lời của Matthew. “Vậy thậm chí nếu cháu nhìn thấy một con quái vật trong giấc mơ, nó cũng không thể với tới cháu phải không?”
Matthew gật đầu. “Nhưng ta sẽ nói cho cháu nghe một bí mật. một giấc mơ là một cơn ác mộng theo kiểu ngược lại. Nếu cháu mơ về người nào đó cháu yêu quý thì họ sẽ dường như gần gũi hơn, cho dù đang cách xa.” anh đứng thẳng người và đặt tay lên đầu Jack một lúc, thầm cầu chúc cho cậu nhóc.
Khi Jack cùng những người bảo vệ cậu đã đi khỏi, chỉ còn Gallowglass ở đây. Tôi cầm lấy những sợi dây từ hộp bùa chú của mình, để lại trong đó vài thứ: một viên đá, một sợi lông trắng, một mẩu của cây thanh hương trà, trang sức của tôi và mảnh giấy nhắn cha tôi để lại.
“Cháu sẽ cất giữ chúng,” cậu ta hứa và nhận lấy cái hộp từ tôi. Nó trông nhỏ bé đến kỳ lạ trong bàn tay to lớn của Gallowglass. Cậu ta ôm bổng tôi lên.
“Hãy giữ an toàn cho Matthew kia để một ngày nào đó, anh ta tìm thấy tôi,” tôi thì thầm vào tai cậu, mắt tôi nhắm nghiền.
Tôi rời khỏi vòng tay của Gallowglass và bước sang bên. Hai người nhà de Clermont chào tạm biệt nhau như tất cả những người nhà de Clermont khác – ngắn ngủi nhưng đầy cảm xúc.
Pierre cùng hai con ngựa đang đợi chúng tôi ở bên ngoài quán Mũ Của Hồng Y Giáo Chủ. Matthew nhấc tôi lên yên và trèo lên con ngựa của mình.
“Thượng lộ bình an, madame,” Pierre nói và thả dây cương ra.
“Cảm ơn anh bạn,” tôi nói, đôi mắt lại ngập nước.
Pierre trao cho Matthew một lá thư. Tôi nhận ra dấu xi của Philippe. “Các chỉ thị từ cha ngài, milord.”
“Nếu sau hai ngày ta không quay lại từ Edinburgh, hãy đi tìm ta.”
“Tôi sẽ làm vậy,” Pierre hứa khi Matthew thúc ngựa, chúng tôi quay về hướng Oxford.
Cả hai đổi ngựa ba lần và tới Chòi Gác Cổ trước bình minh. Françoise và Charles đã được điều đi khỏi đây, vậy nên chúng tôi hoàn toàn đơn độc.
Matthew thả bức thư của Philippe xuống bàn, nơi mà Matthew thế kỷ mười sáu dễ dàng trông thấy. Theo đó, anh ta sẽ được gửi tới Scotland bởi công việc khẩn cấp. Tại đây, Matthew Roydon sẽ ở trong triều đình của vua James một thời gian, trước khi biến mất và bắt đầu cuộc đời mới tại Amsterdam.
“Vua xứ Scotland sẽ rất vui mừng khi thấy anh trở lại là con người trước kia,” Matthew bình luận và chạm đầu ngón tay vào lá thư. “Chắc chắn là anh sẽ không cố gắng bảo vệ phù thủy nữa.”
“anh đã tạo ra sự khác biệt tại đây, Matthew,” tôi nói và vòng tay ôm quanh thắt lưng anh. “Giờ chúng ta cần sắp xếp những chuyện trong hiện tại của mình.”
Chúng tôi bước vào căn phòng ngủ mà vài tháng trước, cả hai đã về quá khứ.
“anh biết em không thể đảm bảo việc cả hai trượt qua hàng thế kỷ và hạ cánh chính xác đúng nơi đúng lúc mà,” tôi cảnh báo.
“Em đã giải thích cho anh rồi, mon coeur, anh đặt lòng tin ở em.” Matthew khoác tay tôi để giữ tôi bên anh. “Hãy tới gặp tương lai của chúng ta. một lần nữa.”
“Tạm biệt ngôi nhà.” Tôi nhìn quanh căn nhà đầu tiên của cả hai lần cuối. Và cho dù tôi có nhìn bao lần thì nó vẫn hệt như hình ảnh vào buổi sáng tháng Sáu hôm đó.
Những sợi tơ màu xanh lục và hổ phách nơi góc nhà rung lên bần bật, phát ra tiếng rền rĩ nóng lòng, lấp đầy căn phòng bằng âm thanh và ánh sáng. Tôi hít một hơi thật sâu rồi thắt nút sợi thừng màu nâu, để một đầu treo lủng lẳng. Ngoài Matthew cùng quần áo trên người, những sợi dây thừng của thợ dệt là thứ duy nhất chúng tôi có thể mang theo về.
“Bằng một nút thắt, câu thần chú bắt đầu,” tôi thì thầm. Từng phần thời gian tăng lên mỗi khi tôi tạo ra một nút thắt cho tới lúc tiếng la hét và rền rĩ làm cả hai gần như bị điếc.
Khi hai đầu của nút thắt thứ chín tan vào nhau, chúng tôi bay lên và mọi thứ xung quanh dần dần tan rã.