Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư

Chương 2: Đạo Mộ Quỷ Môn Giang


Dịch: Đặng Nam

Hoả cư đạo rủ rê đại thiếu gia cùng hắn đi trộm mộ, có bộ huyền hồ y này rồi, vinh hoa phú quý dễ như trở bàn tay! Thường nói: “Nghèo sinh gian kế”, hơn nữa đại thiếu gia cũng chẳng phải là loại người tốt đẹp chó gì, nghe thấy bốn chữ “vinh hoa phú quý”, cái gì mà nhân với chả nghĩa, đạo với chả đức sớm đã quên sạch không nhớ một tí gì. Hai người phối hợp nhịp nhàng với nhau, lập tức vun đất thành lò, cắm cỏ làm hương, bái lạy một phen, kết thành huynh đệ. Đại thiếu gia dựa theo lời hoả cư đạo nói, mang con hồ ly đã chết ra mổ bụng lột da, rồi đem bộ da đã được thuộc chín may thành một kiện huyền hồ y.

Hoả cư đạo nói: “Chỉ có huyền hồ y thì chưa đủ, muốn thành đại sự, còn phải tìm thêm hai thứ đồ khác.”

Hắn là một tay đạo sĩ giang hồ, không chỉ biết vẽ âm dương bát quái, mà còn đầy một bụng bàng môn tà đạo phương thuật, hắn không hề nói rõ cần thêm gì, chỉ mang đại thiếu gia đi loạn khắp nơi, cặp mắt tặc nhân gian xảo hết nhìn phía đông rồi lại ngó sang phía tây. Hai người đi đến một vùng ruộng nương rộng lớn, nhìn thấy lão hương nơi đây đang gặt thành từng bó từng bó ma can nhi (Trans: Ma can nhi là cây vừng hoặc đậu, nhưng dịch ra cảm giác không hay lắm nên mình sẽ gọi là ma can nhi luôn), chất thành đống xếp ở ruộng bên cạnh. Trong đó có một gốc ma can nhi khác biệt, hình dáng kì quái, vừa to lại vừa dài, so với các gốc khác thì dài hơn đến 4, 5 lần. Hoả cư đạo đưa cho đại thiếu gia mấy đồng tiền, bảo hắn đi mua lấy gốc ma can nhi đó. Đại thiếu gia không biết rốt cuộc thứ thuốc bán bên trong hồ lô của hoả cư đạo là thứ gì, cũng không nghĩ nổi vì sao đi trộm mộ lại cần phải dùng đến ma can nhi, nhưng vì phát tài, hắn cũng chỉ đành an phận nghe theo lời của hoả cư đạo, đi qua nói với lão hương đang làm việc là muốn mua lấy gốc ma can nhi này, hỏi xem người ta muốn bao nhiêu tiền. Lão hương trong lòng bực bội khó chịu, ma can nhi trước giờ toàn là tính theo bó rồi bán, vốn cũng chẳng phải là thứ đồ chơi đáng tiền gì cả, một đồng bạc được hai bó lớn, đằng này lại chỉ mua có một gốc? Đừng nói chưa bán như vậy bao giờ, mà là cũng chưa có ai dở hơi đi mua như vậy, ngươi mua một bó thì còn nói là có thể cho vào làm củi đốt bếp, chứ một gốc thì làm được cái quái gì? Cho nên cũng không tìm đại thiếu gia đòi tiền, mặc kệ hắn tự đến mà rút ra gốc mình nhìn trúng. Hắn khiêng gốc ma can nhi vừa to vừa dài này trở về chỗ cũ, giao cho hoả cư đạo.

Hắn nhận lấy, gật gù cái đầu: “Chìa khoá đã có!”

Đại thiếu gia nghe thấy lời này cảm thấy rất lạ, chìa khoá là để mở khoá mở cửa, chưa từng thấy qua ai lại cầm ma can nhi làm chìa khoá cả. Lại nói hoả cư đạo sau khi đã có được gốc ma can nhi, lại tiếp tục mang theo đại thiếu gia đi về phía trước, đến một toà thị trấn, trong trấn thập phần ồn ào náo nhiệt, mua bán tấp nập đủ loại ngành nghề không thiếu thứ nào. Tuy rằng là huyện lị nhưng lại phát triển hơn cả châu phủ. Hai người đi vòng vòng cả nửa ngày, hoả cư đạo chỉ vào một hàng bán thịt trước mặt, ghé miệng nói nhỏ với đại thiếu gia mấy câu, phân phó hắn đi qua đó, mua lấy cái đòn treo thịt ở trên bàn. Đại thiếu gia ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì cả, nhưng lại là vì trộm mộ phát tài, hắn cũng chẳng thèm nghĩ nhiều nữa, đi tới bên cạnh hàng thịt, giơ mặt lên nhìn một cái. Trước cửa có đặt một cái bàn dài, chưởng quỷ là một tên đồ tể Sơn Đông tai to mặt lớn, cánh tay để trần, trên mặt trên người hắn đầy dầu lẫn với mồ hôi, bụng thì đeo một cái tạp dề dơ bẩn bầy nhầy, trước ngực là một mảng lông đen tạp nham. Chưởng quỹ có một tay nghề gia truyền, tự mình giết heo, tự mình bán thịt, thịt rất tươi, cũng không ăn bớt cắt xén một phân một lượng nào, cho nên mọi người xung quanh đều nguyện ý đến nhà hắn mua thịt. Lúc này, chưởng quỹ đang dùng dao lóc xương cạo thịt, dáng vẻ mệt mỏi, mồ hôi chảy đầy cổ, trên bàn thịt có một cái đòn treo thịt to cỡ cánh tay, một đầu treo một cái móc sắc lớn, treo lên đấy nửa tảng thịt to, xem ra đã được dùng một khoảng thời gian không ngắn, trên đấy loang lổ nhiều vết dầu mỡ đã khô cáu lại, “ong ong ong” xung quanh vang lên tiếng của một bầy ruồi xanh lúc nhúc, ai thấy cũng đều phát ngán. Đại thiếu gia chỉnh trang lại quần áo, bước lên phía trước, cùng chưởng quỹ hàng thịt nói chuyện.

Chưởng quỹ cho là người tới để mua hàng, vội vàng chào mời khách: “Đến sớm không bằng đến đúng lúc, buổi trước vừa hay mới mổ một đầu heo béo, chất lượng miễn bàn!”

Đại thiếu gia cũng vội nói: “Chưởng quỹ à, ta không có mua thịt heo, cái đòn treo thịt này của ngài bán thế nào?”

Ba đời tổ tiên nhà tên chưởng quỹ đã ở chỗ này bán thịt, chưa từng nghe qua người đến không mua thịt mà lại là mua cái đòn treo, tự nói trong lòng: đây chẳng phải là muốn tới phá đám sao?

Không khỏi bực mình mà lại không phát tiết được ra ngoài, xua tay ra xuỳ xuỳ đại thiếu gia: “Biến biến biến, chớ quấy nhiễu việc buôn bán của ta!”

Đại thiếu gia xin xỏ hết lần này đến lần khác, nhất định phải mua được cái đòn treo thịt đó. Chưởng quỹ dù thế nào đi nữa cũng không chịu bán, mấy đời nhà hắn đã dùng cái đòn này rồi, sớm đã coi nó là đồ gia bảo.

Đại thiếu gia nói sống nói chết, tất cả tiền bạc trên người đều móc ra hết. Chưởng quỹ cuối cùng chịu không nổi, sợ rằng hắn chết ở đây sẽ gây ra phiền toái, hơn nữa có thằng dở hơi ở bên cạnh phá đám, hàng thịt còn biết bán cho ai? Chuyện đã thế thì đành chịu, đành phải lấy cái đòn thịt bán cho đại thiếu gia. Hắn vác đòn thịt trên vai, hớn hở quay lại chỗ hoả cư đạo.

Hoả cư đạo đại hỉ: “Có ma can nhi cùng đòn thịt móc sắt, lại còn có cả kiện huyền hồ y này, sao phải lo đại sự không thành!”

Đại thiếu gia nghĩ: “Hoả cư đạo thật có mấy phần tà môn, hắn dùng ma can nhi với đòn thịt trộm mộ bằng cách nào?”

Qua ngày hôm sau, bọn chúng mỗi người đeo một cái túi lớn trên vai, trước ngực ôm thiên lí hoả, chia nhau vác ma can nhi cùng đòn thịt có treo móc sắt, đi tới gần Quỷ Môn giang. Hoả cư đạo chỉ ra vị trí phương vị của cửa mộ trong lòng sông, nhìn lên vẫn thấy mặt trời hãy còn treo cao, dặn dò đại thiếu gia trước tiên cứ bình tĩnh nghỉ ngơi, đợi đến khi trời tối rồi mới hạ thủ. Hai vị đại gia đây uống hẳn một cân rượu thiêu đao tử, mua thêm một con ngỗng luộc, trực tiếp xé thành hai mảnh chia đôi mỗi người một nửa, ăn uống no say, bất giác đã đến canh ba từ lúc nào, lúc này mới vội vàng nhanh chóng thu dọn chuẩn bị đồ đạc, hoả cư đạo choàng lên người huyền hồ y, đẩy một con thuyền nhỏ trôi dần ra Quỷ Môn giang.

Đại thiếu gia ở bên bờ sông dùng cột dài khều lên một cái đèn lồng, hét to như muốn xé cổ: “Đạo trưởng, cửa mở ở chỗ nào?”

Hoả cư đạo chỉ tay ra giữa dòng sông: “Đợi ta mở ra cửa mộ, ngươi hãy nhớ kĩ không được phát ra tiếng động nào, bằng không một đời phú quý của chúng ta cuối cùng sẽ thành công cốc hết!”

Đại thiếu gia thầm giật mình, có ý muốn hỏi kết quả. Nhưng hoả cư đạo vẫy tay ra dấu cho hắn, ra hiệu chớ có lên tiếng, rồi lập tức bắt quyết niệm chú, sau đó lấy ra một đạo hoàng phù đốt lên, tay cầm gốc ma can nhi vừa to vừa dài kia, mang đoạn đầu vươn vào giữa sông, khuấy động một vòng rồi lại một vòng.

Nói ra cũng quái lạ, nước sông bị ma can nhi thế nào khuấy lên, lại có thể từ giữa tách ra, cuốn thành một xoáy nước lớn, chính giữa là một cái đại động tối như hũ nút, sâu không thấy đáy. Hoả cư đạo không nói lời nào, lại lấy ma can nhi cắm vào giữa xoáy nước, chọc lên chọc xuống mấy cái, bỗng nghe thấy “ầm ầm” mấy tiếng, đáy sông dường như mở ra một cái thạch môn rất lớn, nhưng dùng đèn lồng chiếu qua chỉ thấy ở phía sâu đen kịt một đoàn, không nhìn ra hình dáng của thạch môn đấy. Đại thiếu gia hai chân phát run, trong lòng muốn chuồn đi, nhưng lại luyến tiếc chỗ châu báu trong mộ mà lão đạo đã hứa chia cho hắn. Chỉ thấy hoả cư đạo dùng ma can nhi chọc chọc ra được cửa mộ, lại cầm chắc cái đòn treo thịt mua được ở trấn nọ trong tay, mang móc sắc ở chỗ đầu thò vào cửa mộ, từng chút từng chút một đưa cái móc vào, hắn hết sức chăm chú như đang chuẩn bị lâm trận xông vào đại địch, trong miệng lẩm bẩm niệm niệm, nhưng mà chỉ mấp máy môi chứ không phát ra âm thanh nào cả, trên mặt một trận xanh lại một trận trắng, gò trán thì gân xanh gân tím đều nổi hết cả lên. Thời gian ước chừng hút hết một bao thuốc, hoả cư đạo hai tay dùng lực, từ từ kéo đòn treo thịt lại, tựa như đang mở nắp quan trong mộ, lại móc xuống mấy cái, từ trong móc ra một cái bánh tông. Đại thiếu gia nhìn thấy vị chủ mộ này, không tin được vào mắt mình, thân hình vạm vỡ cường tráng, mặc một kiện hắc bào, móng tay dài không dưới một xích (Trans: 1 xích = ⅓ m), trên mặt mọc đầy lông trắng.

Đại thiếu gia ban nãy muốn chạy thì không chạy luôn, giờ có muốn cũng không chạy nổi nữa, bị doạ cho đái ướt hết cả đũng quần, ngã phịch ra đất. Bất quá vì phát tài, hắn bất chấp bò từ dưới đất dậy, khều cao lồng đèn để chiếu sáng cho hoả cư đạo, mắt thấy tên kia như đang muốn kéo xác chết từ dưới đáy sông móc lên, nhưng ai biết được xui xẻo nó có biết chọn thời gian đâu, chính lúc trọng yếu thế này, đột nhiên có người vỗ lên vai hắn một cái, quát to: “Hay cho cái gan chó nhà ngươi!”

Cũng thật vừa khéo, kẻ đến chẳng phải ai xa lạ cả, mà chính là chưởng quỹ của hàng thịt trong trấn mà trước đó đại thiếu gia đã tìm đến hắn để mua cái đòn treo thịt, hắn đã cảm thấy có gì đó kì quái, mổ heo giết bò bán thịt mới cần dùng đến cái đòn treo thịt có móc sắt. Trong khi đó tên đại thiếu gia này lại tự nhận mình là một tay thợ săn, thế thì việc quái gì phải sống chết muốn mua một cái đòn treo? Hỏi tiểu tử này mua về để dùng làm gì, hắn nhất quyết không chịu nói, hành vi bất chính, càng nghĩ càng cảm thấy có gì đó không đúng. Chưởng quỹ bèn bí mật theo dõi hắn, nhìn xem đại thiếu gia muốn mưu tính làm cái gì. Chỉ thấy hắn tụ họp cùng với một tên hỏa cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái, một đường đi tới bên bờ Quỷ Môn giang, hai người bọn chúng lấy ra một con ngỗng béo rồi chén sạch sành sanh, sau đó lén lén lút lút trốn đi, mãi đến lúc nửa đêm canh ba, dùng móc sắt treo thịt ra giữa sông chọc chọc ngoáy ngoáy loạn cả lên. Chưởng quỹ hàng thịt vốn tính tình ngay thẳng, cho là hai người này đang câu rùa, thật không hiểu nổi bọn chúng nghĩ gì mà nửa đêm trời tối lại mò đi câu rùa, không sợ câu lên phải xác chết trôi sông hay quỷ nước sao? Thế nên bèn đi lên phía trước, vỗ vào vai đại thiếu gia một cái.

Hắn bình thường vỗ một cái thì không sao, đại thiếu gia cũng sẽ không bị như vậy, đằng này trong lòng vốn đang run rẩy sẵn, lại bất thình lình bị vỗ vào vai, thành ra sợ đến nhảy dựng cả lên, ném bỏ đèn lồng trong tay, hét lớn: “Mẹ ơi cứu mạng a!” Không chỉ đại thiếu gia bị doạ cho sợ gần chết, vị hoả cư đạo chuyên vẽ âm dương bát quái kia cũng bị hù té đái, mà cái bánh tông vừa móc từ trong cổ mộ ra dường như đã bị kinh động, xoay người một cái, cuối cùng nắm chặt lấy đòn treo thịt. Hoả cư đạo cố gắng dùng toàn lực cũng không kéo nổi cái đòn treo thịt lại, hắn thấy miếng thịt béo sắp gắp vào đến mồm rồi còn rơi, làm sao cam lòng cho được? Chỉ bất quá hơi chần chừ một chút, không chịu buông tay vứt bỏ, ngược lại còn bị một cỗ quái lực kéo ngược vào trong mộ, nước sông cũng hồi phục nguyên trạng.

Trương chưởng quỹ hàng thịt không nhìn rõ vật kia là gì, còn cho rằng hoả cư đạo là bị một con rùa lớn ở giữa sông kéo đi, ông trời ạ, con rùa đó phải lớn chừng nào mới có thể kéo được cả một cơ thể người lớn như thế chứ? Mà đại thiếu gia bên cạnh chịu một cú sốc không nhỏ, trực tiếp bị doạ cho ba hồn mù mịt bay đầy trời, bảy vía hỗn loạn lăn khắp nơi, trước mắt tối sầm lại, đột nhiên ngã vật ra đất, so ra cùng người chết không có gì khác biệt lắm. Chưởng quỹ không thể làm gì khác hơn nên đành phải cõng hắn mang về nhà mình, bón hết cho hắn một tô canh thịt nóng hôi hổi, lúc này mới kéo lại được cái mạng đại thiếu gia trở về.

Hoả cư đạo vì lòng tham trộm mộ thành ra chết một cách oan uổng. Đại thiếu gia vốn tưởng giàu sang phú quý đã ở ngay trước mắt rồi, không nghĩ tới giữa đường lại nhảy ra một tên Trình Giảo Kim (Trans: Trình Giảo Kim là một nhân vật trong lịch sử Trung Quốc. Ngày bé hay phá làng phá xóm, lại còn từng làm thảo khấu, sau này làm tướng thì chuyên gia lấy toàn lực đánh ba búa. Đánh xong mà địch không chết thì bỏ chạy, nghỉ ngơi một chút quay lại đánh ba búa tiếp. Bởi vậy, tên này là một chuyên gia phá bĩnh, chịu lợi chứ không chịu thiệt. Ai mà hay nửa đường nhảy ra phá bĩnh chuyện của người khác thường gọi là Trình Giảo Kim), hoả cư đạo bản lĩnh lớn như vậy mà cuối cùng vẫn phải làm mồi cho cá dưới sông, nhìn mình xem có mấy phân mấy lượng mà đòi với tới, nhưng lại chợt nghĩ “sống chết có số, phú quý do trời”, hoả cư đạo hắn không có số phát tài, còn đại thiếu gia ta chưa chắc đã như thế. Đạo mộ đoạt bảo đâu có thể đơn giản dễ dàng như vậy được, đại mộ chân chính không hề dễ tìm cũng chẳng hề dễ xơi, còn mấy cái mả dễ kiếm dễ đào thì đồ vật lẫn bánh tông bên trong chả có mấy phần giá trị cả, không bằng lại lên Lão Thử Lĩnh mà săn bắn kiếm miếng ăn còn hơn. Bởi vì chưởng quỹ đã cứu hắn một mạng, thành ra hai người thường xuyên qua lại với nhau, kết thành bằng hữu.

Nghe đâu sau này đại thiếu gia gặp lại được lão đầu ngày đó đã dạy hắn săn bắn. Lão đầu nói cho hắn biết, hoả cư đạo kia là một tên trộm mộ bàng môn tà đạo, bởi vì lần này hắn muốn móc một đấu mà vị chủ nhân lại có lai lịch rất lớn, nên không dám tuỳ tiện hạ thủ. Mà bộ da huyền hồ của đại thiếu gia lại là báu vật có một không hai trên đời, rất khó tìm được, không chỉ có thể trừ tà, nó còn có thể chống cả nước, muốn đổ cái đấu giữa sông này thì thế nào cũng phải có huyền hồ y mới được. Ma can nhi và đòn treo thịt mỗi cái cũng có công dụng riêng. Trước nói ma can nhi, đều biết vỏ của nó có thể mang ra xe thành dây thừng, nhưng mấy ai biết lõi ma can nhi chính là một vật dẫn hoả, sau khi tách bỏ vỏ ma can nhi ra, đem nó ngâm vào trong bùn nhão, vài ngày sau lại đào nó lên sẽ thấy trắng bóc như mới. Lão hương trước khi đi ra ngoài thường thường đem ma can nhi phơi khô ra nắng rồi xe thành “hoả cụ” (Trans: Dụng cụ tạo lửa), đến đêm đem ra đốt dùng để soi đường, ngọn lửa mà ma can nhi dẫn tới chính là cực dương hoả, âm phong mạnh mấy đều không thể thổi tắt, âm dương tương khắc, vì vậy có thể mở ra được cửa mộ. Tiếp theo nói đến đòn treo thịt, là vật gia truyền đã qua mấy đời tổ tiên nhà tay chưởng quỹ hàng thịt, trên đấy dính không biết bao nhiêu là máu tanh dầu mỡ, bất luận là yêu ma tà ác hay là Đại La Kim tiên, đều sợ vật ô uế bẩn thỉu, ngày này qua tháng khác mổ heo xả thịt đều treo lên cái đòn này, lại thêm mấy phần sát khí, nghe nói vật này có thể hàng thi. Lão đầu trước kia bảo đại thiếu gia nấp trên Lão Thử Lĩnh bắt huyền hồ là bởi vì thứ này đi theo ma đạo, ăn tươi nuốt sống rất nhiều người, cho nên mới muốn tìm người trừ khử nó. Mà tổ tiên đại thiếu gia lại là những người am hiểu nhất về ngón nghề săn bắt hồ ly, không cần biết là đại hồ ly, tiểu hồ ly hay hồ ly đực, hồ ly cái, cũng bất luận là từng con một sống riêng lẻ hay là thành đàn thành ổ chui rúc dưới đất, cuối cùng thì vẫn là chết trong tay tổ tiên hắn, số lượng đếm không nổi, đến loài súc vật như dê bò nhìn thấy đồ tể còn tự biết là mệnh mình chỉ còn một sớm một chiều, huống chi là hồ ly còn có linh tính hơn vậy? Cho nên hồ ly trên thế gian này nhìn thấy người nhà hắn chắc chắn trước tiên phải sợ ba phép, tuy rằng đại thiếu gia là một tên chẳng ra gì, duy chỉ có thuật bắn súng, nhưng lại là hậu nhân của những thợ săn hồ ly tài giỏi nhất, cho nên mới bảo hắn lên núi bắt huyền hồ.

Mà đại thiếu gia miệng ăn núi lở, nhất định sẽ đói nghèo mà chết, không có mệnh đại phú đại quý, trong nhà có bao nhiêu tiền cũng bị hắn tiêu cho sạch bách, cho dù tích được đại đức, cùng lắm cũng chỉ giúp hắn có cái ăn cái uống không bị đói chết. Nếu như hắn mang cái túi da hươu chôn xuống góc đông nam ngôi nhà, lên núi săn bắt tuyệt sẽ không tay không mà trở về. Nhưng hắn nhất thời nổi lòng tham, đi theo hoả cư đạo đạo mộ quỷ nước giữa dòng Quỷ Môn giang, khiến cho cả huyền hồ y lẫn hoả cư đạo phải vùi thây dưới đáy sông. Đại thiếu gia nghe xong dậm chân đấm ngực, hối hận không kịp, cũng nhận ra lão đầu này tuyệt không phải là người thường, liền nước mắt nước mũi van xin cầu khẩn. Lão đầu mặc dù biết đại thiếu gia hắn tự làm tự chịu, nhưng suy cho cùng thì hắn đã giúp mình làm một việc không nhỏ, cũng không nỡ lòng nhìn hắn chết đói chết khát, lại chỉ cho hắn một con đường sống, bảo hắn làm như này, dặn hắn làm như kia.

Đại thiếu gia vừa mừng vừa sợ, cho rằng mệnh mình đã đến lúc được thay đổi, hắn theo sự chỉ điểm của lão đầu nửa đêm trời tối như mực thì chạy lên trên núi, đào ra một phiến đá xanh, dùng hết sức bình sinh đem phiến đá chuyển sang bên cạnh. Phía dưới là một cái hang đất, ở giữa không có quan tài cũng không có quách đá, chỉ có duy nhất một bộ xương khô, cũng không rõ là đã chết được bao nhiêu năm rồi, trường bào mặc trên người cùng với lão đầu kia có chút giống nhau, nhưng mà đã bị mục nát kha khá, rất khó nói rõ. Giữa ngực bộ xương có ôm một cái túi vải dầu, từ trong ra ngoài được bọc lại bảy tám tầng. Đại thiếu gia nóng lòng phát tài, nhắm mắt liều mạng thò tay ra móc lấy cái túi vải dầu, rồi liền quỳ xuống chắp tay vái lạy một hồi, lại dập váng cả đầu thêm chừng mười cái nữa, mới mang phiến đá xanh kia đẩy lại vị trí cũ, sau đó ôm chặt túi vải dầu cuốn xéo khỏi Lão Thử Lĩnh.

Đại thiếu gia cho rằng bộ xương khô bên trong cái hang kia sinh thời là một tên chuột đất, theo như tiếng lóng trên giang hồ, chuột đất dùng để gọi những kẻ chuyên đào đất trộm mộ. Đồ vật trên người chuột đất, chắc chắn là vàng bạc châu báu tuỳ tàng bên trong mộ, không phải vàng thì cũng là ngọc, cầm ra mang đi bán, bét nhất cũng đủ cho hắn hút phúc thọ cao được vài năm, cuối cùng lúc mở cái túi ra nhìn thử, đại thiếu gia hai mắt sững sờ, ngây dại cả nửa ngày. Bên trong chỉ có độc nhất một quyển cổ thư cùng một cái ngọc quyết hình móc câu, ngày trước cũng có người gọi đây là ngọc câu, so với ngọc hoàn (Trans: Ngọc hình vòng) thì ít hơn một chút, ngọc chất gần như thuỷ tinh, trong suốt không tì vết. Như nào gọi là “quyết”? Cổ nhân nói “Mãn giả vi hoàn, khuyết giả vi quyết”, nói trắng ra quyết chính là vòng tròn thiếu mất một mảnh, những người theo phái mô kim đạo mộ đem nó đeo lên trên người, nhắc nhở bản thân mình một khi đã làm ngón nghề này thì không được phép tham lam vô độ, hết lòng vì việc nghĩa, tuyệt không hề tham.

Nội dung được ghi chép lại trong quyển cổ thư đơn giản chỉ là mấy loại khẩu quyết về âm dương phong thuỷ, gọi là “Lượng Kim Xích”. Táng thư có nói: “Đồng Sơn tây Băng, linh chung đông ứng”. Những lời này có nghĩa là núi Đồng ở phía Tây sụp đổ, thì tại xa xa chuông đồng ở phương Đông cũng sẽ cảm ứng theo, bởi vì tất cả đồng đều là từ trong núi mà ra, ám chỉ người chết sau khi nhập thổ vi an, mà táng ở nơi hình thế hung cát khác nhau, vẫn có thể chi phối phúc hoạ của con cháu đời sau. Trong âm dương phong thuỷ “Dĩ thuỷ vi quý, dĩ long vi tôn” (Trans: Chôn nơi có nước thì về sau phú quý, chôn nơi có rồng thì đời sau tung hoành thiên hạ), tìm hình núi, tầm long thế được gọi là “Lượng Kim”. Quyển cổ thư đại thiếu gia lấy được trên Lão Thử Lĩnh, chả phải thứ đồ ăn được hay mặc được, mà là bí thuật tầm long định huyệt đạo mộ đoạt bảo, còn cổ ngọc hình móc câu là trấn vật dùng để khai quan trộm mộ. Dân gian tương truyền rằng, có ngọc câu hộ thân thì có thể “xuất nhập âm dương”, vào trong mộ đoạt bảo vật xong có thể bảo toàn tính tính mạng mà quay ra.

Lão đầu lúc trước có nhắc nhở đại thiếu gia: “Ngươi đời này không có số giàu sang phú quý, tuỳ ý làm bậy thì chỉ có nước tự rước lấy tai hoạ sát thân thôi, cầm vật này trong tay rồi thì cũng đừng có dùng linh tinh.” Đại thiếu gia là kẻ hám tiền, gặp năm đầu không thuận lợi lắm, hắn thử làm chuột đất, bất quá không dám đi đến những mộ lớn, cũng chẳng móc ra được đồ gì đáng tiền cả, từ đầu đến cuối vẫn nghèo rớt đít như thế. Tuy rằng hắn một là không được tổ gia truyền thụ, hai là không có bái qua sư phụ nào cả, nhưng trên tay lại có “Lượng Kim Xích” độc nhất vô nhị, thế mà làm chuột đất còn không xong, thật là chán chẳng buồn nói nữa. Thực ra không phải là hắn không muốn phát tài, mà là hắn không có mệnh giàu sang, không phải thiên thời không tới, thì là do địa lợi bất hoà. Có một lần tình hình kinh tế nghe vẻ không khả quan lắm, cháo còn chả có mà húp, thế là mưu tính đi đào một ngôi mộ nào đó, kết quả đi đến nửa đường gặp phải đám thổ phỉ nổi loạn do tên Lưu mặt rỗ cầm đầu. Tên Lưu mặt rỗ này tổ tiên mấy đời làm phỉ, tàn bạo xảo quyệt, sở thích giết chóc ăn sâu vào máu, hơn nữa thế lực của hắn rất lớn, dưới trướng là một đám thủ hạ hung ác như lang sói, thật có thể nói là giết người như ngoé, ở vùng đó nhắc đến hung danh của hắn, trẻ em ba tuổi cũng phải nín thinh không dám khóc. Ngày trước có một tên tướng quân bị người dân phán tội chết một cách oan uổng, hắn là người có đầu óc, trốn khỏi lao ngục trong thành, chạy thoát được ra ngoài, vì không còn đường nào để đi nữa nên hắn đành phải lên rừng làm thảo khấu, quy thuận Lưu mặt rỗ. Lưu mặt rỗ xem trọng hắn có tài dùng binh, phong làm quân sư quạt mo. Hắn quả nhiên không làm phụ lòng của Lưu mặt rỗ, đem đám quân lớn nhỏ ô hợp trên núi tổ chức thao binh luyện võ cả ngày, hoàn toàn dựa theo các nguyên tắc điều lệnh của quân đội, đám thổ phỉ lúc này phóng hoả giết người hay cướp của  càng là dễ như trở bàn tay, thế lực của Lưu mặt rỗ dần dần được mở rộng phô trương hơn, trở thành địa phương mà nạn thổ phỉ khó kiểm soát được nhất. Quan trên đã nhiều lần ra mặt xuất quân dẹp loạn nhưng đều đại bại mà quay về.

Vùng đó có một tay quân phiệt, cũng xuất thân từ thổ phỉ mà ra, tự mình bàn tính muốn đem đám người Lưu mặt rỗ chiêu an, một là dẹp nạn thổ phỉ, hai là để mở rộng thế lực của bản thân. Không nghĩ tới thủ hạ của Lưu mặt rỗ cũng là một tên quân sư quạt mo lắm mưu nhiều kế, nhờ người nói với tay quân phiệt kia là bọn chúng nguyện ý quy thuận, đợi Lưu mặt rỗ mang theo đám nhân mã được trang bị đầy đủ tận răng từ trên núi xuống, chạy thẳng tới căn cứ của tay quân phiệt kia ở huyện thành. Bởi vì lấy danh nghĩa là dẫn quân đi quy thuận, nên thẳng một đường cũng không có ai cản trở, nhưng vừa vào đến huyện thành thì liền trở mặt, khiến cho quân đội phòng thủ trở tay không kịp, chiếm lấy huyện thành rồi giết người cướp của. Tay quân phiệt bên kia lúc này mới vội vàng điều binh nhằm chiếm lấy huyện thành, song phương giao chiến qua lại nhiều lần, liên tiếp hơn mười mấy ngày trời, đánh thẳng đến khi trời đất tối sầm, xác chất thành núi, máu chảy thành sông, từ trong thành cho đến ngoài thành, người trong phạm vị chục dặm xung quanh đều chết sạch không còn một ai (Trans: 1 dặm = 500m).

Đại thiếu gia trước đi trộm mộ, ngang qua vùng này thì bị đám loạn phỉ bao vây, bọn chúng không quan tâm ngươi có phải người của quân đội hay không, chỉ miễn không phải là người của chúng thì liền giơ đao chém chết, mắt thấy không thể thoát được cái nạn nhất định sẽ bị chém một đao này, thì bỗng cái khó ló cái khôn, vội nằm xuống lẫn vào đống người chết, lấy máu bôi lên mặt, lại ôm thêm mấy cái xác chết nữa che lên còn mình trốn ở phía dưới, cộng thêm mạng lớn sống dai, lúc này mới tránh được loạn phỉ giết chết. Thẳng cho đến lúc nửa đêm, xung quanh im ắng, đại thiếu gia mới dám thò đầu ra nghe ngóng, thấy trăng trên trời vừa sáng vừa tròn, ánh trăng trong veo, bốn phía không có lấy một bóng người. Hắn đang định từ trong đống xác chết bò ra, chợt thấy có ánh nến lập loè từ xa đang đến gần.

Đại thiếu gia lấy làm kinh hãi, tưởng là đám loạn phỉ bố trí mai phục ở lại, vạn bất đắc dĩ đành phải giả chết  thêm một lần nữa. Không bao lâu sau, chỉ thấy có một thằng bé tay nâng đèn cầy đi trước để mở đường, theo sau là một người đàn ông mặc bộ hoàng bào, nét mặt già nua, thần sắc hiện lên trên mặt quái đản, âm trầm không nói lấy nửa lời. Đại thiếu gia nhìn ra đối phương tới đây với ý đồ bất thiện, loạn phỉ vừa mới rút đi, quá nửa đêm rồi còn đi đi lại lại nơi đất hoang còn nơi nào nhiều người chết hơn địa phương này mà sao không đi, vậy chẳng phải là kẻ xấu sao? Năm tháng ấy chiến tranh loạn lạc liên miên, mọi nơi đều chìm trong khói lửa đao thương, chiến loạn sau này, thường ngày xuất hiện mấy tên lưu manh vô lại lớn gan lớn mật, thừa dịp trời tối đi lột lấy những thứ đồ đáng tiền trên người người chết, bọn chúng lòng dạ độc ác vô cùng, thấy ai còn hấp hối chưa chết thì thường sẽ ra tay giết người diệt khẩu luôn. Đại thiếu gia thấy tình hình không ổn, nhất thời không dám vọng động, nằm im thin thít dưới đống xác chết, len lét theo dõi hành động của hai kẻ vừa tới kia. Chỉ thấy người mặc hoàng bào đang lảo đảo đi tới, khi hắn tới gần thì càng nhìn càng cảm thấy quỷ dị, chỉ thấy người này sắc mặt vàng khè, hốc mắt hõm xuống, huyệt thái dương cũng vậy, miệng kéo căng ra mỏng như tờ giấy, có thở ra nhưng không thấy hít vào. Mặc dù người này mặc áo choàng nên nhìn không ra béo gầy như nào, nhưng nhìn trên tay hắn, da bọc lấy xương, gân xanh nổi lên, móng tay mọc dài tới hai thốn (Trans: 1 thốn = 3,33 cm), lại còn đều là màu đen, nhìn thế nào cũng đều không thấy giống với người sống! Lại nhìn thằng bé kia, khoảng tầm bảy, tám tuổi, mặc một bộ quần áo sặc sỡ loè loẹt, tay nâng một cây đèn cầy, khuôn mặt nhỏ nhắn trông ảm đạm nhợt nhạt, lại còn tô  một lớp phấn hồng nữa, ngược lại nhìn như một bộ người giấy bán trong cửa hàng vậy.

Đêm hôm khuya khoắt giữa trốn hoang vu đồng không mông quanh, lại nằm dưới đống người chết, nhìn thấy hai người kia, đừng nói là đại thiếu gia mà đổi lại là ai thì cũng đái ra quần thôi! Chỉ thấy người mặc hoàng bào dùng tay chỉ một cái, lệnh cho thằng bé cầm đèn soi vào xác chết, hễ là xác là phụ nữ, lão hương, tiểu hài tử, hay là cụt tay, thiếu chân, thân đầu chia đôi, thì đều bỏ qua không để ý đến, trực tiếp dùng tay cầm lấy vứt sang một bên, cho dù là ném lá cây cũng không tuỳ tiện như thế. Đại thiếu gia bị doạ cho hồn phi phách tán, một hơi cũng không dám thở, đáy quần lại ươn ướt, lo sợ lão già mặc hoàng bào kia sẽ đưa tay đến trên đầu mình, thế nên nằm im re.

Qua một lúc, đại thiếu gia thấy hắn xách lên một cái tử thi nam tử trung niên. Tử thi có vóc dáng khôi ngô, cao to vạm vỡ, hắn mượn nhờ ánh sáng đèn cầy quan sát cẩn thận cái xác đó một hồi lâu, thấy là một cái xác hoàn chỉnh nguyên vẹn, lúc này mới gật đầu một cái, mang người chết xách đến trước mặt, mặt đối mặt, mở miệng hướng lên trên mặt người chết thổi một hơi, nhả ra khí tức giống như một làn khí màu vàng, đều bị người chết “hút” hết lấy. Lại nhìn lão già hoàng bào kia chỉ thấy hơi thở yếu dần, còn cái xác nam tử to lớn thì từ từ động đậy. Cứ như vậy một lúc lâu sau, người chết hai mắt độc nhiên mở to, lão già hoàng bào cũng tự mình toi mạng. Người chết vừa sống lại đẩy cái xác lão già kia ngã ra đất, dùng tay gạt gạt đám bùn đất bám ở trên người, vẫn là không nói một tiếng nào, lệnh cho thằng bé cầm đèn đi phía trước dẫn đường, nghênh ngang mà rời đi. Đại thiếu gia kinh hãi muốn chết, thường nghe người ta nói, tiên gia phân thành “Thiên, Địa, Nhân, Thần, Quỷ”, thiên tiên cùng thần tiên là chí cao vô thượng, thuộc về thiên đạo, nhân tiên và địa tiên thứ nhì, thuộc về nhân đạo, còn quỷ tiên thì là ác quỷ ở địa phủ tu thành. Tuy nói đều là tu luyện đắc đạo, nhưng duy chỉ có quỷ tiên tu pháp là tà môn nhất, phải tìm người sống để mượn hình, đấy lại là hại người, không phải đạo, vì vậy phải tìm lấy một cái xác vừa mới chết không lâu, đem Nguyên Thần chuyển sang đấy, đến khi thân xác ấy hủ mục thì lại phải đi tìm một cái khác, tục gọi là tá thi hoàn hồn, lẽ nào vừa rồi chính là một quỷ tiên sao?

Đại thiếu gia sợ vỡ mật, lạnh toát người, nguyên một đêm không dám cử động, cho đến khi có tiếng gà gáy, phương Đông trời đang sáng dần, hắn mới từ đống xác chết bò ra. Trải qua một phen kinh hiểm, đại thiếu gia như già đi chục tuổi, thân thể yếu đuối hơn trước, có muốn đi làm chuột đất chui hầm mộ nữa cũng không được. Phải nói rằng một đời này của hắn, có thể tóm gọn lại trong hai câu — Phát tài như giấc mộng, xui xẻo ám không thôi!

Vị đại thiếu gia mà chúng ta nói đến này, chính là tổ phụ của tôi. Tôi ra đời sau năm toàn quốc giải phóng 1951, sau đó “Cách mạng văn hoá” bắt đầu được triển khai, tổ phụ tôi bị người ta đem ra phê đấu, nguyên nhân vì trước kia có tham gia buôn bán nên bị liệt vào “bốn sai phạm”. Tổ phụ sau khi bị đấu tố xong vẫn không hiểu tại sao, lén lén hỏi tôi: “Thế nào mà Đại cữu, Nhị cữu lẫn Tam cữu đều không bị sao, không phải là làm khó Tứ cữu chứ? Không biết Tứ cữu hắn trêu chọc phải ai?”

Người mặc dù không hiểu rõ về những chuyển biến thay đổi của xã hội bên ngoài, nhưng cũng sợ rằng quyển “Lượng Kim Xích” cùng với miếng ngọc câu vẫn mang bên người bấy lâu sẽ tạo thành một mối tai hoạ, lại cảm thấy để nó bị thất truyền thì thật đáng tiếc. Thế là bèn truyền thụ lại hết cho tôi, để cho tôi từng chữ từng chữ ghi nhớ, lúc này mới đem quyển sách đó cho một mồi lửa đốt quách đi, còn miếng ngọc câu thì đưa tôi cất ở trong người. Đến cả chuyện người làm sao ở trên Lão Thử Lĩnh bắt thiên đăng, thế nào lại đi cùng tên hoả cư đạo ra sông trộm mộ, tại sao gặp được một lão đầu chỉ điểm, lấy được “Lượng Kim Xích” cùng ngọc câu moi ra trên người tên trộm mộ, tất cả đều là tự người kể lại, tôi chẳng qua chỉ nghe rồi xem như là cố sự mà thôi. Thật không ngờ sau này nhìn lại, đồ vật mà tổ phụ gặp được mấy chục năm trước, lại khiến cho tôi đâm đầu vào! Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo: Chạy trốn trong gió” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & http://truyenthoi.net


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận