Mùi dây điện cháy khét treo nặng nề trong không khí, bồ hóng và bụi bao phủ những bề mặt phẳng trông giống như một quả bom tro vừa nổ tung. Những dấu chân tạo thành lối đi xuyên qua lớp đá mạt trên sàn nhà, khiến ta liên tưởng đến những dấu chân của lịch sử đã đi xuyên qua trên cùng sàn nhà này, và ý nghĩ ấy khiến tôi mỉm cười. Nếu là cách đây không lâu thì tôi đã chỉ có thể nhìn thấy bụi bặm và chi phí liên quan đến việc thuê thêm người để giúp bà Houlihan dọn dẹp. Tôi chau mày, nhận ra rằng tôi vẫn cần phải làm việc ấy, nhưng hiện giờ thì phần tiền bạc có lẽ sẽ phải đến từ túi tiền của tôi thôi.
Tôi đứng giữa tiền sảnh và nhìn lên lồng cầu thang thanh nhã dẫn lên bộ đèn chùm đồ sộ treo bên trên hai tầng lầu. “Tao thật mừng là mày vẫn ổn,” tôi nói nhỏ với ngôi nhà, cảm giác nặng nề và sền sệt chợt ập đến trong dạ dày khi sự việc bỗng trở nên rõ ràng với tôi rằng suýt tí nữa thì tôi đã mất tất cả những thứ tại đây.
“Tôi cũng thế,” Jack nói từ sau lưng tôi, và tôi xoay nhanh người về phía anh. “Tôi thật mừng vì cô đã an toàn,” anh lặp lại.
Sắc diện anh đã trở lại bình thường và mắt anh cũng có một tia sáng nhỏ lấp lánh. Tôi mỉm cười một cách thăm dò. “Tôi vẫn chưa có dịp cám ơn anh đã giúp tôi đêm qua.”
“Tôi đã quen nghe câu này từ nhiều người khác nhau đấy,” anh nói, nụ cười rạng rỡ cố hữu lại tách đôi gương mặt anh ra.
Tôi đấm nhẹ lên vai anh. “Cám ơn vì đã cứu mạng tôi,” tôi nói.
“Tôi thật mừng vì đã có thể giúp cô việc gì đó.” Gương mặt anh bỗng trở nên nghiêm nghị khi anh nhìn tôi thật chăm chú khiến tôi muốn lùi bước lại vì cảm xúc mãnh liệt tỏa ra từ đôi mắt ấy. “Nhưng tôi cũng cần phải cám ơn cô nữa. Bằng một cách nào đó, cô cũng đã cứu mạng tôi đấy.” Anh ngừng nói, mắt anh dường như tối lại khi anh nhìn xoáy vào tôi. “Tôi luôn nghe những gia đình có người thân bị mất tích nói rằng khi không biết gì còn tệ hơn là biết được sự thật, và tôi chưa bao giờ tin họ. Giờ thì tôi đã tin.” Anh chà hai tay lên mặt khiến những sợi tóc quanh trán anh dựng đứng lên và tạo cho anh một vẻ ngoài thật mong manh yếu đuối, điều mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy nơi anh. Nó khiến tôi ấm lòng khi được nhìn thấy sự mềm mỏng trong anh như thế này, nhưng tôi không hề muốn cho anh biết điều đó.
Jack tiếp tục nói. “Giống như là… được giải thoát ấy, hiểu theo một cách nào đó. Như thể cuối cùng thì tôi cũng được quyền cứ đau khổ cho thỏa rồi vượt qua và bắt đầu một cuộc sống mới.” Rồi anh nhìn tôi một cách kỳ lạ. “Thật lạ, khi nghe cô kể cho tôi một việc mà đáng lý ra tôi đã phải biết từ lâu. Giống như tâm trí tôi đã chấp nhận nó từ lâu, và tôi cũng đã trải qua nhiều đau đớn dằn vặt – nhưng tôi vẫn cần được nghe nó từ một người khác trước khi tôi tự cho phép mình được bắt đầu một cuộc sống mới.”
“Tốt lắm,” tôi nói và mỉm cười với anh. “Tôi thật vui vì đã giúp được gì đấy cho anh.”
Anh bước đến gần hơn nữa. Bằng một giọng thật khẽ, anh nói, “Trong suốt thời gian ngồi trong xe, với tất cả những việc này đang xảy ra trong đầu, tôi vẫn không khỏi nghĩ đến việc đôi mắt cô chuyển từ màu nâu xám sang xanh lá khi cô bực bội – vốn xảy ra rất nhiều lần. Hoặc khi cô mừng rỡ – vốn không xảy ra đủ nhiều.”
Một dòng hơi ấm chậm rãi cuộn nhẹ và trải đều trong ruột gan tôi rồi đổ xô vào huyết quản, giống như một con sóng đang vỗ vào bờ. Thậm chí không nhận biết mình đang làm gì, tôi nhắm mắt lại rồi hơi nghiêng đầu ra sau, chờ đợi để lại được nếm đôi môi anh và tự hỏi không biết lần này cảm giác có thích hơn lần anh hà hơi thổi ngạt trực tiếp vào miệng tôi đêm qua hay không.
Một tiếng động lớn và vỡ toác đi theo sau tiếng gỗ đập phát vào nhau khiến tôi mở bừng mắt, vừa kịp nhìn thấy mắt của Jack đang gần sát mặt tôi và mang cùng trạng thái ngạc nhiên như tôi.
“Cái… gì thế này?” Jack nắm tay tôi và kéo tôi chạy về hướng phòng khách chính, nơi phát ra tiếng động. Nơi đây, nằm ngay trước chiếc đồng hồ quả lắc đã được bao phủ bằng vải bạt, là khung hình hoàn toàn sạch bụi của Louisa và Nevin. Ðây là khung hình mà tôi đã cất cùng với những phụ kiện khác trong một trong những phòng ngủ trên lầu.
Tôi cúi người để nhặt nó lên. “Ðó là Louisa đấy, tôi chắc là thế.” Tôi ngừng nói, hít bầu không khí chung quanh. “Anh có ngửi thấy hương hoa hồng không? Thế có nghĩa là bà ấy đang ở đâu đây. Bà ấy đã và đang cố nói cho tôi biết một điều gì đấy, nhưng tôi lại không thể đoán được gì cả. Một điều gì đó có liên quan đến bà ấy và Nevin – tôi chỉ không thể biết đó là việc gì.”
“Hay là,” Jack nói, bắt đầu cuộn lên lớp vải bạt đầy bụi bặm đang bao phủ chiếc đồng hồ cổ, “nó chắc phải có liên quan gì đến chiếc đồng hồ này bởi vì đây là vật mà nó cứ ném mãi vào.” Anh vươn người kéo tấm bạt ở phần trên cùng của chiếc đồng hồ rồi thả nó xuống vũng nước xanh bẩn dưới chân chúng tôi.
“Ý anh là sao?” tôi hỏi.
“Cô còn nhớ những tấm hình mà tôi đã chụp mặt trước chiếc đồng hồ hay không? Cuối cùng thì tôi cũng đã mang chúng đi rửa và đã nhận hình.”
Tôi đượm một chút cảm giác phấn khích, và tự hỏi có phải mắt tôi vừa chuyển thành màu xanh lá cây hay không. “Mẹ anh có vẻ khá chắc chắn rằng mặt đồng hồ này không phải là đồ nguyên thủy cùng với chiếc đồng hồ, nên có lẽ là có ai đó trong gia tộc Vanderhorst đã thay nó đi. Nhưng tại sao như thế?”
“Chính xác là những gì tôi nghĩ, cho nên tôi hơi ngạc nhiên khi những tấm hình này chẳng cho thấy gì cả. Phần bán nguyệt ghép thêm vào chỉ cho thấy một loạt những lá cờ hiệu, rõ ràng là không theo một thứ tự cụ thể nào do đó sẽ không tạo thành một thông điệp. Tôi đã cố thử sắp xếp chúng theo nhiều cách khác nhau nhưng vẫn bó tay. Dù sao đi nữa, mẹ tôi có nói rằng toàn bộ những chiếc đồng hồ Johnstone khác đều có hình những cánh đồng nuôi bò sữa, trong khi bức tranh của chiếc này lại được thay thế bằng chủ đề hàng hải – phô diễn một cuộc nổ súng trên pháo đài Fort Sumter.” Anh cười tươi với tôi. “Ðó là nơi đã nổ ra những phát súng đầu tiên trong thời Nội chiến.”
Tôi khoanh hai tay trước ngực. “Tôi biết việc ấy.”
“À thì, có lần cô đã nói với tôi rằng cô rất sung sướng vì mình dốt lịch sử, cho nên tôi chỉ muốn chắc rằng cô có biết vụ này.”
Tôi trợn tròn mắt. “Tôi là dân Charleston đấy nhé. Tôi có nhiệm vụ phải biết về pháo đài Fort Sumter – toàn bộ những ai sinh trưởng ở Charleston đều phải biết, nếu không thì sẽ bị đuổi cổ ra khỏi thành phố này.”
Jack cười khìn khịt. “Ờ, đại loại là như thế. Về vụ này, ban đầu tôi cứ nghĩ có lẽ người ta làm việc này để tưởng niệm những sự kiện lịch sử mà ngôi nhà này và những người đã từng cư ngụ nơi đây đã chứng kiến. Nhưng khi tôi xem kỹ mặt đồng hồ,” anh nói và vặn cái nắm nhỏ bằng đồng rồi kéo mở cái cửa kính bên ngoài mặt trước chiếc đồng hồ, “thì tôi phát hiện rằng đại đa số những đường rãnh lồng vào bức tranh này thật ra có ba chiều, được nâng lên từ phía sau chỉ vừa đủ sao cho chúng chỉ được phát hiện khi sờ bằng tay chứ không phải khi nhìn bằng mắt.”
Cẩn thận kẹp khung hình giữa cánh tay và bên hông mình, tôi bước qua đứng cạnh anh rồi trượt dài ngón trỏ trên cột buồm của một chiếc tàu lớn nơi anh vừa chỉ, và cảm thấy đúng là có lằn gợn. “Ðúng là thế thật. Nhưng mục đích của việc này là gì?”
“Tôi có mua một ít giấy làm thủ công và một cây sáp, rồi gỡ hai cái kim đồng hồ ra và chà sáp lên những lằn gợn này.”
“Giống như cách người ta chà sáp lên bia mộ vậy,” tôi nói.
“Chính xác.”
“Thế thì anh đã tìm thấy những gì?” Tôi bắt đầu mất kiên nhẫn. “Nó có cho anh biết nơi cất giấu những viên kim cương hay không? Hoặc cho biết việc gì đã xảy đến cho Louisa?”
Anh thở dài não nuột. “Cô còn nhớ có lần tôi hỏi xem cô có thể chỉ việc nêu thắc mắc của mình với những hồn ma để họ trả lời cho hay không? Và cô nói gì đấy đại loại là sự việc không hề dễ dàng như thế? Ðấy, việc này cũng giống y như thế đấy. Nếu mọi việc quá dễ dàng thì hiện giờ chúng ta đã chẳng phải cố tìm hiểu như thế này bởi vì chắc hẳn đã có ai khác đã tìm ra manh mối từ lâu rồi.”
“Có lý đấy,” tôi nói, cảm thấy được xoa dịu một chút. “Nhưng mà nó nói gì nào?”
“Chẳng có nghĩa gì cả.” Anh lôi ra một mảnh giấy từ túi quần sau. “Tôi có viết lại đây này.”
Tôi mở tờ giấy ra và nhìn thấy một dãy ba mươi hai chữ cái mang mẫu tự tiếng Anh, không chia khoảng cách và cũng không theo một thứ tự cụ thể nào cả: IFANKRNGMFEFIVEEMNROQNPDKNIASRKE. Tôi nhìn lên Jack. “Chẳng phải chúng ngầm mang một ý nghĩa nào chăng?”
“Ðó là một mật mã thay thế – một loại mã cơ bản và đơn giản, miễn là ta biết một từ chính yếu giúp giải mật mã. Cứ mỗi khoảnh khắc rảnh rỗi là tôi lại cố thử dùng những từ khác nhau để xem có từ nào giải được mật mã không, nhưng từ nào cũng không khớp.”
“Hóa ra những quyển sách về giải mã trên căn gác mái là dành cho việc này – và đó cũng là lý do anh muốn mượn chúng.”
“Cũng gần đúng như thế.” Trông anh có vẻ bẽn lẽn và đứng đắn. “Nếu tôi có phát hiện ra điều gì nữa, tôi sẽ chia sẻ với cô, cô biết mà. Thậm chí nếu tôi có biết rằng cô sẽ căm tức tôi đến trọn đời.”
Tôi nhìn anh với thật nhiều cáo buộc và thương tổn trong lòng, nhiều đến nỗi tôi có thể làm cho chúng cô đặc lại, nhưng vẫn chẳng nói gì.
“Dù sao thì, những cuốn sách ấy toàn là của thế kỷ trước, đó là lý do khiến tôi nghĩ rằng chính Robert Vanderhorst là người đã cho thay mặt đồng hồ.”
“Như thế cũng có nghĩa rằng dù bất cứ thứ gì được phát hiện từ cái đồng hồ này cũng có thể cho chúng ta biết hoặc về Louisa hoặc về những viên kim cương ấy.”
“Hoặc cả hai,” Jack nói và cẩn thận đóng cửa mặt đồng hồ lại. “Và còn một việc nữa.” Anh vặn chiếc chìa khóa cũ vào hộp gỗ của chiếc đồng hồ và kéo mở cánh cửa nặng nề có gắn bản lề ra. “Tôi có tìm thấy một ngăn tủ bí mật trong đây.”
“Và trước đây thì anh đã chẳng thèm nghĩ đến việc cho tôi xem à?”
“Tôi thấy chẳng cần. Nó trống rỗng chẳng có gì cả.” Anh quỳ xuống phía trước nơi cánh cửa vừa mở ra, cho thấy hệ thống vận hành bên trong của chiếc đồng hồ trong khi tôi liếc nhìn từ phía sau anh. Vươn tay về phía xa bên trái, anh nhấn một cái nút làm bằng gỗ nằm ngang bằng với cái tủ bên trong. Nó đã và đang vô hình đối với mắt trần và hầu như chỉ có thể được phát hiện khi có ai đó chạm tay vào. Một cánh cửa nhỏ bật mở ra, và Jack bước lùi lại để tôi có thể nhìn rõ hơn.
Tôi sục tay vào và sờ chung quanh bên trong một cái ngăn nhỏ, gõ gõ vào đáy và các mặt cạnh của nó. Phần trên đã mở ra, một đường hầm tối đen dẫn lên trên bên trong chiếc đồng hồ. “Tôi nghĩ là anh đã đoán biết rằng không có khoảng cách giữa các bức tường của ngăn tủ và mặt ngoài của chiếc đồng hồ thì phải.”
“Ðúng. Và tôi còn rọi đèn pin vào cái lỗ bên trên cùng, và trông giống như nó đi thẳng lên bên trên trần tường của ngôi nhà. Tôi đồ là nếu đây đã từng là nơi cất giấu kim cương thì chúng đã mất tự đời nào rồi.”
Tôi đứng lên và đóng cửa cái ngăn bí mật ấy lại, rồi đóng cánh cửa kính, chậm rãi vặn chìa khóa cho đến khi nó khớp vào khung. “Còn một việc nữa – một việc mà tôi nhớ từ đêm qua khi anh đang làm hô hấp nhân tạo cho tôi trong vườn.”
Anh nhướn một bên mày nhưng tôi không bị mắc bẫy. “Tôi đã nhìn thấy bà ấy… Louisa. Bà ấy đang quỳ bên chiếc đài phun nước, vén lớp cỏ ra sau, như thể đang cố cho tôi thấy những chữ số La Mã. Bởi vì chiếc đài phun nước này chưa có khi Louisa còn sống ở đây nên tôi đồ là Robert đã cho xây nó. Và rằng những chữ số ấy có ý nghĩa gì đó với ông ấy.”
“Có lẽ cô nói đúng. Những ngày này tôi đã mày mò những chữ số ấy, và ba cô cũng thế.” Anh lại nhìn tôi đầy vẻ biết lỗi. “Tôi và ông ấy đã cố tìm xem chúng có tương hợp với bất cứ ngày sinh, tuổi, ngày tháng trong lịch sử, hoặc bất cứ cái gì quan trọng với gia tộc Vanderhorst hay không. Và chẳng có gì cả. Chúng tôi hoàn toàn không tìm ra cái gì hết.” Anh chải hai bàn tay vào tóc, một việc mà tôi bắt đầu nghi ngờ rằng anh làm khá thường xuyên khi cố giải quyết một vấn đề. Tôi tưởng tượng anh làm thế rất nhiều mỗi khi làm việc, giống như một thói quen thường tình của các tay nhà văn, và tôi thầm nghĩ thói quen ấy đúng là khá hấp dẫn. Anh quay sang tôi. “Tôi muốn nhìn tấm hình chụp Louisa và viên kim cương bà ấy đeo trên cổ khi chúng ta ở đây. Chỉ cần nhìn vào hình dáng và kích cỡ của nó thì tôi sẽ có thể nhận biết xem đó có đúng là thứ mà chúng ta đang tìm hay không.”
“Nếu như chúng vẫn còn đâu đây và chờ được phát hiện. Nhưng, dĩ nhiên rồi – những cuốn album nằm trên lầu đấy. Tôi sẽ cho anh xem trước khi chúng ta rời khỏi đây. Và tôi cũng muốn xem những thứ mà anh đã tìm được vốn có liên quan đến việc giải mã với cái đồng hồ này. Thật ra thì tôi cũng khá trong việc giải đố đấy.”
“Bắt tay vào việc thôi,” Jack nói. “Tôi rất sẵn lòng cho cô xem những chữ tôi lấy được khi chà sáp lên mặt đồng hồ.”
Tôi định huých khuỷu tay vào anh, quên mất rằng tôi vẫn còn kẹp cái khung hình giữa khuỷu tay và hông khi tôi bước đến xem mặt đồng hồ khi nãy. Bức hình rơi xuống sàn, lớp bìa giấy độn đằng sau tấm hình và lớp kính rơi ra ngoài. Khi tôi cúi người nhặt nó lên, tôi để ý thấy nằm dưới lớp kính là một mảnh giấy xé rời mà rõ là đã được nhét vào giữa tấm hình và lớp bìa giấy phía sau nó.
“Cái gì thế?” Jack hỏi trong khi tôi nhặt nó lên và vuốt cho thẳng ra.
“Tôi cũng chẳng biết. Trông giống như một phần của phong bì thư.” Phần có nắp bì thư vẫn còn nguyên vẹn nhưng để trống, nhưng khi tôi lật nó lên, một cái tên và một phần địa chỉ người gửi được viết nguệch ngoạc trên ấy: Susannah Barnsley, và rồi những chữ, Orchard Lane. Tôi đưa lên cho Jack nhìn. “Không có cái tên nào nghe quen với tôi cả.”
“Tôi cũng thế.” Anh lật qua lật lại mảnh giấy nhiều lần, rõ ràng đang suy nghĩ rất sâu. “Ðể tôi mang cái này cho người bạn làm ở thư viện xem cô ấy có thể tìm ra được gì không. Ai mà biết được: có thể cái người Susannah này vẫn còn sống cũng không chừng.” Rồi anh chau mày. “Nhưng giờ đây thì tôi lại thắc mắc, có phải Louisa chẳng hề muốn chúng ta chú ý đến cái đồng hồ chút nào hay không.”
“Thật ra không phải lúc nào những gì mà hồn ma muốn nói với mình đều rõ ràng cả. Và đôi khi họ cố ý chẳng nói gì cả mà chỉ muốn được chú ý đến thôi.”
“Tốt lắm. Thế thì mảnh bao thư này có thể chỉ là một vật giúp tấm hình khớp hơn trong khung và chẳng có ý nghĩa gì cả.”
“Hoặc là cái người Susannah Barnsley này, dù cho bà ấy là ai và cứ xem rằng bà ấy vẫn còn sống, có thể biết những viên kim cương được cất giấu ở đâu. Hoặc biết Louisa đã ở đâu.”
“Hoặc chỉ là cả hai chúng ta đều điên khùng vì đã tin rằng người chết có thể liên lạc với người sống.”
Tôi nhướn một bên mày.
“Hoặc không thể,” Jack lại nói với nụ cười độc quyền của anh. “Sao cô còn không đưa tôi lên lầu để chỉ cho tôi xem tấm hình có viên kim cương ấy? Sau đó tôi sẽ đi ra thư viện trong khi cô nghỉ ngơi. Hy vọng khi tôi quay về thì chúng ta sẽ có thêm tin tức từ ba cô và Sophie.”
“Kế hoạch nghe hay đấy,” tôi nói và hướng về cầu thang trong khi Jack theo sau tôi. Tôi dừng lại và xoay người đối diện với anh. “Tại sao anh lại gọi tôi bằng tên đầy đủ của tôi thế hả?”
Mắt anh mở to một cách ngây thơ. “Bởi vì cô đã yêu cầu mà.”
“Ồ, đúng là tôi đã bảo anh làm thế, nhỉ?” Tôi cắn môi một lúc trong khi cả hai nhìn nhau thật gần. Cuối cùng, tôi lại xoay người và bước đi lên. “À, giờ thì anh có thể thôi không gọi tôi như thế nữa. Nghe thật là… lạ khi anh gọi tôi như thế.”
Tôi nghe thấy âm hưởng của nụ cười trong giọng nói của anh. “Ðược thôi, thưa cô.”
Chúng tôi bước lên thêm vài bậc, thì Jack lại nói. “Nhân tiện, trong trường hợp cô vẫn còn tiếp tục đếm, thì khi nãy suýt tí nữa là nụ hôn thứ hai đấy nhé.”
“Tôi chẳng đếm,” tôi nói trong khi bước lên các bậc thang, cảm nhận đôi mắt của Jack dán vào người tôi trong suốt thời gian chúng tôi bước lên lầu.
***
Tôi cảm thấy kiệt sức khi Jack ra về sau khi đã xem tấm hình và xác nhận viên kim cương mà Louisa đeo trên cổ rất có thể là một trong những viên kim cương huyền thoại ấy. Hậu quả đêm thức trắng vừa qua bắt đầu thấm dần vào người tôi trong lúc tôi mở toang toàn bộ các cửa sổ trên lầu để gió lùa xuyên vào phòng, rồi sau đó, thay vì lái xe trở về căn hộ của mình, tôi lại nằm cuộn tròn trên xa-lông – cảm thấy an toàn hơn trong ánh sáng ban ngày – trong phòng khách trên lầu và chìm vào một giấc ngủ không mộng mị.
Tôi chẳng biết mình đã ngủ trong bao lâu, chỉ biết rằng khi ba tôi la lớn gọi tên tôi, tôi trượt khỏi chiếc xa-lông trong cơn hoảng loạn, đầu đập vào chiếc khay đặt phía trước. Vừa xoa đầu, tôi vừa ngồi bệt trên sàn nhà và cau có nhìn ba tôi. “Ba à, con đâu phải lính mới của ba đâu. Ba làm ơn đừng bao giờ làm thế với con nữa.”
“Cho ba xin lỗi, con gái cưng.” Ông ấy cười xòa ra vẻ biết lỗi, rồi đưa tay cho tôi. “Có lẽ ba chỉ theo thói quen thôi. Và ba cũng quá nôn nóng không chờ được cho đến khi con tự thức dậy.”
Cảm nhận sự phấn khởi của chính mình, tôi để ông kéo tôi lên rồi ngồi lên chiếc xa-lông. “Ba đã tìm thấy gì nào?”
Tôi để ý thấy chiếc hộp đựng xì gà nhét dưới cánh tay ông rồi nhìn ông đặt nó lên bàn. “Ông Sconiers đã tráng rọi được cuộn phim trong khi ba ngồi chờ – có lẽ bởi vì chỉ có ba tấm hình lộ ra trong toàn bộ cuộn phim.” Ông mở nắp hộp và lấy ra ba tấm hình trắng đen có kích cỡ mười bốn phân vuông, giống y như những tấm hình tôi đã thấy trong cuốn album của Louisa. Ông ấy đưa chúng cho tôi xem. “Cho ba biết con nghĩ gì nào.”
Tấm hình đầu tiên chụp chiếc đài phun nước. Cỏ ở mặt trước ngắn hơn, do đó những chữ số La Mã khi ấy dễ nhìn thấy phía sau lớp cỏ được cắt tỉa. “Ðiều duy nhất con để ý về chiếc đài phun này là trong ấy không hề có nước. Nó cũng chẳng có giọt nước nào khi con đến gặp ông Vanderhorst, và người thợ ống nước của con dường như cũng không biết cách làm cho nó hoạt động được.” Tôi bắt gặp ánh mắt của ông. “Có lẽ việc ấy mang một ý nghĩa nào đó.”
Ba tôi lôi một quyển sổ tay bỏ túi có gáy lò xo ra. “Ba đang viết lại tất cả mọi thứ mà chúng ta phát hiện ra. Thậm chí nếu hiện giờ chẳng có cái gì mang ý nghĩa cụ thể nào cả thì chúng ta vẫn có khả năng phát hiện ra điều gì đó một khi chúng ta xem xét toàn bộ mọi thứ cùng một lúc.”
“Tốt lắm,” tôi nói và lật qua tấm hình tiếp theo chụp chiếc đồng hồ cổ, chiếc biểu đồ tăng trưởng vẽ trên tường bên cạnh nó hầu như không nhìn thấy được. Tôi nhìn vào mặt đồng hồ, để ý rằng nó không giống như mặt đồng hồ hiện tại. Thất vọng, tôi nói, “À, giờ thì ta đã biết được việc này rồi – Robert đã cho thay mặt đồng hồ và lồng vào đó một loại mật mã nào đó mà Jack hiện đang cố giải. Con hy vọng tấm hình thứ ba là một cái gì mới hơn.”
Tôi lật sang tấm hình tiếp theo và dừng lại. Ðó là bức chân dung một người phụ nữ xinh đẹp, với làn da nâu nhạt và mắt cũng màu nhạt, đang ngồi trên một chiếc ghế đánh đàn dương cầm. Cô đang ủ rũ nhìn người chụp ảnh, đôi môi dầy của cô nở một nụ cười buồn. “Ba nghĩ người trong ảnh này là ai?”
Ba tôi cầm lấy tấm hình. “Có một bản nhạc bài “Ồ, Susannah” trên đùi cô ấy. Ba không biết việc này có ý nghĩa gì không.”
“Con nghĩ là có đấy.” Tôi lần tay vào túi sau chiếc quần jeans đang mặc – chiếc quần jeans đầu tiên mà tôi từng sở hữu và đã mua theo sự hối thúc của Sophie, và cả Jack, vốn đã chán ngán với những chiếc quần lửng hiệu Lily Pulitzer của tôi – rồi lôi ra chiếc bì thư đã bị xé đi.
“Susannah Barnsley,” ba tôi đọc to. “Cái tên này nghe chẳng có nghĩa gì với ba cả, và ba cũng đã xem qua hết tất cả những giấy tờ lưu trữ trong ngôi nhà này và ba khá chắc rằng ba chưa từng nhìn thấy cái tên này bao giờ.” Ông tiếp tục nhìn vào tấm hình, ngân nga vài giai điệu của bản nhạc ấy.
“Jack có người bạn ở thư viện. Hôm nay anh ấy đã đi gặp người này để xem cô ta có tìm được gì trong phòng lưu trữ hay không.” Có lẽ tôi đã cố nhấn mạnh từ “bạn” vì ba vừa quan sát tôi thật kỹ.
“Bạn, hả? Ba nghĩ đó hẳn phải là một cô gái rồi.”
Tôi nhún vai. “Chẳng biết. Chẳng quan tâm.” Rồi để thay đổi đề tài, tôi nói, “Ðể con giữ bức thư viết cho Nevin luôn nhé. Con muốn đọc lại lần nữa, để xem chúng ta có bỏ sót gì không.”
Ba tôi lấy bức thư ra từ chiếc hộp đựng xì gà rồi trao nó cho tôi. Trước khi ông ấy kịp nói gì thêm thì điện thoại của tôi reo vang. Tôi cầm điện thoại lên thì thấy đó là Sophie. “Chào, Soph.”
“Chào Melanie. Giọng của cậu nghe đỡ hơn đấy. Hiện cậu cảm thấy trong người thế nào?”
“Tốt.” Tôi nghe tiếng em bé khóc trong điện thoại. “Cậu đang ở đâu?”
“Mình đang ở phòng y tế của trường. Mình đang đợi chích ngừa cho vụ dị ứng lông chó.”
“Nhưng cậu đâu có nuôi chó.”
Một thoáng im lặng. “Không, nhưng cậu thì có, Melanie ạ, và bọn mình ở bên nhau rất nhiều.”
Tôi nghĩ một lúc. “Nhưng Ðại tướng Lee có lẽ chỉ ở với tớ chừng ba mươi phút trong suốt năm tháng vừa qua thôi.”
Sophie không trả lời ngay, và khi nó nói chuyện lại, đó là một đề tài hoàn toàn mới. “Mình đã tìm ra thông tin về bông hoa hồng của cậu. Bạn mình cần làm thêm vài thí nghiệm khoa học mới có thể chắc chắn hoàn toàn, nhưng nhìn vào cấu trúc của những cánh hoa, anh ấy khá chắc chắn đó là một bông hoa hồng Louisa. Việc này có giúp gì cho cậu không?”
“Mình cũng chẳng biết. Giờ đây dường như bọn mình có rất nhiều mảnh thông tin rời rạc nhưng chẳng có cái nào khớp với cái nào.”
“Ngôi nhà thế nào rồi?”
Tôi có thể nghe thấy sự e sợ trong giọng nói của Sophie. “Nó không sao cả. Phòng bếp thì tiêu rồi, nhưng phần còn lại của ngôi nhà sẽ ổn sau khi được thông gió thật tốt. Và cảm ơn cậu.”
“Về việc gì?”
“Vì đã tiếp tục làm việc cho ngôi nhà trong khi mình thì lại đi du hí giải sầu. Ngôi nhà đã rất đẹp cậu ạ.”
Giọng của Sophie có vẻ hơi sắc cạnh. “Tại sao cậu lại nói bằng thì quá khứ hử?”
“À, hiện giờ thì bồ hóng che phủ mọi thứ cậu ạ. Cho tớ xin vài ngày rồi cậu hãy quay lại, được chứ?”
“Tất nhiên rồi. Hiện giờ thì cậu có cần mình làm giúp việc gì nữa không?”
“Ờ, cậu có thể nói hộ với Chad giúp mình rằng mình đã lên danh sách thêm bốn căn hộ cho anh ấy đến xem và mình cần anh ấy gọi lại cho mình.” Tôi vừa định chào tạm biệt thì bỗng nghĩ ra thêm một việc khác nữa. Tôi nghĩ đó là một điều cầu may, nhưng thật ra Sophie Wallen thường có nhiều bất ngờ. “Còn một việc nữa – cậu có bao giờ nghe đến cái tên Susannah Barnsley không?”
Nó thậm chí không cần ngừng lại trước khi trả lời. “Dĩ nhiên rồi. Hoặc ít nhất là mình có biết nhà của bà ấy. Nó nằm trong một trong những tua kiến trúc mà mình đưa khách đi tham quan.”
Một cảm giác vỡ òa vì mừng rỡ lan tỏa trong ngực tôi. “Nhà của bà ấy? Nó nằm ở đâu?”
“Trên phố Chalmers – trong một trong những khu dân cư đã hoàn toàn được nâng cấp. Bà ấy là con lai và được người bảo trợ da trắng của bà tặng cho một ngôi nhà khá xinh ở đấy.”
Lòng tôi chùng xuống. Robert đã có bồ? “Bà ấy có còn sống ở đấy không?”
“Không – ngôi nhà và toàn bộ khu dân cư ấy hầu như đã bị bỏ hoang từ những năm một chín năm mươi. Chỉ vì Hội Bảo tồn Lịch sử đã rất quyết liệt nên khu ấy mới không đổ nát vì những chiếc cần cẩu giật sập nhà.” Tôi nghe được sự giận dữ trong giọng nói của Sophie lần đầu tiên trong đời. “Mình đã giúp được gì cho cậu hay chưa?”
“Có lẽ là có đấy. Mình sẽ cho cậu biết sau khi mình nói chuyện với Jack.”
Có tiếng ai đó gọi to tên bệnh nhân trong phòng chờ ở đầu dây bên kia. “Họ vừa gọi mình đấy, nên mình phải đi đây. Mình sẽ gọi lại cho cậu sau nhé.”
“Tạm biệt, Soph,” tôi nói, nhưng nó đã tắt điện thoại.
“Jack đang ở đây,” ba tôi nói khi ông nhìn ra cửa sổ bên hông ngôi nhà. “Cậu ta mang theo những thứ lỉnh kỉnh gì thế này?”
Tôi bước đến đứng cạnh ba tôi, và nhìn qua khung cửa sổ trong khi Jack lôi ra hai chiếc vali, một hộp đầy sách, và ngạc nhiên hơn cả, một bông hoa lan to tướng cắm trong chậu.
“Làm sao anh ấy biết đó là hoa mà con thích nhất nhỉ?” Tôi lẩm bẩm.
“Là hoa lan à?” ba tôi hỏi, và chúng tôi nhìn nhau trân trối trong khi cả hai cố để cho điều ngụ ý ấy trôi qua.
“Anh ấy chắc hẳn đã gọi cho Nancy,” tôi nói và ngưỡng mộ sự phô diễn cơ bắp của Jack khi anh nhấc cả hai chiếc vali lên một cách nhẹ nhàng và còn giữ cho chậu hoa lan khỏi ngã.
“Có vẻ như cậu ấy dọn lại vào đây rồi,” ba tôi nhận xét một cách tinh ý.
Tôi chẳng trả lời nhưng đã xoay người chạy nhanh xuống cầu thang vừa kịp lúc để bật mở cửa trước khi Jack tự mở ra. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa, mồm há hốc không thốt nên lời. Marc đang đứng cạnh Jack trên hiên nhà, tay ôm một chậu lan giống hệt như hoa của Jack mang đến.
Khi đã bắt đầu lấy lại được giọng, tôi chào cả hai người rồi bước lùi lại cho họ vào nhà.
Không nói một lời, Jack đặt chậu hoa lan của anh ấy lên chiếc bàn ở hành lang, rồi tự bước lên lầu hướng về phòng ngủ trước đây của anh, cứ cách mỗi vài bước thì hai chiếc vali lại va đập lộp cộp vào bậc thang.
Marc đặt hoa lan của anh ấy phía trước chậu hoa của Jack, rồi hôn tôi lên cả hai bên má. “Anh có nghe về vụ đêm qua và nghĩ rằng bông hoa mà em thích nhất sẽ làm em vui lên. Anh lo quá, nhưng Nancy có nói với anh rằng em sẽ sớm khỏe lại.” Anh hít ngửi không khí trong phòng. “Cháy do chập dây điện à?”
Tôi gật đầu. “Phải. May mắn là chỉ có phòng bếp là bị thiệt hại. Phần còn lại của ngôi nhà thì không sao.”
Anh cười. “Ngôi nhà đẹp như thế này mà có bị cháy rụi thì cũng chẳng phải là việc không hay cho em mà, phải không?”
Tôi chợt nhớ đến âm điệu giận dữ trong giọng của Sophie khi nó nói chuyện với tôi ban nãy, và tôi phải cố gắng thật nhiều để không phải lặp lại cái giọng ấy. “Thật ra, em nghĩ rằng có lẽ mình sẽ tan nát cõi lòng nếu nó cháy rụi đấy.”
Marc nhìn tôi đầy vẻ ngạc nhiên. “À, vậy thì bây giờ tình hình là như thế. Anh có nghe nói rằng những ngôi nhà cổ này có thể dễ lây bệnh lắm đấy.”
“Cái gì dễ lây bệnh?” Ba tôi đang đi xuống cầu thang, chiếc hộp đựng xì gà nằm dưới cánh tay ông.
“Những ngôi nhà cổ,” Marc nói. “Tôi nghĩ Melanie đây đã nhiễm bệnh rồi.”
Ba tôi đã đi xuống hết cầu thang và đứng trước chúng tôi. “À, nghe cũng có lý đấy, phải không, Melanie?”
Tôi nhìn ba tôi đầy cảnh cáo nhưng rõ ràng việc ông ấy không biết đến loài hoa ưa thích nhất của tôi không phải là điều duy nhất mà ông ấy đã bỏ sót. “Thật sao?’ Marc có vẻ quan tâm thích thú một cách tự nhiên.
“Ðúng. Melanie đã ở trong ngôi nhà cổ của bà ngoại nó trên phố Legare khá lâu. Có lẽ tình yêu dành cho những ngôi nhà cổ của nó bắt đầu từ nơi ấy.”
Tôi không rõ nếu mình có cần biện hộ cho bản thân hay cứ ngầm đồng ý như thế, nên tôi vẫn giữ im lặng.
Ba tôi nhìn Marc dò xét trong một lúc. “Cậu sinh trưởng ở Charleston phải không? Có lẽ cậu đã từng nghe đến cái tên Susannah Barnsley.”
Marc nhíu mày tập trung suy nghĩ thật lâu. “Không, cái tên này hoàn toàn chẳng khiến tôi liên tưởng được gì cả. Có phải đây là người tôi chắc chắn phải biết hay không?”
“Thật ra thì không phải,” ba tôi nói trong khi tôi quan sát Marc. “Mặc dù đây có thể là người mà ba tôi đã từng biết. Tôi tìm thấy tấm hình của bà ấy trong chiếc hộp của ba tôi để lại.”
Marc lắc đầu. “Xin lỗi, thật tình là tôi không thể giúp gì cho ông được.” Anh ngừng một lúc. “Có phải ba của ông là bạn thân của Robert Vanderhorst – một trong những chủ sở hữu cũ của ngôi nhà này?”
“Ðúng. Họ đã từng là bạn chí cốt và cũng là đối tác làm ăn lâu năm.”
“Vậy là tôi đã nhớ đúng về việc ấy. Hầu như tôi thường chẳng nhớ nổi mình đã ăn gì cho bữa sáng, nhưng lại luôn có xu hướng nhớ những thứ linh tinh lặt vặt mà mình nghe ngóng được đó đây.”
Ba tôi cười giòn. “Chẳng phải thế sao! Và cứ chờ đến khi cậu già hơn, khi ấy sự việc còn tồi tệ hơn nữa đấy.”
Tiếng cười chung vui của hai người bị ngắt quãng khi Jack bước thình thịch xuống cầu thang và tiến đến nhóm chúng tôi ở đại sảnh. Marc khinh khỉnh liếc nhìn Jack. “Có lẽ tôi nhầm, Jack à, nhưng dường như ông đang dọn lại vào đây ở thì phải.”
“À, Matt, tôi thấy sức mạnh của khả năng quan sát của ông có lẽ cũng ngang tầm với sự hăng nồng từ mùi nước hoa của ông đấy.”
Tôi ngưỡng mộ khả năng tự chủ của Marc khi anh chẳng đáp trả gì mà chỉ quay sang tôi. “Tối nay sẽ có pháo hoa mừng Ngày Cựu Chiến binh ở Patriot’s Point đấy. Anh nghĩ là em sẽ thích đi xem.”
“Em muốn đi xem lắm,” tôi nói, thật lòng. Chúng tôi đã không ở bên nhau nhiều kể từ khi tôi hủy chuyến đi đảo Isle of Palms lần trước. Nếu những gì chúng tôi đã có với nhau mà có thể được gọi là một mối quan hệ, thì lần này chúng tôi cần phải đi xem pháo hoa hoặc cùng nhau làm bất cứ việc gì khác mà có thể giúp cho chúng tôi khắng khít với nhau hơn nhằm củng cố mối quan hệ giữa hai người. Không tính đến bao nhiêu lần tôi đã hồi tưởng lại những lần Jack và tôi suýt hôn nhau và tôi đã gần như khao khát được anh hôn như thế nào. Hoặc khi sự thật về Emily vẫn chẳng thay đổi được điều gì. Anh ta vẫn cứ là một anh chàng Jack – quá ngạo nghễ, quá tự tin thoải mái trong vỏ bọc của chính bản thân mình, quá dễ để ta ngắm nhìn nhưng lại quá khó để ta có thể yêu.
“Tốt lắm,” anh nói và hôn lên môi tôi, và tôi tự nhủ làm sao mình có thể không cảm nhận được một nụ hôn như thế này. “Hay là chúng ta đi ăn tối trước ở nhà hàng Jestine nhé? Anh đang khao khát món bánh kem dừa đây. Anh sẽ đón em lúc bảy giờ.”
“Kế hoạch nghe thật tuyệt anh ạ,” tôi nói và tiễn anh ra cửa. Anh lại hôn tôi lần nữa, lần này thì anh nấn ná lâu hơn trên môi tôi, rồi ra về.
Tôi bước lại về phía Jack và ba tôi, vừa kịp lúc nghe Jack nhại lại giọng của Marc, “ ‘Anh đang khao khát món bánh kem dừa đây.’ Thôi đi cha nội, ai đời lại còn xài cái từ ‘khao khát’ nữa chứ?”
“Làm người lớn đi,” tôi nói, khoanh hai tay trước ngực. “Những cái vali này để làm gì thế?”
“Tôi sẽ dọn lại vào ở trong phòng cũ của tôi. Sau vụ tối hôm qua, tôi nghĩ cô cần được bảo vệ.”
Không chỉ là tôi hoàn toàn đồng ý với anh, mà tôi còn biết rằng có tranh cãi cũng vô ích, thế nên tôi chống nạnh rồi nói, “Ðược thôi, nhưng tôi muốn anh phải tuân thủ các luật lệ của tôi. Thứ nhất, phải giữ…”
Jack ngắt lời. “Tôi biết, tôi biết. Luôn giữ bồn cầu nằm xuống, và không được tiếp khách nữ trong nhà sau mười giờ đêm. Nhớ rồi.”
Tôi phải cố ép mình không cười lại với anh. “Tốt. Mừng vì anh còn nhớ.”
“Tôi chỉ cần được người ta chỉ bảo một lần thôi, Mellie.” Anh cười. “Vậy thì, cô có phát hiện gì mới không?”
“Sophie gọi và xác nhận rằng hoa hồng trong hộp ấy rất có thể là hoa hồng Louisa. Việc này có ý nghĩa gì, tôi chẳng biết. Và ba tôi cũng đã tráng rửa được cuộn phim.”
Ba tôi mở chiếc hộp và lấy ra những tấm hình rồi đưa cho Jack, anh nhìn chúng một hồi thật lâu. “Cô nghĩ gì về mục đích của tấm hình chụp chiếc đồng hồ này?”
“Tôi cũng không rõ, nhưng tôi cho rằng đó là để gây chú ý đến sự thay đổi của mặt đồng hồ – nhưng mà chúng ta đã suy luận ra được việc ấy rồi. Và tôi cũng chẳng rõ về cái đài phun nước ấy nữa, ngoài một thực tế là nó cạn khô. Nhưng hãy nhìn tấm hình kia xem. Anh có tìm ra được gì từ đấy không?”
Jack xem kỹ tấm hình chụp người phụ nữ ấy. “Ðây là ai nhỉ?”
“Bọn mình chưa biết đâu. Nhưng ba tôi có chỉ ra rằng trong hình có bản nhạc “Ồ, Susannah” đặt trên đùi cô ấy.” Một cách cẩn thận, tôi bồi thêm, “Có người từng nói với tôi rằng trên đời không có gì là trùng hợp ngẫu nhiên cả, cho nên tôi mạo muội đoán rằng tên của người phụ nữ ấy là Susannah.”
Jack nhìn tôi thật sắc. “Thật vui khi biết rằng tôi đang có ảnh hưởng đến cô đấy.” Rồi anh liếc nhìn qua ba tôi. “Và ý cháu là rất kính trọng đấy, thưa Ðại tá.”
Ba tôi đưa tay chào Jack theo lối nhà binh một cách châm chọc, rồi tiếp tục quan sát chúng tôi.
Jack tiếp tục. “Như vậy đây chính là nhân vật Susannah Barnsley đầy bí ẩn đây?”
Tôi gật đầu. “Rất có thể đấy. Và điều hay ho nhất là Susannah Barnsley có nhà trên đường Chalmers – ngôi nhà này là một trong những điểm dừng trong tua tham quan kiến trúc của Sophie, nhờ đó mà tôi biết được điều này. Ðó có lẽ là nơi chúng ta có thể khởi điểm công việc tìm kiếm. Còn anh thì sao?” Tôi hỏi. “Anh có tìm thêm được gì từ thư viện không?”
Jack lắc đầu. “Tôi vẫn chưa đến đó. Trước hết tôi phải đóng gói hành lý và dọn đồ sang đây đã. Tôi hy vọng cô có thể đi cùng tôi đến đó, rồi mình sẽ ghé nhà tôi để tôi cho cô xem những bản khắc của tôi.”
“Ý anh ấy nói là những bản chà sáp trên mặt đồng hồ đấy ba ạ.”
Ba tôi lắc đầu. “Ngồi nhìn hai đứa giống như xem một trận quần vợt ấy. Ba phải về nhà để xem có tìm được gì thêm trong đống đồ của ông nội con hay không, hy vọng chúng có thể giúp hé mở thêm chút ánh sáng vào tấm màn bí mật này. Rồi ba sẽ cho con biết sau.”
Jack và tôi theo ông đi ra ngoài, cẩn thận ghi nhớ phải khóa trái cửa ngay. Rồi chúng tôi quay lại xe của Jack. Tôi lấy ra lá thư mà Robert đã viết cho Nevin và đọc lại, chăm chú vào đoạn cuối cùng. Hãy cẩn trọng trong bất cứ việc gì con làm, và hãy luôn vững tin rằng con đã được cả cha lẫn mẹ, cũng như tất cả những người đã biết con, yêu thương con vô bờ bến. Hãy nhớ mẹ đã từng thường gọi con là gì, và đừng nghi ngờ bao giờ. Cerca Trova.
“Cerca trova,” Jack lặp lại.
“Anh đã có đưa từ ấy vào những mật mã anh đang cố giải phải không?” Tôi hỏi.
Anh nhướn một bên mày nhưng không nói gì.
“Có phải không?” Tôi lặp lại.
“Có lẽ,” anh nói và trông có vẻ bực mình. Tôi cười vang khi anh nhấn mạnh vào cần đạp tăng tốc, khiến dạ dày tôi nảy xóc lên.
“Tôi vẫn chưa tha thứ cho anh về tội nói dối đấy.”
“Tôi biết,” anh nói, rẽ nhanh vào góc đường khiến tôi ngã sang bên anh ngồi. “Nhưng Emily chắc chắn sẽ muốn tôi tiếp tục và không được bỏ cuộc.”
Tôi quay sang đối diện anh, những cái bóng dài của buổi chiều chiếu ánh sáng màu cam vào chiếc xe. “Emily sẽ muốn thế à?”
Anh vẫn tập trung vào con đường trước mặt. “Ờ. Ðó là tại sao cô ấy quay lại, tôi nghĩ thế. Ðể được tha thứ. Ðể tốt cho cả hai chúng ta.”
Tôi ngồi dựa lại vào ghế nệm bọc da và nhắm mắt lại, nhận ra rằng mình đã không cảm nhận được sự có mặt của Emily xung quanh Jack kể từ khi tôi cho anh biết sự thật khi hai chúng tôi đang ngồi trong xe. Mùi hoa trà nồng nặc, vật báo hiệu mùa thu đang đến ở vùng gần biển và cũng là loài hoa ưa thích nhất của Emily, giờ đây đang thoang thoảng trong xe và quấn lấy không gian quanh chúng tôi trước khi từ từ biến mất. Tôi mỉm cười một mình, biết rằng anh nói đúng.