Sarah cố gắng trả lời, nhưng âm thanh dù chỉ là những tiếng hớp hớp không khí.
“Tên-tôi-là-Sarah”.
“Vậy tôi sẽ gọi cô là Sarah”.
“Tại-sao-ông-lại-cư-xử-thế-này-với-tôi?”
“Thôi nào Sarah”.
“Hãy-thả-tôi-ra!”
“Tôi e rằng không thể được”.
Cô gập người xuống, đầu gục giữa hai đầu gối. Ahmed bin Shafiq nắm cổ cô giật ngồi thẳng lên, sau đó nhấc mạng trùm xem xét những vết thương trên khuôn mặt cô. Nhìn thái độ hắn, người ta không thể đoán được hắn đánh giá thế nào về những vết thương này: quá nặng hay quá nhẹ? Sarah đưa mắt nhìn đáp trả. Áo khoác da, khăn choàng bằng lụa casơmia, mắt kính tròn có gọng đồi mồi: hình ảnh của một người giàu có thành đạt ở Zurich. Đôi mắt đen của hắn tỏa ra nét thông minh nhưng đầy tính toán. Hắn vẫn giữ nguyên vẻ mặt như lần đầu gặp cô.
“Cô đang làm việc cho ai?”, hắn hỏi một cách hiền hòa.
“Tôi làm việc”, cô ho sù sụ, “cho Zizi”.
“Thở đi, Sarah. Hãy hít thở chậm và sâu”.
“Đừng-đánh-tôi-nữa”.
“Tôi sẽ không đánh cô”, hắn nói. “Nhưng cô phải kể cho tôi những thứ tôi muốn biết”.
“Tôi không biết gì cả”.
“Tôi muốn biết cô đang làm cho ai”.
“Tôi bảo ông rồi – tôi làm việc cho Zizi”.
Khuôn mặt hắn thoáng nét thất vọng. “Thôi đi, Sarah. Đừng làm cho mọi việc trở nên khó khăn. Hãy trả lời câu hỏi của tôi. Hãy nói sự thật, rồi tất cả những chuyện tra tấn này sẽ chấm dứt”.
“Ông sẽ giết tôi”.
“Đúng vậy”, hắn ta thừa nhận. “Nhưng nếu cô nói với chúng tôi những gì chúng tôi muốn biết, cô sẽ không phải bị rạch mặt, và cái chết của cô sẽ êm ái không đau đớn. Nếu cô nhất định nói dối, những giờ phút cuối cùng của cô trên trái đất này sẽ là một địa ngục sống”.
Sự độc ác của hắn không có giới hạn, cô nghĩ. Hắn nói về việc chặt đầu mình mà còn không thèm ngoảnh mặt đi.
“Tôi đang nói sự thật”, Sarah lầm bầm.
“Cô sẽ phải khai thôi, Sarah. Bất cứ ai cũng phải khai. Kháng cự không có ích gì. Làm ơn, đừng hành hạ bản thân mình như vậy”.
“Tôi không tự hành hạ bản thân. Ông mới chính là kẻ…”.
“Tôi muốn biết cô đang làm việc cho ai, Sarah”.
“Tôi làm việc cho Zizi”.
“Tôi muốn biết ai đã phái cô đến”.
“Chính Zizi đến tìm tôi. Ông ta gửi hoa và nữ trang cho tôi. Ông ta gửi vé máy bay rồi mua quần áo cho tôi”.
“Tôi muốn biết tên cái gã đã liên lạc với cô ở bãi biển Saline”.
“Tôi không…“
“Tôi muốn biết tên cái gã đã đổ rượu lên người vợ tôi ở Saint-Jean”.
“Người nào?”
“Tôi muốn biết tên cô gái đi cà nhắc gần Le Tetou trong bữa tiệc tối của Zizi”.
“Làm sao tôi biết tên cô ta được?”
“Tôi muốn biết tại sao cô theo dõi tôi tại bữa tiệc của tôi. Tại sao đột nhiên cô quyết định búi tóc. Tại sao cô lại búi tóc lên khi chạy bộ cùng Jean-Michel”.
Đến đây Sarah oà khóc một cách hoảng loạn. “Những chuyện này thật điên rồ!”
“Tôi muốn biết tên ba kẻ đi xe máy theo dõi tôi ngày hôm đó. Tôi muốn biết tên hai kẻ đến biệt thự của tôi để giết tôi. Và cả tên của kẻ theo dõi khi máy bay tôi cất cánh”.
“Tôi đang nói với ông sự thật! Tên tôi là Sarah Bancroft. Tôi làm việc cho phòng tranh ở Luân Đôn. Tôi bán cho Zizi một bức tranh. Sau đó ông ta mời tôi đến làm việc cho ông ta”.
“Bức Van Gogh à?”
“Đúng vậy!”
“Bức Marguerite Gachet bên bàn trang điểm?”
“Đúng vậy, đồ con hoang”.
“Cô lấy bức tranh này ở đâu? Do chính cô mua được hay do tổ chức tình báo của cô mua?”
“Tôi không làm việc cho tổ chức tình báo nào cả. Tôi làm việc cho Zizi”.
“Cô làm việc cho người Mỹ?”
“Không”.
“Cho người Do Thái?”
“Không!”
Ahmed bin Shafiq thở ra nặng nề, đoạn gỡ kính, dùng chiếc khăn quàng cổ casơmia chùi kính một lúc lâu, khuôn mặt có vẻ đắn đo suy nghĩ. “Cô nên biết rằng không bao lâu sau khi cô rời khỏi Saint Maarten, có bốn người ra phi trường, lên một chiếc máy bay cá nhân. Chúng tôi nhận ra chúng. Chúng tôi đoán bọn chúng bay đến Zurich. Chúng là người Do Thái, phải không Sarah?”
“Tôi không biết ông đang nói gì”.
“Tin tôi đi, Sarah. Chúng là người Do Thái. Ai cũng có thể nhận ra”.
Hắn giơ kính lên nhìn kỹ, sau đó lau tiếp vài lần nữa. “Cô cũng nên biết rằng những tên đồng nghiệp Do Thái ấy đã vụng về theo bước cô đêm nay sau khi cô xuống sân bay. Tài xế của chúng tôi đã dễ dàng cắt đuôi chúng. Cô thấy đấy, chúng tôi cũng hết sức chuyên nghiệp. Bây giờ chúng đã mất dấu cô. Cô chỉ còn một mình”.
Hắn đeo kính vào.
“Cô nghĩ rằng những tên được gọi là chuyên nghiệp mà cô đang làm việc cùng sẽ sẵn lòng hi sinh tính mạng của chúng vì cô sao? Chắc vào giờ này bọn chúng đang ói mửa hết những bí mật ra sàn nhà cho tôi nghe rồi. Nhưng cô khá hơn bọn chúng, đúng không Sarah? Zizi thấy cô khá, nên mới mắc phải sai lầm là đã thuê cô”.
“Đó không phải là sai lầm. Ông mới là người đang phạm sai lầm”.
Hắn cười buồn bã. “Tôi phải trao cô vào tay Muhammad bạn tôi thôi. Anh ta làm cho tôi trong nhóm 205. Cái tên này có quen thuộc với cô không Sarah? Nhóm 205? Chắc chắn những người huấn luyện cô đã nhắc đến tên này trong khóa đào tạo cho cô”.
“Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên này”.
“Muhammad là người chuyên nghiệp. Anh ta cũng là một nhà thẩm vấn rất khôn khéo. Cô và Muhammad sẽ có một cuộc hành trình cùng nhau. Hành trình đêm. Cô có biết thuật ngữ này không Sarah? Cuộc Hành trình đêm”.
Đáp lại, Sarah chỉ khóc nấc. Bin Shafiq bèn trả lời câu hỏi.
“Chính trong cuộc Hành trình đêm này, Chúa trời đã tiết lộ kinh Koran cho nhà Tiên tri. Đêm nay cô cũng sẽ tiết lộ thông tin của mình. Đêm nay cô sẽ khai với anh bạn Muhammad rằng cô đang làm việc cho ai cùng tất cả những gì chúng biết về tổ chức của tôi. Nếu khai nhanh, cô sẽ được hưởng một chút khoan hồng. Nếu tiếp tục nói dối, Muhammad sẽ xẻo thịt cô và cắt đầu cô. Cô hiểu những lời tôi nói không?”
Dạ dày Sarah quặn lên vì một cơn buồn nôn. Bin Shafiq có vẻ thích thú khi nhận ra nỗi sợ hãi của cô.
“Cô có biết là nãy giờ cô cứ nhìn cánh tay tôi không? Bọn chúng đã kể với cô về vết sẹo của tôi, về bàn tay tàn tật của tôi chứ gì?”. Một nụ cười mệt mỏi khác. “Cô đã bị lộ, Sarah – bị chính những người huấn luyện mình làm lộ”.
Hắn mở cửa, trèo khỏi xe, sau đó cúi người xuống nhìn cô một lần nữa.
“Nhân tiện, cô cũng đã gần thành công. Nếu những người bạn của cô giết được tôi trên hòn đảo đó, một vụ tấn công nữa của chúng tôi đã bị ngưng lại”.
“Tôi tưởng ông làm việc cho Zizi ở Montreal”.
“Ồ, đúng rồi, tôi gần như quen mất”. Hắn quấn chặt khăn quàng quanh cổ. “Muhammad sẽ không thấy thích thú vì những lời nói dối của cô đâu Sarah. Có cái gì đó đã mách bảo tôi rằng hai người sẽ có một đêm dài đầy đau đớn cùng nhau”.
Sarah im lặng một lúc. Sau đó, cô cất tiếng hỏi. “Vụ tấn công nào?”
“Vụ tấn công nào? Tôi không biết? Tôi chỉ là một ông chủ ngân hàng đầu tư”.
Cô hỏi hắn một lần nữa. “Vụ tấn công đó là gì? Các người dự định sẽ tiến hành ở đâu?”
“Nói tên thật của tôi đi, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe”.
“Tên ông là Alain al-Nasser”.
“Không, Sarah. Không phải tên vỏ bọc của tôi. Tên thật của tôi cơ. Nói đi. Thú tội đi, Sarah, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe điều cô muốn biết”.
Sarah bắt đầu run lập cập. Cô cố gắng thốt thành lời nhưng không thể lấy đủ can đảm.
“Nói đi!”, hắn hét lên. “Nói tên tao đi, đồ chó cái”.
Cô ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mắt hắn.
“Tên-mày-là-Ahmed-bin-Shafiq!”
Đầu hắn giật ngược lại, tựa như đang tránh một cú đấm. Sau đó, hắn mỉm cười ngưỡng mộ.
“Mày là một phụ nữ rất dũng cảm”.
“Còn mày là thằng sát nhân hèn nhát”.
“Đáng lẽ tao nên tự tay giết mày”.
“Nói tao nghe mày dự định làm gì”.
Hắn do dự một lúc, sau đó mỉm cười ngạo nghễ với cô. “Bọn tao còn vài công việc chưa hoàn tất tại Vatican. Tội ác của bọn Thiên Chúa giáo và thế giới phương Tây đối với người Hồi giáo sẽ được trả thù dứt điểm. Nhưng mày sẽ không còn sống mà chứng kiến chiến thắng vinh quang này. Lúc đó mày đã chết rồi. Hắn nói với Muhammad những điều mày biết. Hãy làm cho những giờ cuối cùng trên trái đất của mày dễ chịu”.
Sau khi nói xong những lời này, hắn quay người bước đi. Tên lính gác vừa kéo Sarah ra khỏi xe vừa bịt miếng khăn tẩm ête lên mũi và miệng cô. Cô cào cấu hắn. Cô giãy giụa. Cô đá được vài cái vào ống chân bọc sắt của hắn. Sau đó, thuốc mê bắt đầu ngấm, và cô thấy mình lảo đảo té xuống đất. Một ai đó đỡ lấy cô. Một ai đó đặt cô vào thùng xe hơi. Một khuôn mặt xuất hiện trong một thời gian ngắn nhìn xuống cô, trông có vẻ tò mò và, lạ lùng thay, rất tha thiết. Khuôn mặt của Muhammad. Sau đó nắp thùng xe đậy lại, và cô chìm vào bóng đêm. Khi xe hơi bắt đầu chuyển bánh, cô bất tỉnh nhân sự.