Người Đưa Tin

Chương 16: Mclean, virginia


Chuyến bay thế nào?”

“Dài bất tận”.

“Đó là vì các luồng gió xoáy mùa thu”, Carter nói ra vẻ hiểu biết. “Chúng làm các chuyến bay từ châu Âu kéo dài thêm ít nhất hai tiếng đồng hồ so với bình thường”.

“Israel không nằm ở châu Âu, Adrian. Israel ở Trung Đông”.

“Thật vậy sao?”

“Ông có thể hỏi Giám đốc của mình. Ông ấy sẽ giải đáp thắc mắc cho ông”.

Carter ném cho Gabriel cái nhìn khinh khỉnh, sau đó đưa mắt trở lại con đường trước mặt. Họ đang lái xe về phía Washington dọc theo đường vào Dulles trên chiếc Volvo cũ nát của Carter. Carter mặc áo khoác thể thao bằng nhung kẻ sọc có những miếng vá trên khuỷu tay. Cách mặc đồ củng cố thêm dáng vẻ giáo sư của ông ta. Chỉ còn thiếu mỗi túi xách bằng vải và một cốc cà phê. Ông đang lái xe dưới tốc độ giới hạn và nhìn liên tục vào kính chiếu hậu.

“Chúng ta bị theo đuôi à?”. Gabriel hỏi.

“Cảnh sát giao thông”, Carter đáp. “Họ rất nghiêm ngặt trên đoạn đường này. Cậu có gặp rắc rối gì ở chỗ kiểm tra hộ chiếu không?”

“Không”, Gabriel nói. “Thật ra họ có vẻ vui khi thấy tôi”.

Đã quá quen với thái độ khó chịu của những người Israel có nhiệm vụ đóng dấu lên hộ chiếu tại sân bay Ben – Gurion, Gabriel đâm ngạc nhiên với lối cư xử hiếu khách của các nhân viên hải quan Mỹ. Và đó vẫn là điều làm anh khó hiểu về đất nước này, cho đến tận bây giờ.

Anh nhìn ra cửa sổ. Họ đã rời đường phố vào khu Dulles và bây giờ đang lái xe qua McLean. Trước đây anh mới đến Virginia một lần, một chuyến đi ngắn đến căn nhà an toàn của CIA nằm sâu trong miền đất của ngựa gần Middleburg. Anh thấy McLean là khu ngoại ô kiểu mẫu của Mỹ, gọn gàng giàu có nhưng dường như không có sức sống. Họ băng qua khu thương mại trung tâm quận, sau đó đến khu nhà dân có nhiều vườn. Những khu nhà này có tên là Merrywood và Colonial Estates. Một bảng hiệu đường hiện rõ dần trước mặt họ: TRUNG TÂM TÌNH BÁO GEORGE BUSH.

“Ông thực sự muốn đưa tôi đến Tổng hành dinh đấy à?”

“Dĩ nhiên là không”, Carter đáp. “Chúng ta sẽ đi vào quận”.

Gabriel hiểu quận là cách những người Washington gọi ngôi làng nhỏ của họ ở Potomac. Họ băng qua đường cao tốc và đi vào vùng đồi núi gập ghềnh cùng là rừng rậm. Qua hàng cây, Gabriel trông thấy những căn nhà lớn nhìn ra công viên.

“Tên cô ta là gì?”

“Sarah Bancroft”, Carter trả lời. “Cha cô ta là điều hành cấp cao của bộ phận quốc tế của Citibank. Sarah được nuôi nấng chủ yếu ở châu Âu. Cô ấy cảm thấy thoải mái khi ở nước ngoài chứ không giống như phần lớn dân Mỹ. Cô ấy nói nhiều ngôn ngữ, và biết khi nào phải sử dụng cái nĩa nào”.

“Học vấn?”

“Cô ta quay lại đây học đại học. Đã lấy bằng cử nhân ngành lịch sử nghệ thuật ở Dartmouth, sau đó học thêm tại viện Mỹ thuật Courtauld ở Luân Đôn. Tôi nghĩ cậu biết viện Courtauld chứ?”

Gabriel gật đầu. Đây là một trong những ngôi trường uy tín nhất trên thế giới về nghệ thuật. Trong những người tốt nghiệp ở trường này có một nhà buôn tranh ở khu phố James, tên là Julian Isherwood.

“Sau khi học tại trường Courtauld, cô ấy lấy bằng tiến sỹ tại Harvard”, Carter nói tiếp. “Bây giờ cô ấy là quản lý tại bảo tàng Phillips ở Washington. Nó là một bảo tàng nhỏ gần…“

“Tôi biết bảo tàng Phillips, Adrian”.

“Xin lỗi”, Carter nói thật lòng.

Một con hươu lớn đuôi trắng phóng ra từ các hàng cây trước mũi xe của họ. Carter nhấc chân khỏi bàn đạp ga và nhìn con vật nhẹ nhàng chạy xuyên qua khu rừng đang trở tối.

“Điều gì khiến ông chú ý đến cô ta?”

Gabriel hỏi nhưng Carter không trả lời. Ông đang chồm lên tay lái quét mắt qua những hàng cây dọc vệ đường tìm thêm hươu. “Nơi nào có một con, thường có thêm những con khác”.

“Giống như bọn khủng bố”, Gabriel nhận xét. Anh lặp lại câu hỏi một lần nữa.

“Sarah Bancrof nộp đơn xin gia nhập tổ chức chúng tôi sau ngày 11/9”, Carter nói. “Cô ta vừa hoàn tất học vị tiến sỹ, lại có bằng cấp và lý lịch xuất sắc, vì thế chúng tôi đưa cô ấy vào gặp những nhà tâm thần học trong phòng Nhân sự. Họ cho cô làm một vài kiểm tra, nhưng họ không thích kết quả thu được. Cô ta quá độc lập về mặt tư duy, họ kết luận. Có lẽ hơi quá thông minh là điều không tốt cho cô ấy lắm. Khi bị chúng tôi từ chối, cô ta bèn vào bảo tàng Phillips làm việc”.

“Vậy là ông đề nghị với tôi một trong những người ông từng từ chối à?”

“Từ này không thể áp dụng cho Sarah Bancroft”. Carter đưa tay vào túi áo khoác nhung màu sặc sỡ lấy ra một tấm ảnh đưa cho Gabriel. Sarah Bancroft là một phụ nữ đẹp rực rỡ, tóc vàng ngang vai, gò má rộng, mắt to màu bầu trời mùa hè không gợn mây.

“Bao nhiêu tuổi?”

“Ba mươi mốt”.

“Tại sao cô ta chưa lập gia đình?”

Carter do dự một chút.

“Tại sao cô ta chưa lập gia đình, Adrian?”

“Cô ta có bạn trai khi ở Havard, một luật sư trẻ tên Ben Callahan. Mọi chuyện kết thúc không được tốt đẹp lắm”.

“Chuyện gì xảy ra với Ben?”

“Anh ta lên chuyến bay tới Los Angeles tại sân bay Logan vào sáng ngày 11/9/2001”.

Gabriel trả bức ảnh lại cho Carter. “Zizi sẽ không thích thuê người bị ảnh hưởng bởi vụ 11/9. Ông mang tôi đến đây chẳng ích gì cả, Adrian”.

Carter để tay lên tay lái. “Ben Callahan là bạn trai hồi đại học, không phải là chồng. Thêm nữa, Sarah chưa bao giờ kể về anh ta cho ai nghe. Chúng tôi đã mất nhiều công sức mới moi được chuyện này. Cô sợ rằng cái chết của Ben sẽ theo cô suốt cuộc đời, rằng người ta sẽ coi cô là một bà góa ở tuổi 26. Cô luôn giữ kín chuyện này. Chúng tôi đã đánh hơi cả tuần nay về độ lan toả của tin tức. Không ai biết”.

“Những tên chó săn của Zizi còn làm nhiều chuyện hơn là chỉ đánh hơi, Adriana ạ. Nếu chúng phát hiện chút xíu mùi 11/9 thôi, ông ta sẽ ba chân bốn cẳng chạy khỏi cô ta”.

“Nhân tiện nhắc đến Zizi, nhà ông ta ở ngay trước mặt”.

Carter giảm tốc độ để quẹo một khúc cua. Một cánh cửa an ninh bằng gạch và sắt lớn xuất hiện ngay trước mặt họ. Đằng sau cánh cửa là con đường lát dài dẫn tới một dinh thự nguy nga như một tòa lâu đài, mặt quay ra sông. Gabriel quay mặt đi khi họ lái xe qua ngôi nhà.

“Zizi sẽ không bao giờ biết về Ben”, Carter nói.

“Ông có sẵn sàng đặt cược mạng sống của Sarah vào chuyện này không?”

“Hãy gặp cô ấy, Gabriel, để có nhiều căn cứ đánh giá hơn”.

“Tôi đã có đánh giá của riêng mình. Cô ấy hoàn hảo”.

“Thế thì vấn đề là gì?”

“Nếu chúng ta phạm một sai lầm thôi, Zizi sẽ ném cô ta xuống một cái hố rất sâu. Đó chính là vấn đề, Adrian”.

Việc đột ngột vào đến trung tâm Washington làm Gabriel ngạc nhiên. Mới ít phút trước họ còn đang lái xe trên con đường nông thôn hai làn, chỉ một lát sau họ đã bò ì ạch trên đường Q băng qua Georgetown trong giờ cao điểm buổi tối. Carter, trong vai trò hướng dẫn viên, chỉ cho Gabriel nhà của những công dân nổi tiếng nhất khu vực, Gabriel tựa trán vào kính cửa sổ, không thể có đủ hứng thú thậm chí chỉ để giả vờ thích thú. Họ băng qua một cây cầu ngắn, canh gác hai bên đầu cầu là một cặp trâu lớn nhưng xỉn màu, sau đó họ đi vào khu phố ngoại giao của thành phố. Ngay khi vừa qua đại lộ Massachusetts, Carter chỉ một toà nhà tháp chuông bằng gạch đỏ bên trái đường. “Đó chính là bảo tàng Phillips”, ông nói. Gabriel nhìn sang bên phải thấy bức tượng bằng đồng của Mohandas Gandhi đang băng qua một công viên hình tam giác nhỏ. Tại sao là Gandhi? Anh tự hỏi. Lý tưởng của Gandhi có liên quan gì với mảng quyền lực toàn cầu của nước Mỹ này?

Carter lái xe qua một dãy nhà khác và đậu lại trong khu vực đỗ xe ngoại giao có giới hạn bên ngoài một tòa Đại sứ Mỹ Latinh nhìn có vẻ trầm lặng. Ông ta vẫn để máy nổ và không có cử động nào cho thấy ý định muốn ra khỏi xe. “Khu vực này trong thành phố được gọi là bùng binh Dupont”, ông giới thiệu. “Đây là nơi đại diện cho những gì tiên phong ở Washington”.

Một sỹ quan thuộc đội Hoạt động Tình báo gõ ngón tay vào cửa sổ xe của Carter yêu cầu ông lái xe đi. Carter, mắt nhìn thẳng phía trước, giơ thẻ căn cước lên, và viên sỹ quan quay trở lại chỗ của mình. Một chút sau, có cái gì đó trong gương chiếu hậu thu hút sự chú ý của Carter. ”Cô ấy tới rồi”, ông thông báo.

Gabriel nhìn ra ngoài cửa xe hơi khi Sarah Bancroft lướt qua. Cô ta đang mặc chiếc áo khoác ngoài màu đen để lộ vòng eo thon thả. Một tay cô xách cặp, còn tay kia cầm điện thoại di động. Gabriel thoáng nghe giọng cô khi cô đi ngang qua. Giọng trầm, tinh tế, có chút âm sắc của người Anh – chắc chắn là do một chút còn sót lại trong thời gian cô học tại Courtauld và thời thơ ấu học ở những trường quốc tế ở nước ngoài.

“Anh nghĩ sao?”. Carter hỏi.

“Tôi sẽ cho ông biết sau một lát nữa”.

Cô đến góc đường Q và đường 20. Ở góc đối diện là khu đất có nhiều người bán hàng rong trên vỉa hè và hai cầu thang cuốn dẫn tới trạm Metro ở bùng binh Dupont. Đèn giao thông ở trước mặt Sarah đang đỏ, nhưng cô không ngừng lại khi ra khỏi khúc cua mà tiếp tục bước đi. Khi tài xế tắc xi bấm còi xe hơi phản đối, cô bắn cho anh ta một cái nhìn có thể làm tan chảy nước đá rồi tiếp tục cuộc nói chuyện trên điện thoại. Sau đo,á cô chậm rãi băng qua ngã tư, bước vào cầu thang cuốn để đi xuống dưới. Gabriel dõi theo đầy nguỡng mộ cho đến khi cầu thang cuốn cô khuất khỏi tầm mắt.

“Ông còn hai người nữa giống y như cô ấy không?”

Carter móc điện thoại ra khỏi túi và bấm số. “Cô ấy đã được chấp thuận”, ông ta nói. Ngay sau đó một chiếc Suburban lớn màu đen vòng qua góc đỗ trái luật trên khúc đường Q chỗ thang cuốn. Năm phút sau, Gabriel nhìn thấy cô lần nữa, lần này đang đi lên từ trạm Metro phía dưới. Cô không còn nói chuyện điện thoại, và cũng không đi một mình. Hai nhân viên của Carter đi hai bên, phòng trường hợp cô thay đổi ý định. Cánh cửa sau của chiếc Suburban bật mở, và Sarah Bancroft biến vào trong. Carter khởi động xe quay trở lại Georgetown.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận