Ta biết việc này sẽ xảy ra. Ta có thể tưởng tượng khá sống động các chuỗi sự kiện dẫn đến phát hiện đó. Vào 9 giờ, mấy bà cô ở Hãng lữ hành Kendall và Lord đó sẽ ngồi ở bàn làm việc, những móng tay được cắt tỉa đẹp đẽ của họ đang gõ trên bàn phím máy tính. Họ đang đăng ký chuyến viễn du đến biển Địa Trung Hải cho bà Smith, một kỳ nghỉ ở khu trượt tuyết tại Kloters cho ông Jones. Còn ông bà Brown thì có chút thay đổi trong năm nay. Họ sẽ đến nơi nào đó tuyệt đẹp như Chiang Mai hay bán đảo Madagascar nhưng họ sẽ chẳng gặp chút mạo hiểm nào. Ồ không, một chuyến đi trên hết phải thật thoải mái và dễ chịu. Đó là khẩu hiệu của Hãng lữ hành Kendall và Lord: “Những chuyến đi thoải mái”. Đây là một hãng lữ hành đông khách và điện thoại reo liên tục.
Rồi chẳng bao lâu sau, các bà chị mới nhận thấy Diana không có ở bàn làm việc.
Một trong số họ sẽ gọi đến khu dân cư Back Bay của Diana, điện thoại reo nhưng không ai nhấc máy. Có lẽ Diana đang ở trong buồng tắm nên không nhận điện. Hay cô ta đã đi làm nhưng chạy cuống cuồng vì đã muộn giờ làm. Người gọi điện sẽ nghĩ rằng hàng chục khả năng tốt lành đến mức hoàn hảo. Nhưng cả ngày trôi qua, và những cuộc gọi liên tục không có ai nhận máy thì người đó sẽ nghĩ đến những khả năng khác đáng lo hơn.
Ta nghĩ người quản lý tòa nhà sẽ cho phép đồng nghiệp của Diana vào căn hộ của cô ta. Ta thấy ông ta lo lắng xục xạo chùm chìa khóa và nói.
Cô là bạn của cô ấy à? Cô chắc là cô ấy sẽ không phiền chứ? Vì tôi phải nói với cô ấy là tôi đã cho phép cô vào.
Họ bước vào căn hộ, cô bạn đồng nghiệp gọi to.
Diana, cô có nhà không? Họ bắt đầu đi dọc hành lang, qua những tấm áp phích quảng cáo du lịch được đóng khung cẩn thận. Người quản lý đứng ngay sau cô ta để canh chừng xem cô ta có cuỗm vật gì không.
Rồi ông nhìn lối vào và nhìn giường ngủ. Ông ta thấy Diana Sterling và không còn lo ngại về những việc vụn vặt như việc ăn cắp nữa. Ông ta chỉ muốn ra khỏi căn hộ trước khi bị đuổi.
Ta muốn có mặt ở đó khi cảnh sát đến nhưng mình đâu có ngu. Ta biết họ sẽ để ý từng ô tô đi qua, từng khuôn mặt trong đám người đứng xem túm tụm bên đường. Họ biết ta rất muốn trở lại đó. Ngay cả bây giờ, khi đang ngồi ở Starbucks, ngắm nhìn một ngày sáng sủa qua cửa sổ, ta vẫn cảm thấy căn phòng đó đang gọi ta quay lại. Nhưng ta rất giống anh chàng Ulysses, an toàn buộc mình vào cột buồm, khao khát điệu hát của nàng tiên cá. Ta sẽ không tự đập đầu vào đá. Ta sẽ không phạm sai lầm.
Thay vào đó, ta sẽ ngồi uống cà phê, trong khi bên ngoài, cả thành phố Boston đã thức tỉnh. Ta khuấy tan ba thìa đường vào cốc cà phê, ta thích cà phê có vị ngọt. Ta muốn mọi thứ phải như vậy, thật hoàn hảo.
Một nàng tiên cá ở đằng xa đang mời gọi ta. Ta thấy như thể Ulysses đang cố dứt dây thừng nhưng chúng giữ rất chắc.
Hôm nay họ sẽ tìm thấy cô ta.
Hôm nay họ sẽ biết chúng ta đã trở lại.
***
Một năm sau
Thám tử Thomas Moore không thích mùi cao su. Anh vỗ đôi găng tay, một mùi bột tan bay lên. Cơn buồn nôn mà anh đoán trước cuộn lên trong bụng. Thứ mùi đó gợi lên những việc không mấy dễ chịu trong nghề của anh. Như con chó trong thí nghiệm của Pavlov được rèn luyện để tiết nước bọt trong điều kiện nào đó, mỗi khi ngửi thấy mùi cao su thì anh lại liên tưởng đến những hình ảnh không thể tránh được của máu và những chất dịch trong cơ thể. Cảnh báo về khứu giác đó cứ quấn lấy anh.
Và bây giờ nó đang xảy ra khi anh đứng ngoài phòng mổ tử thi. Anh vừa từ chỗ nóng bước vào thế nhưng mồ hôi hình như đã làm da anh lạnh toát. Hôm đó là ngày mười hai tháng bảy, một chiều thứ sáu ẩm ướt đầy sương. Khắp thành phố Boston, những chiếc máy điều hòa nhiệt độ kêu xoạch xoạch và nhỏ nước. Nhiệt độ quá cao. Trên cầu Tobin, những chiếc ô tô đã bị lùi lại, chạy về phía bắc, nơi có những khu rừng mát mẻ ở bang Maine. Nhưng thám tử Moore không thuộc số đó. Anh đã bị gọi về khi đang đi nghỉ và phải chứng kiến nỗi sợ hãi mà anh không muốn đối diện.
Anh mặc bộ đồ dành cho bác sỹ phẫu thuật. Anh đã lấy nó từ ngăn đựng vải lanh ở nhà xác. Giờ anh đội mũ giấy, túm gọn những sợi tóc xõa ra và dùng ủng giấy bọc bên ngoài đôi giày của mình. Anh làm vậy vì thi thoảng anh đã chứng kiến thứ gì đó chảy từ bàn mổ xuống sàn nhà. Đó là máu và những tế bào. Anh không phải là người quá sạch sẽ nhưng anh không muốn đôi giày của mình dính bất cứ dấu vết nào trong phòng mổ tử thi và mang nó về nhà. Anh dừng lại mấy giây ngoài cánh cửa và hít sâu. Rồi anh buộc mình phải đối diện với thử thách đó, đẩy cửa bước vào.
Cái xác được quấn nằm trên bàn – căn cứ vào hình dáng thì đó là một phụ nữ. Moore tránh không nhìn nạn nhân quá lâu, thay vào đó, anh tập trung vào những người còn sống trong căn phòng. Đó là bác sĩ Ashford Tierney, bác sỹ giám sát y khoa và một nhân viên nhà xác đang xếp các dụng cụ lên khay. Đứng đối diện với Moore ở bên kia bàn là Jane Rizzoli, cũng thuộc bộ phận Điều tra các vụ giết người ở Boston. Rizzoli, năm nay ba mươi ba tuổi, là một phụ nữ nhỏ bé có chiếc cằm vuông. Những lọn tóc bướng bỉnh của cô giấu trong mũ giấy phòng mổ. Thiếu mất mái tóc đen giúp các đường nét mềm mại nên khuôn mặt cô dường như chỉ toàn góc cạnh, đôi mắt sẫm màu lồi ra, nghiêm nghị. Cô đã chuyển từ Bộ phận phòng chống tệ nạn và ma túy sang Bộ phận điều tra các vụ giết người cách đây sáu tháng. Cô là phụ nữ duy nhất thuộc Bộ phận điều tra các vụ giết người. Cô và các thám tử khác đã có mâu thuẫn, bất đồng về việc quấy rối tình dục, bất đồng về những ác ý không dứt. Moore không biết mình có ưa Rizzoli không và cô cũng vậy. Đến giờ họ vẫn giữ mối quan hệ đồng nghiệp nghiêm túc. Anh cho là cô cũng thích như thế hơn.
Đứng sau Rizzoli là cộng sự của cô, Barry Frost, một viên cảnh sát vui vẻ, vô tư. Khuôn mặt ôn tồn, nhẵn nhụi khiến anh trông rất trẻ dù đã ở tuổi ba mươi. Frost đã làm việc cùng Rizzoli được hơn hai tháng và anh không phàn nàn gì. Anh là người duy nhất thuộc bộ phận này đủ điềm tĩnh để chịu đựng tính khí bất thường của cô.
Khi Moore lại gần bàn, Rizzoli nói:
– Chúng tôi không biết khi nào anh mới đến.
– Tôi đang ở tiểu bang Maine Turnpike thì nhận được tin nhắn của cô.
– Chúng tôi đã chờ ở đây từ lúc năm giờ.
– Còn tôi thì mới bắt đầu khám nghiệm bộ phận bên trong – bác sỹ Tierney nói – Vì vậy tôi đã nói là thám tử Moore sẽ đến đây đúng giờ – anh bào chữa cho Moore. Anh đóng mạnh cửa tủ, khiến tiếng động dội lại khắp phòng. Đây là lần hiếm hoi anh tỏ ra tức giận. Bác sỹ Tierney là người thuộc thời vua George chính cống, một người xuất thân ở nông thôn và tin rằng phụ nữ phải cư xử cho ra phụ nữ. Anh không thích làm việc cùng cô Jane Rizzoli dễ nổi cáu.
Nhân viên nhà xác đẩy khay dụng cụ lại gần bàn mổ. Ánh mắt anh nhìn Moore như thể muốn nói, Anh tin bà cô này không?
– Xin lỗi về chuyến câu cá của anh – Tierney nói với Moore – Có vẻ như kỳ nghỉ của anh đã bị phá hỏng.
– Anh có chắc lại là do tên đó không?
Vừa trả lời, Tierney vừa túm vải trùm, kéo ngược lên, để lộ ra xác chết.
– Tên cô ấy là Elena Ortiz.
Mặc dù Moore đã chuẩn bị tinh thần nhưng khi thoáng thấy nạn nhân lần đầu tiên, toàn thân anh bị tác động mạnh.
Mái tóc đen của người phụ nữ khô lại và bê bết máu. Nó thò ra như lông nhím, khuôn mặt cô màu xanh như bi ve. Môi cô hé mở, như thể cô bị đông cứng khi đang nói dở. Người ta đã lau máu cho cái xác. Trên lớp da đã sẫm lại, những vết thương của cô ngoác ra từ những cái lỗ có màu hơi tím. Có hai vết thương có thể nhìn thấy rõ. Một vết cắt sâu rạch ngang cổ họng, kéo dài từ dưới tai trái, cắt đứt động mạch cảnh, khiến sụn thanh quản lộ ra. Vết cắt rất gọn. Vết cắt thứ hai ở phần bụng dưới. Vết thương này không gây tử vong, nó có mục đích hoàn toàn khác.
Moore nuốt khan.
– Tôi đã hiểu tại sao các bạn gọi tôi trở về khi tôi đi nghỉ.
– Tôi là người chỉ huy vụ này – Rizzoli nói.
Anh nhận thấy câu đó của cô như muốn cảnh cáo, cô đang bảo vệ lãnh thổ của mình. Anh hiểu tại sao cô làm vậy. Anh hiểu những cảnh sát nữ phải liên tục chịu những lời chế nhạo và thái độ hoài nghi. Và điều đó khiến họ luôn tấn công nhanh. Thực sự anh không muốn thách thức cô. Trong vụ này họ sẽ phải làm việc cùng nhau, và lúc này còn quá sớm để chơi trò tranh giành quyền chỉ huy.
Anh thận trọng trả lời cô một cách tôn trọng.
– Cô cho tôi biết tình tiết vụ án chứ?
Rizzoli gật đầu rất nhanh.
– Nạn nhân được tìm thấy vào lúc chín giờ sáng nay, tại căn hộ trên phố Worvester, cuối phía Nam thành phố. Cô ấy thường đến nơi làm việc lúc sáu giờ sáng ở khu Cửa hàng hoa Celebration, cách nơi ở của cô ấy mấy tòa nhà. Đây là công việc kinh doanh của cả gia đình, bố mẹ cô ấy là người quản lý. Khi cô ấy không xuất hiện, họ đã lo lắng. Anh trai cô ấy đã đến kiểm tra. Anh ấy thấy cô ấy trong phòng ngủ. Bác sỹ Tierney dự đoán thời gian tử vong vào khoảng mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng nay. Gia đình cô ấy cho biết hiện cô ấy không có bạn trai. Không ai trong khu chung cư thấy bất kỳ vị khách nam nào. Cô ấy là một cô gái theo đạo Thiên chúa, làm việc chăm chỉ.
Moore nhìn cổ tay nạn nhân.
– Cô ấy bị trói.
– Đúng vậy! Có băng dính ống nhựa ở cổ tay và mắt cá chân. Người ta tìm thấy cô ấy trong tình trạng khỏa thân, trên người chỉ có vài đồ nữ trang.
– Nữ trang gì?
– Một chiếc vòng cổ, một chiếc nhẫn, hai bông tai. Hộp nữ trang ngay cạnh giường vẫn còn nguyên. Động cơ không phải là cướp tài sản.
Moore nhìn vệt thâm tím ngang hông nạn nhân.
– Phần thân cũng bị trói.
– Có băng dính ống nhựa ngang eo, đùi trên và ngang miệng cô ấy.
Moore thở dài.
Lạy chúa! Khi nhìn kỹ Elena Ortiz, Moore thấy một vết cắt khó hiểu khác trên cơ thể một phụ nữ. Đó là cái xác khác – một cô gái tóc vàng và các vết cắt cũng rạch ngang cổ họng và bụng.
– Diana Sterling – Anh lẩm bẩm.
– Tôi vừa lấy các báo cáo xét nghiệm tử thi của Diana Sterling ra xem – Tierney nói – Nếu anh cần xem lại.
Nhưng Moore không xem. Vụ án của Sterling mà anh là thám tử điều tra chính sẽ không bao giờ mờ đi trong tâm trí anh.
Cách đây một năm, Diana Sterling, ba mươi tuổi, là nhân viên hãng lữ hành Kendall và Lord đã được phát hiện trong tình trạng khỏa thân, bị trói trên giường bằng băng dính ống nhựa. Cổ họng và bụng dưới bị cứa đứt. Vụ giết người đó vẫn chưa phá được.
Bác sỹ Tierney chiếu đèn kiểm tra vào bụng của Elena Ortiz. Trước đó máu đã được lau bớt, và mép vết rạch có màu hồng nhạt.
– Tìm được dấu vết nào không? – Moore hỏi.
– Chúng tôi đã tìm thấy vài sợi vải khi lau chùi cho cô ấy, và một sợi tóc cạnh mép vết thương.
Moore nhìn lên chăm chú.
– Của nạn nhân à?
– Nó ngắn hơn nhiều và có màu nâu sáng.
– Tóc Elena Ortiz màu đen.
Rizzoli nói.
– Chúng tôi đã yêu cầu lấy mẫu tóc của tất cả những người có tiếp xúc với cái xác.
Tierney chuyển chú ý của họ sang vết thương.
– Thứ chúng ta thấy ở đây là một vết cắt ngang. Các bác sỹ phẫu thuật gọi nó là vết cắt Maylard. Thành bụng bị cắt từng lớp một. Đầu tiên là da, sau đó đến lớp trên bề mặt, rồi đến cơ, cuối cùng là màng bụng ở khung xương chậu.
– Giống như Sterling – Moore nói.
– Đúng vậy, giống với Sterling. Nhưng có vài điểm khác biệt.
– Khác biệt gì?
– Vết thương của Sterling có vài vết nham nhở, chứng tỏ hắn lưỡng lự và không chắc chắn. Hãy để ý xem da bị rạch gọn mức nào với vết cắt này. Không hề nham nhở. Hắn làm việc này hết sức tự tin – Tierney nhìn Moore – Con mồi của chúng ta đang rèn luyện. Kỹ thuật của hắn đã tiến bộ.
– Nếu việc này là do cùng một kẻ bí ẩn – Rizzoli nói.
– Có những nét tương đồng khác. Hãy nhìn mép hình vuông của vết thương! Nó cho thấy vết rạch đi từ phải sang trái, như vết rạch của Sterling. Lưỡi dao được dùng để rạch vết thương này chỉ có một lưỡi, không có răng cưa, giống lưỡi dao được dùng khi rạch lên người Sterling.
– Một con dao mổ ư?
– Nó rất giống một con dao mổ. Vết cắt gọn cho tôi biết lưỡi dao không xoắn. Nạn nhân có thể đã bất tỉnh hay bị trói chặt nên không cử động, không chống cự được. Cô ấy không thể làm cho lưỡi dao chệch khỏi đường đi của nó.
Barry Frost nhìn anh như muốn buồn nôn.
– Ồ. Hãy nói với tôi là cô ấy đã chết khi hắn làm việc này!
– Tôi e rằng đó không phải là vết thương sau khi chết – Chỉ cặp mắt của Tierney lộ ra dưới khẩu trang và chúng ánh lên vẻ giận dữ.
– Có hiện tượng chảy máu trước khi chết à? Moore hỏi.
– Máu ộc ra từ khoang xương chậu. Điều đó nghĩa là tim cô ấy vẫn bơm máu. Cô ấy vẫn sống khi… quá trình này được thực hiện.
Moore nhìn hai cổ tay có hai vòng bầm tím do dây trói. Có những vết bầm tím tương tự ở mắt cá chân, một vùng da bị xuất huyết – đó là chứng xuất huyết đốm trên da – chạy ngang hông cô. Elena Ortiz đã giãy giụa khi trói.
– Có dấu hiệu khác chứng tỏ cô ấy còn sống trong suốt quá trình hắn rạch cô ấy – Tierney nói – Hãy cho tay vào trong vết thương, Thomas. Tôi nghĩ anh biết anh sẽ thấy điều gì.
Moore lưỡng lự cho bàn tay đeo găng vào vết thương. Thịt lạnh ngắt do được bảo quản trong kho đông lạnh mấy tiếng. Nó gợi cho anh nhớ cảm giác khi anh thọc tay vào xác một con gà tây và xoay quanh để tìm bộ lòng. Anh thọc sâu đến tận khuỷu tay, ngón tay anh thăm dò mép vết thương. Đây là sự đụng chạm rất gần gũi khi anh thọc sâu vào phần bên trong sâu kín nhất của phụ nữ. Anh tránh không nhìn khuôn mặt của Elena Ortiz. Đây là cách duy nhất để anh xem xét những gì còn lại của cô một cách rành mạch, và cũng là cách duy nhất để anh có thể tập trung vào các kỹ thuật đã được áp dụng trên cơ thể cô.
– Tử cung đã mất – Moore nhìn Tierney.
Bác sỹ chuyên khoa gật đầu.
– Nó đã bị cắt rời.
Moore rút tay khỏi cái xác, cúi nhìn vết thương ngoác ra như cái miệng. Giờ Rizzoli đã đeo găng tay vào, những ngón tay ngắn của cô run rẩy thăm dò khoang xương hông.
– Còn vật gì khác bị cắt bỏ không? – Cô hỏi.
– Chỉ tử cung thôi – Tierney khẳng định – Hắn để phần bàng quang và ruột còn nguyên.
– Thứ tôi đang cảm thấy ở đây là gì? Dây gì đó nhỏ ở bên trái – cô thắc mắc.
– Đó là chỉ khâu. Hắn dùng nó để thắt mạch máu lại.
Rizzoli kinh hãi nhìn lên.
– Đây là chỉ khâu khi phẫu thuật?
– Dây ruột mèo cỡ 2-0 – Moore mạnh bạo nói và nhìn Tierney chờ anh xác nhận.
Tierney gật đầu.
– Đó là dây khâu tương tự mà chúng tôi đã tìm thấy trên cơ thể Diana Sterling.
– Dây ruột mèo 2-0 à? – Frost thẽ thọt hỏi. Anh đã lùi khỏi bàn và giờ đứng ở góc phòng, sẵn sàng nhảy bổ tới bồn nước – Nghe tên đó giống như một thương hiệu hay thứ gì đó phải không?
– Không phải là một thương hiệu – Tierney nói – Dây ruột mèo là một loại chỉ y tế được làm từ ruột của bò hay cừu.
– Vậy tại sao gọi đó là dây ruột mèo? – Rizzoli hỏi.
– Việc này xuất phát từ thời Trung cổ, khi những dây ruột được dùng làm nhạc cụ. Các nhạc sỹ gọi nhạc cụ của mình là kit[1], và dây đàn được gọi là kitgut. Từ này cuối cùng được chuyển thành catgut[2]. Trong ngành giải phẫu, loại chỉ y tế này được dùng để khâu các lớp mô nối tiếp nằm sâu bên trong. Cuối cùng, cơ thể sẽ làm đứt và tiêu hóa sợi chỉ đó.
– Vậy hắn lấy chỉ ruột mèo ở đâu? – Rizzoli nhìn Moore – Anh có tìm thấy nguồn gốc của nó trong vụ án của Sterling không?
– Gần như không thể xác định nguồn gốc cụ thể – Moore lắc đầu – Chỉ ruột mèo được nhiều quốc gia sản xuất, phần lớn ở châu Á. Nó vẫn được sử dụng ở một số bệnh viện nước ngoài.
– Chỉ bệnh viện nước ngoài thôi sao?
Tierney giải thích.
– Giờ có nhiều giải pháp tốt hơn. Chỉ ruột mèo không có sức mạnh và độ bền như chỉ nhân tạo. Tôi nghĩ rất ít bác sỹ phẫu thuật ở Mỹ đang sử dụng loại chỉ này.
– Tại sao tên sát nhân lại dùng nó?
– Để thỏa mãn nhu cầu quan sát, để điều khiển cho máu chảy đủ lâu để hắn có thể thấy mình đang làm gì. Tên sát nhân này làm rất gọn.
Rizzoli rút tay khỏi vết thương. Trong lòng bàn tay đeo găng của cô có một giọt máu nhỏ, như một hạt cườm đỏ tươi.
– Hắn tinh xảo mức nào? Chúng ta đang đương đầu với một bác sỹ, hay một tên đồ tể?
– Rõ ràng hắn có kiến thức ngoại khoa – Tierney nhận định – Tôi không nghi ngờ gì về việc hắn đã từng làm việc này rồi.
Moore lui khỏi bàn, buộc mình không nghĩ đến việc Elena Ortiz chắc hẳn đã đau đớn mức nào. Nhưng anh không thể xóa đi những hình ảnh đó. Hậu quả đang phơi bày ngay trước mắt anh, mở mắt trừng trừng nhìn anh.
Anh giật mình quay đi khi các dụng cụ kêu loảng xoảng trên khay. Nhân viên nhà xác đẩy chiếc khay đến gần chỗ bác sỹ Tierney để chuẩn bị cắt hình chữ Y. Giờ nhân viên đó cúi xuống, nhìn chằm chằm vết thương trên bụng.
– Chuyện gì đã xảy ra với nó? – Anh hỏi – Sau khi hắn cắt rời tử cung, hắn làm gì với nó?
– Chúng tôi không biết – Tierney đăm chiêu – Chúng tôi không tìm được các bộ phận đó.