Chương 30
Hawaii.
Mấy ngày sau là những ngày vui vẻ. Một khoảng lặng yên bình. Khi June xuất hiện cho lần thứ hai, tôi cáo ốm và từ chối lịch sự, June cũng rất tử tế. Cô nàng lấy bút chì bấm trong túi ra ghi số điện thoại của mình vào một mảnh giấy nhỏ cho tôi. Tôi có thể gọi khi nào tôi muốn. Rồi cô nói tạm biệt và đi, hông đung đưa trong ánh hoàng hôn.
Tôi đưa Yuki đến thăm mẹ vài lần. Tôi đi dạo trên bãi biển với Dick North và tắm ở bể bơi của họ. Dick bơi giỏi bất ngờ. Chỉ còn một cánh tay dường như không thể làm nên sự khác biệt. Yuki và mẹ nói chuyện với nhau, còn nói về cái gì thì tôi không biết. Yuki không bao giờ kể với tôi và tôi cũng không bao giờ hỏi.
Một lần. Dick đọc vài bài thơ của Robert Frost cho tôi. Vốn tiếng Anh của tôi không đủ, nhưng Dick chỉ truyền đạt những gì thuộc về thơ ca, tuôn trào theo nhịp điệu và cảm xúc. Tôi cũng được xem vài bức ảnh của Ame, vẫn còn ướt trong phòng rửa ảnh. Chân dung người Hawaii. Chỉ là những bức bức chân dung bình thường, nhưng dưới bàn tay của Ame, chủ thể bỗng trở nên sinh động tràn trề sức sống và duyên dáng. Trong đó có sự trần tục, hung bạo đến lạnh lùng và cả sự quyến rũ. Tràn đầy sức mạnh, nhưng lại rất khiêm nhường. Phải, Ame là một thiên tài.Không giống tôi và cũng không giống anh, đúng như Dick đã nói.
Dick chăm sóc Ame hệt như tôi chăm sóc Yuki. Mặc dù tất nhiên là anh ta chu đáo hơn tôi nhiều. Anh ta lau nhà, giặt quần áo, nấu ăn, đi mua sắm. Anh ta đọc thơ, kể chuyện cười, dập thuốc, mua băng vệ sinh Tampax cho Ame (tôi đã theo Dick đi mua sắm một lần), nhắc nhở Ame cả việc đánh răng, xếp ảnh cho cô, chuẩn bị catalogue tác phẩm của Ame kèm theo lời giới thiệu. Anh ta làm tất cả những việc này chỉ bằng một tay. Tôi không biết liệu người đàn ông khốn khổ này lấy đâu ra thời gian để làm những công việc mang tính sáng tạo của mình nữa. Nhưng tôi là ai để mà nói cơ chứ? Tôi đang đi du lịch rồi qua đêm với một cô gái bằng tiền của bố Yuki.
Vào những ngày không đưa Yuki đến thăm mẹ, chúng tôi đi lướt sóng, bơi, tha thẩn trên bãi biển, đi mua sắm rồi lái xe vòng quanh đảo. Buổi tối, chúng tôi đi dạo, đi xem phim, uốngpina coladavà nước quả. Nếu thích, tôi có thể có rất nhiều thời gian để nấu nướng. Hai chú cháu đã thư giãn và rám nắng đẹp đẽ từ đầu tới tận gót chân. Yuki mua một bộ bikini in hình Hawaii trong một của hàng ở Hilton, mặc bộ đồ đó, trông con bé giống hệt một cô gái địa phương. Con bé lướt sóng khá tốt và có thể bắt được những ngọn sóng cao hơn tôi. Con bé nghe Rolling Stones. Bất cứ khi nào tôi để Yuki một mình trên bãi biển, các chàng trai đều xúm tới bắt chuyện với con bé. Nhưng Yuki không nói một từ tiếng Anh nào, vì vậy nó không gặp khó khăn gì trong việc phớt lờ họ cả. Khi tôi trở lại, họ lúng túng tìm cách lẩn tránh, rồi tỏ vẻ cáu kỉnh.
“Bọn con trai hám gái đến thế cơ à?” Yuki hỏi.
“Phải. Tất nhiên cũng tùy người, nhưng nhìn chung có thể nói rằng đàn ông thèm đàn bà. Cháu biết về tình dục chứ?”
“Biết vừa đủ,” Yuki cộc lốc đáp.
“Đàn ông có khát khao sinh lý và muốn ngủ cùng phụ nữ,” tôi giải thích. “Đó là một điều tự nhiên. Là sự duy trì nòi giống…”
“Cháu không quan tâm đến duy trì nòi giống. Cháu không biết về khoa học hay sinh sản. Cháu muốn biết vềnhu cầu tình dục. Nó như thế nào?”
“Được thôi, giả sử cháu là một con chim,” tôi nói, “và bay là một việc làm cháu thực sự thích thú và vui vẻ. Nhưng hoàn cảnh, trừ vài trường hợp hiếm hoi, ngăn không cho cháu bay. Chú không biết, nhưng cứ cho đó là khi thời tiết xấu, hướng gió, mùa trong năm, những thứ tương tự như thế. Nhưng càng không được bay, cháu lại càng muốn bay và số năng lượng tích tụ trong người khiến cháu không thể chịu đựng được. Cháu sẽ thấy bị dồn nén hay một cảm giác gì đó tương tự như vậy. Cháu thấy khó chịu, và có thể còn cáu giận nữa. Cháu hiểu chứ?”
“Cháu hiểu,” con bé nói, “Cháu hay có cảm giác đó lắm.”
“Phải, đó chính là ham muốn tình dục.”
“Vậy lần cuối cùng chú bay là khi nào? Ý cháu là trước khi bố trả tiền mua cô gái đó cho chú ấy?”
“Cuối tháng trước.”
“Tốt chứ?”
Tôi gật đầu.
“Lúc nào cũng tốt à?”
“Không, không phải lúc nào cũng vậy,” tôi nói. “Kết hợp hai thứ không hoàn hảo lại với nhau thì mọi việc không phải lúc nào cũng ổn. Cháu đang bay rất tốt và dễ dàng, nhưng bất thình lình có một cái cây to trước mặt mà cháu không nhìn thấy trước đó, và rồi…ầm…”
Yuki ngẫm nghĩ về những điều tôi nói. Thử tưởng tượng một con chim đang bay trên cao, nó hoàn toàn không thấy nguy hiểm ngay trước mặt. Đó liệu có phải là một lời giải thích tồi không? Liệu con bé có hiểu sai không? Ôi, chết tiệt, sớm muộn gì nó cũng sẽ hiểu chuyện này thôi mà.
“Cơ hội để có thành công sẽ dần dần tăng lên theo tuổi tác,” tôi tiếp tục giải thích. “Cháu sẽ có được kinh nghiệm, rồi cháu sẽ học cách biết trước thời tiếp và hướng gió. Mặt khác, ham muốn tình dục sẽ giảm dần theo tuổi tác. Thế đấy.”
“Đáng thương hại,” Yuki nói.
“Phải, đáng thương hại.”
Hawaii.
Tôi ở trên hòn đảo này được bao nhiêu ngày rồi? Khái niệm thời gian đã tan biến trong đầu tôi. Hôm nay là tiếp theo của ngày hôm qua, ngày mai tiếp theo của ngày hôm nay. Mặt trời mọc, mặt trời lặn; mặt trăng lên, mặt trăng lặn, thủy triều lên, thủy triều xuống.
Tôi lấy cuốn sổ hẹn để kiểm tra ngày tháng. Chúng tôi đã ở Hawaii mười ngày. Giờ là gần cuối tháng Tư rồi. Tôi định ở đây trong một tuần phải không nhỉ? Hay là một tháng? Những ngày lướt sóng và uốngpina colada. Không tệ trong chừng mực của nó.
Nhưng sao tôi lại có mặt ở đây? Bắt đầu bằng việc tìm kiếm Kiki, ngoại trừ chuyện lúc ấy tôi không biết đó là tên của nàng. Tôi trở lại Sapporo, và kể từ đó, các nhân vật lạ kỳ cứ thay nhau xuất hiện. Và bây giờ, nhìn xem, tôi nằm trong bóng râm dưới tán dừa, đồ uống miền nhiệt đới cầm trên tay và đang nghe Kalapana nữa.
Chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian ấy? Mei bị giết. Cảnh sát lôi tôi vào. Đã có chuyện gì xảy ra trong vụ của Mei? Cảnh sát có phát hiện được cô ấy là ai không? Gotanda thì sao? Cậu ta thế nào rồi? Lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau, trông cậu ta thật chán nản, mệt mỏi, kiệt sức. Và rồi chúng tôi để mọi thứ lỡ dở.
Tôi sắp phải quay lại Nhật rồi. Nhưng thật khó để cất bước chân đầu tiên theo hướng ấy. Hawaii là sự thả lỏng đầu tiên sau bao năm trời căng thẳng – đối với cả Yuki và tôi – và thật ra, chúng tôi cần nó. Ngày này qua ngày khác, tôi gần như không nghĩ gì cả. Chỉ bơi lội, nằm dưới ánh nắng mặt trời cho rám nắng, lái xe chơi quanh đảo, nghe Rolling Stones và Bruce Springsteen, đi dạo trên bãi biển ngập tràn ánh trăng, uống rượu trong các quán bar khách sạn.
Tôi biết không thể tiếp tục mãi thế này. Nhưng bản thân tôi lại không thể tự chuyển mình. Và tôi cũng không thể chịu đựng được khi thấy Yuki trở nên căng thẳng. Thật là một lý do hoàn hảo.
Hai tuần đã trôi qua.
Một hôm, chiều muộn, Yuki và tôi lái xe quanh thành phố Honolulu. Giao thông ở đây thật tệ, nhưng chúng tôi chẳng vội vàng gì, bèn lái xe vòng vòng và ngắm nghía những địa điểm vui chơi dọc hai bên đường. Rạp chiếu phim khiêu dâm, cửa hàng từ thiện, cửa hiệu tạp phẩm Trung Quốc, cửa hàng quần áo Việt Nam, cửa hàng sách và băng đĩa cũ, những ông già chơi cờ bên đường, những gã mắt lờ đò đứng ở góc phố. Honolulu, một thành phố lạ lùng. Đầy những nơi ăn uống rẻ, ngon và thú vị. Nhưng không phải nơi thích hợp cho một cô gái đi bộ một mình.
Ngay bên ngoài trung tâm, gần phía cảng, các khu phố trở nên thưa thớt và kém hấp dẫn hơn. Xuất hiện những tòa nhà công sở, nhà kho và quán cà phê với những tấm biển mất hết chữ, xe buýt đông kín người trở về sau giờ làm.
Đó là lúc Yuki nói muốn xem lại E.T(38).
“Được rồi, sau bữa tối”, tôi nói.
Con bé khen đó là một bộ phim tuyệt vời, và bảo giá như tôi giống E.T thì tốt biết bao, và ấn ngón tay trỏ lên trán tôi.
“Đừng làm vậy,” tôi nói. “Nó không bao giờ lành được đâu.”
Câu đùa đó khiến con bé cười khúc khích.
Và đó là lúc chuyện ấy xảy ra.
Khi ấy, đột nhiên thứ gì đó trong đầu tôi kết nối với nhau bằng một tiếngleng kengthật lớn. Chuyện gì đó đã xảy ra, mặc dù chính tôi không biết nó là cái gì.
Dù vậy, điều đó cũng đủ khiến tôi phanh gấp. Chiếc Camaro đằng sau bóp còi inh ỏi và lúc vượt qua chúng tôi, họ còn ngoác miệng ra chửi không tiếc lời. Tôi đã thấy thứ gì đó, mọi thứ đã nối kết với nhau. Ngay ở đây, ngay lúc này, có điều gì đó vô cùng quan trọng.
“Có chuyện gì vậy?” Yuki hỏi, tôi nghĩ là con bé hỏi thế.
Có lẽ tôi đã không nghe thấy gì cả. Vì trong khoảng khắc đó tôi đã chìm vào suy nghĩ. Tôi chìm vào ý nghĩ rằng tôi vừa nhìn thấynàng. Kiki. Tôi vừa nhìn thấy Kiki – ở trung tâm thành phố Honolulu. Nàng ở đây. Tại sao? Rõ ràng đó là nàng. Tôi đã lái xe ngang qua, đủ gần để với tay chạm vào nàng. Nàng đang đi về hướng ngược lại, ngay bên cạnh chiếc xe.
“Nghe này, đóng tất cả cửa sổ và khóa cửa xa lại. Đừng bước ra ngoài. Và đừng mở cửa xe cho bất cứ ai. Chú sẽ quay lại ngay,” tôi nói và nhảy ra khỏi xe.
“Khoan, đợi đã! Đừng bỏ cháu ở đây!”
Nhưng tôi đã lao lên vỉa hè, đâm vào những người đi đường, gạt họ sang một bên.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tôi không có thời gian để làm người lịch sự. Tôi phải đuổi kịp nàng. Tôi phải ngăn nàng lại, tôi đã tìm thấy nàng. Tôi chạy qua hai khi nhà, rồi ba khu nhà. Và rồi, ngay trước mặt tôi, tôi nhận ra nàng, chiếc váy màu xanh và chiếc túi trắng đu đưa bên mình trong ánh chiều muộn. Nàng đang đi về khu ồn ào náo nhiệt của thành phố. Tôi theo sau, ra đến đường chính, vỉa hè đông người đi lại hơn. Một người phụ nữ to lớn gấp ba lần Yuki có vẻ như không muốn tránh đường cho tôi lắm. Nhưng tôi vẫn đi, cố bắt kịp nàng. Còn Kiki vẫn bước đi. Không nhanh, không chậm, tốc độ vừa phải. Nhưng nàng không hề quay lại phía sau, không liếc mắt nhìn sang hai bên, không dừng lại bắt xe buýt, mà chỉ đi thẳng về phía trước. Tưởng như tôi sẽ đuổi kịp nàng trong nháy mắt, nhưng khoảng cách giữa chúng tôi dường như không bao giờ rút ngắn lại.
Điều tiếp theo tôi biết là nàng rẽ trái ở một góc đường. Tất nhiên là tôi cũng đi theo. Đó là một con phố hẹp, dọc hai bên đường là những văn phòng cũ kỹ, chẳng có điểm gì nổi bật. Không hề còn dấu hiệu nào của nàng nữa. Tôi đứng như trời trồng, thở hổn hển. Gì thế này? Làm sao nàng lại có thể biến mất trước mắt tôi một lần nữa? Nhưng Kiki chưa biến mất. Nàng chỉ bị một chiếc xe giao hàng loại lớn che khuất, vì ngay sau đó nàng lại hiện ra, vẫn bước trên vỉa hè xa xa với nhịp chân đều đặn như thế.
“Kiki,” tôi hét lên.
Hình như nàng đã nghe thấy. Nàng liếc nhanh về phía tôi. Giữa chúng tôi vẫn còn một quãng cách, trời đã tối, và đèn đường thì chưa bật, nhưng chắc chắn đó là Kiki. Tôi chắc chắn về điều đó. Tôibiếtđó là nàng. Và Kiki cũng biết ai đang gọi mình. Thậm chí nàng còn mỉm cười nữa.
Nhưng nàng không dừng lại. Nàng chỉ đưa mắt liếc qua vai. Kiki không giảm nhịp bước. Nàng tiếp tục đi rồi rẽ vào một tòa nhà. Khi tôi tới đó thì đã quá muộn. Không còn ai trong sảnh, và cửa thang máy vừa đóng. Đó là một chiếc thang máy cổ, loại có đĩa quay như cái đồng hồ chỉ thang đang ở tầng nào. Tôi tranh thủ thở dốc, mắt dán vào đĩa quay. Tầng tám. Nàng vừa ra khỏi thang máy ở tầng tám. Tôi nhấn núi gọi thang máy, rồi lại hấp tấp quyết định đi luôn cầu thang bộ.
Cả khu nhà như trống không và yên lặng đầy chết chóc. Đế dép cao su của tôi giậm trên những bậc thang lót vải sơn dội lên những tiếng rầm rầm trên giếng trời đầy bụi.
Tầng tám cũng không có ai khác. Nhìn quanh không một bóng người. Tôi nhìn sang phải, rồi sang trái song không thấy bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Tôi đi dọc hành lăng và dọc những tấm biển trên mỗi phòng, chừng bảy tám phòng gì đó. Một công ty thương mại, một văn phòng luật, một phòng khám nha khoa… Không có chỗ nào còn hoạt động, những tấm biển cũ kỹ và mờ nhạt. Những văn phòng tầm thường trong một tầng nhà tầm thường của một khu nhà tầm thường trên một con phố tầm thường. Tôi quay lại và một lần nữa kiểm tra những tấm biển trên các cánh cửa. Dường như chẳng có gì liên hệ với Kiki; không cái gì có ý nghĩa cả. Tôi căng tai ra nghe, nhưng khu nhà im ắng như một đống đổ nát.
Rồi có tiếng động. Tiếng gót giày, giày cao gót. Tiếng động vang vang trên trần nhà, như đang phải chịu một sức nặng… một sức nặng khô khan của ký ức. Đột nhiên, tôi như đang đi qua phần nội tạng rối ren của một sinh vật khổng lồ. Đã chết từ lâu, đã nứt rạn, đã bị xói mòn. Vượt ra ngoài hiện thực, vượt trên cả lý trí của con người, tôi đã vượt qua một lỗ hổng thời gian và bước vào… cái thứ này.
Tiếng gót giày cao gót tiếp tục vang lên, rất to, rất nặng tới mức thật khó xác định được nó đến từ hướng nào. Nhưng nghe kỹ, tôi lần theo tiếng bước chân, rẽ phải tới phía cuối hành lang. Tôi đi nhanh nhưng không gây tiếng động tới cảnh cửa xa nhất. Tiếng bước chân đó, tiếng gót giày dận xuống sàn đó trở lên mơ hồ, xa vời, nhưng đúng là nó ở đây, phía sau cánh cửa này. Một cánh cửa không có biển tên. Nó làm tôi mất hết tự tin. Chỉ cách đây một phút, tôi đã kiểm tra và cánh cửa nào cũng có biển tên cơ mà.
Hay đây là một giấc mơ? Không thể nào, một giấc mơ không thể liên tục như thế này. Tất cả các chi tiết đều theo một trình tự hoàn hảo. Tôi đang ở trung tâm thành phố Honolulu, đuổi theo Kiki tới đây. Có gì đó rất lạ, nhưng nó là sự thật.
Tôi gõ cửa.
Tiếng bước chân dừng lại, âm thanh cuối cùng bị hút lên không trung. Sự tĩnh lặng ngập tràn không gian.
Tôi đứng đợi ba mươi giây. Không có gì xảy ra. Tôi cố xoay quả đấm trên cánh cửa. Một tiếng kêu kèn kẹt, chầm chậm, và rồi cửa mở vào trong. Trong phòng là một màn tối đen hòa với màu xanh ảm đạm của ngày tàn. Loáng thoáng có mùi lau sàn nhà. Căn phòng trống không, chỉ có vài tờ báo cũ vứt lung tung trên sàn.
Lại tiếng bước chân. Chính xác là bốn bước, sau đó là tĩnh lặng.
Hình như âm thanh đến từ một nơi nào đó xa hơn. Tôi bước lại gần cửa sổ và phát hiện ra có một cánh cửa khác bên hông căn phòng. Nó dẫn đến một cầu thang đi lên trên. Tôi nắm chặt tay vịn bằng kim loại lạnh lẽo, ướm thử bước chân, rồi chầm chậm leo lên một nơi dày đặc bóng tối. Bậc thang rất dốc. Tôi tưởng tượng có thể nghe thấy cả những âm thanh từ trên cao. Hết cầu thang. Tôi mò mẫm tìm công tắc đèn, nhưng không có cái nào cả. Thay vào đó, tay tôi lần ra một cánh cửa khác.
Cánh cửa này mở ra một không gian mà theo tôi cảm nhận là khá lớn, có thể là gác mái. Không hoàn toàn tối đen như chỗ cầu thang, nhưng không đủ ánh sáng để nhìn thấy cái gì. Chỉ có ánh sáng mờ nhạt hắt lên từ những ngọn đèn đường phía dưới qua một ô cửa sổ trên mái nhà. Tôi bám chặt vào quả đấm cửa.
“Kiki!” tôi hét lên.
Không có ai trả lời.
Tôi vẫn đứng đó, chờ đợi, không biết phải làm gì. Thời gian bốc hơi. Tôi nhìn chăm chú vào trong bóng tối, tai vểnh lên. Chầm chậm, không rõ lắm, ánh sáng trong căn phòng như xuất hiện nhiều hơn. Ánh trăng? Ánh đèn thành phố? Tôi thận trọng tiến về phía trước tới trung tâm của khoảng không.
“Kiki!” tôi lại hét gọi tên nàng.
Không ai trả lời.
Tôi chậm rãi đi xung quanh, căng mắt quan sát những gì có thể. Những đồ nội thất lạ thường xếp ở các góc phòng. Cái bóng xám kia có lẽ là ghế sofa, ghế đẩu, bàn hay cái tủ. Kỳ lạ, thật kỳ lạ. Cảnh này như được bố trí bằng máy ly tâm, siêu thực, mà lại rất thực. Ý tôi muốn nói rằng đồ nội thất ở đây trông rấtthật.
Trên ghế sofa là một thể màu trắng. Một tờ giấy à? Hay cái túi trắng mà Yuki đang đeo. Tôi lại gần hơn và thấy rằng nó là một cái gì đó rất khác.
Cái gì đó như là những khúc xương.
Hai bộ xương người ngồi cạnh nhau trên ghế sofa. Hai bộ xương người hoàn chỉnh, một lớn, một nhỏ hơn, đang ngồi cạnh nhau chính xác như người sống. Bộ xương lớn hơn đặt một tay lên lưng tựa sofa. Bộ xương nhỏ hơn hai tay đặt ngay ngắn trên đùi. Như người chết đột ngột, trước khi kịp biết bị tấn công bởi cái gì, rồi da thịt tiêu tan, nhưng tư thế ngồi vẫn không hề suy suyển. Dường như họ đang cười. Đang cười, và trắng đến lạ lùng.
Tôi không thấy sợ. Tại sao, tôi hoàn toàn không hiểu, nhưng tôi rất bình tĩnh. Mọi thứ trong căn phòng này quá tĩnh lặng, nhưng bộ xương sạch và lặng lẽ. Hai bộ xương đã chết, chết hoàn toàn và không thể thay đổi được gì. Không có gì phải sợ cả.
Tôi chậm rãi đi quanh phòng. Tất cả có sáu bộ xương người. Tất cả đều hoàn chỉnh, chỉ trừ một cái. Tất cả đều ngồi trong tư thế tự nhiên. Một người đàn ông (ít nhất qua vóc dáng tôi đoán đó là một người đàn ông) đang chăm chú xem tivi. Một người khác đang khom người qua bàn ăn đầy bát đĩa, đồ ăn giờ chỉ là bụi. Vẫn còn một bộ xương nữa, bộ duy nhất không hoàn chỉnh, đang nằm trên giường. Cánh tay trái từ chỗ bả vai trở xuống không còn.
Tôi nhắm nghiền mắt lại.
Cái quái gì thế này? Kiki, em đang cố gắng cho tôi thấy điều gì vậy?
Lại một lần nữa, tôi nghe tiếng bước chân. Từ một căn phòng khác, nhưng ở hướng nào? Dường như không thể định vị được. Với những gì tôi có thể nhìn thấy, căn phòng này là chỗ cuối cùng. Không còn đường ra nào khác nữa. Tiếng bước chân tiếp tục, rồi biến mất. Sự im lặng còn phảng phất lại bỗng trở nên nặng nề tới mức ngột ngạt. Tôi lấy tay lau mồ hôi trên mặt. Kiki lại biến mất một lần nữa.
Tôi đi ra theo lối đã bước vào. Cái liếc cuối cùng: sáu bộ xương người mờ trong bóng tối buồn thảm. Dường như họ sẵn sàng đứng dậy và đi lại ngay sau khi tôi đi khỏi. Họ sẽ bật ti vi và hâm nóng đồ ăn. Tôi đóng cánh cửa nhẹ nhàng để không làm phiền, rồi xuống cầu thang trở lại gian phòng trống rỗng. Vẫn thế, không một bóng người, báo cũ vứt lung tung trên sàn. Đèn đường đã sáng hơn; xe tải vẫn đậu trên con đường hẹp. Mặt trời đã hoàn toàn khuất bóng. Không có ai trong tầm nhìn.
Khi tựa vào bậu cửa sổ ám bụi, tôi thấy một mảnh giấy nhỏ bằng một tấm danh thiếp. Tôi nhặt lên và đọc cẩn thận. Trên đó có một số điện thoại. Mảnh giấy vẫn còn mới, nét mực chưa mờ. Thật đáng tò mò. Tôi đút vào túi và đi ra hành lang.
Tôi thử cố tìm người quản lý khu nhà để hỏi về văn phòng, nhưng tôi chợt nhớ tới Yuki đang mắc kẹt trong xe, ở một khu không an toàn của thành phố. Tôi đã bỏ con bé một mình bao lâu rồi? Hai mươi phút? Hay một tiếng? Chiều dần tối thẫm.
Khi trở lại ô tô, Yuki đang mê man, mặt vùi xuống ghế, đài vẫn mở. Tôi gõ cửa kính, con bé mở cửa.
“Chú xin lỗi,” tôi nói với thái độ long trọng.
“Đủ mọi loại người quái đản đến. Họ la hét, đập mạnh lên kính chắn gió và lắc xe nữa,” con bé kể, gần như đờ đẫn. “Cháu sợ không còn biết gì nữa.”
“Chú rất xin lỗi.”
Yuki nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi đôi mắt nó trở lên lạnh giá. Đồng tử không còn thần sắc, nét mặt run rẩy như mặt hồ bị một chiếc lá rơi làm gợn sóng. Môi con bé ngẹn ngào không thành tiếng.Chú đã đi vào cái nơi quái quỷ nào vậy?
“Chú không biết,” giọng tôi vang lên từ một nơi nào đó rồi mờ dần vào khoảng không xa xa giống như những bước chân vang vang kia vậy. Tôi móc túi lấy một chiếc khăn tay rồi chậm chạp lau mồ hôi trên trán. “Chú không biết.”
Yuki nheo mắt và chạm tay lên má tôi. Những ngón tay của con bé mềm và mịn. Con bé hít hít không khí xung quanh tôi, chiếc mũi nhỏ bé của nó khẽ phồng lên. Nó nhìn tôi lâu hơn. “Chú đã thấy gì phải không?”
Tôi gật đầu.
“Nhưng chú không thể nói nó là cái gì. Chú không diễn tả bằng lời được. Không thể giải thích với bất kỳ ai. Cháu hiểu điều đó.” Con bé ngả người, lướt má nó qua má tôi. “Thật đáng thương,” Yuki nói.
“Thế nào?” Tôi hỏi và cười lớn. Chẳng có lý do gì để cười cả, nhưng tôi không thể nhịn được. “Xét toàn diện, chú là người đàn ông bình thường nhất mà cháu có thể tìm được. Vậy tại sao những điều kỳ lạ này lại cứ xảy xa với chú nhỉ?”
“Phải, tại sao nhỉ?” Yuki nói. “Đừng nhìn cháu. Cháu chỉ là một đứa trẻ. Ở đây chú là người lớn cơ mà.”
“Đúng thật.”
“Nhưng cháu hiểu chú đang cảm thấy thế nào mà.”
“Chú không hiểu.”
“Vào những lúc như thế này, người lớn cần uống thứ gì đó.”
Chúng tôi đi tới quán Halekulai. Quán trong nhà, không phải kiểu bên hồ. Lần này tôi gọi một ly martini, Yuki gọi một ly soda chanh. Chúng tôi là những người khách duy nhất ở đây. Một người chơi piano hói đầu, có ánh nhìn của Rachmaninoft(39)đang ngồi trên chiếc piano cánh lớn, lướt qua những tác phẩm kinh điển “Stardust”, “But Not for Me”, “Moonlight in Vermont.” Kỹ thuật hoàn hảo, nhưng vô hồn. Rồi ông ta kết thúc bằng một khúc dạo nghiêm trang của Chopin. Yuki vỗ tay, và người chơi đàn piano rặn ra một nụ cười.
Uống tới ly martini thứ ba, tôi nhắm mắt lại và căn phòng đó lại tràn vào tâm trí. Cảnh tượng khiến tôi có cảm giác như vừa ngủ dậy thấy mình ướt đẫm mồ hôi rồi nhận ra rằng chỉ là một giấc mơ. Nhưng lần này không phải là một giấc mơ. Tôi biết và Yuki cũng biết. Con bé biết tôi đãthấymột cái gì đó. Sáu bộ xương người. Điều này có nghĩa là gì? Họ là ai? Bộ xương người mất một cánh tay có phải ám chỉ Dick North không?
Kiki đang cố nói với tôi điều gì?
Tôi nhớ đến mảnh giấy trong túi, mảnh giấy mà tôi đã tìm thấy trên bậu cửa sổ. Tôi đi ra phía điện thoại và quay số. Không ai trả lời. Chỉ có tiếng chuông reo không dứt, giống như những hòn rọi bằng chì treo trong sự lãng quên vô tận. Tôi quay lại chỗ ngồi và thở dài. “Chú đang định ngày mai sẽ về Nhật. Nếu đặt được vé,” tôi nói. “Chú đã ở đây khá lâu rồi. Ở đây rất tuyệt, nhưng đã đến lúc phải quay về. Chú còn nhiều việc phải giải quyết ở nhà.”
Yuki gật đầu, như thể con bé hiểu tất cả. “Được thôi, chú đừng lo về cháu. Cứ về nếu chú nghĩ là nên làm thế.”
“Cháu định thế nào? Vẫn ở đây à? Hay là về với chú?”
Yuki nhún vai, “Cháu nghĩ sẽ ở lại với mẹ thêm một thời gian nữa. Cháu đoán bà ấy sẽ không thấy phiền gì. Cháu chưa sẵn sàng quay về.”
Tôi uống nốt ly martini cuối cùng.
“Vậy chúng ta sẽ làm thế này. Ngày mai chú sẽ chở cháu tới Makaha. Chú gặp mẹ cháu một lần nữa. Và sau đó chú sẽ tới sân bay.”
Tối hôm đó chúng tôi ăn bữa tối cuối cùng với nhau tại một nhà hàng hải sản gần tháp Aloha. Yuki không nói nhiều, tôi cũng vậy. Chắc chắn đã có lúc tôi ngủ gật, miệng ngậm đầy hàu chiên, rồi biến thành một trong những bộ xương trên gác mái. Yuki liếc nhìn tôi đầy ẩn ý trong suốt bữa ăn. Sau khi ăn xong, con bé nói: “Tốt hơn là chú nên về nhà ngủ. Trông chú thật tệ.”
Quay về phòng, tôi uống thêm một chút rượu và bật ti vi. Đội Yankee với đội Oriole. Tôi không thích xem bóng chày, nhưng vẫn cứ để đấy. Đó là một kênh liên kết với thực tại.
Rượu đã có tác dụng. Tôi thấy buồn ngủ. Rồi tôi lại nhớ tới mảnh giấy trong túi và thử liên lạc lại. Một lần nữa không có ai nhấc máy. Tôi đã để điện thoại kêu mười lăm tiếng. Liếc mắt qua ti vi, tôi thấy Winfield bước vào vị trí người đánh bóng, và lại có cái gì đó thoáng hiện lên trong tâm trí tôi.
Cái gì vậy? Mắt tôi dán vào màn hình.
Có cái gì đó tương đồng với nhau. Có cái gì đó đã kết nối với một cái khác.
Ôi, không thể thế được. Nhưng cái quái gì thế này, thử xem nào. Tôi cầm mảnh giấu kia và đi lấy tập giấy mà June đã ghi lại số điện thoại của cô cho tôi. Tôi so sánh con số với nhau.
Trời ơi. Chúng là một.
Mọi thứ đã được kết nối rồi. Chỉ trừ việc tôi không hiểu được những đầu mối đó có ý nghĩa gì.
Sáng hôm sau tôi gọi tới hãng hàng không Nhật Bản đặt một chuyến bay vào buổi chiều. Tôi thanh toán, rồi cùng Yuki tới Makaha. Đây là lần đầu tiên bầu trời trở nên u ám. Một cơn bão rình rập nơi chân trời.
“Nghe cứ như có con Pacman đang gặm nhấm trái tim chú ấy,” Yuki nói. “bip-bip-bip-bip-bip-bip-bip-bip.”
“Chú không hiểu.”
“Có thứ gì đó đang ăn mòn chú.”
Vừa lái xe tôi vừa nghĩ về điều đó. “Có lúc chú cảm nhận được bóng của cái chết,” tôi bắt đầu. “Đó là một cái bóng dày đặc. Giống như cái chết đang ở rất gần, bao bọc lấy chú, giữ chặt mắt cá chân chú lại. Như thể nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng nó không khiến chú sợ. Bởi vì chưa bao giờ nó thể hiện cái chết của chú cả. Lúc nào cũng là cái chết của người khác. Cứ như vậy, mỗi lần ai đó chết nó lại làmchúsuy sụp. Tại sao thế nhỉ?”
Yuki nhún vai.
“Cái chết luôn luôn rình rập quanh chú, chú không biết tại sao. Và chỉ cần có một đoạn mào đầu nhỏ nhấy, nó liền hiện hình ngay lập tức.”
“Có thể đó là chiếc chìa khóa của chú. Có lẽ cái chết chính là sự liên kết của chú với thế giới này,” Yuki nói.
“Điều này chẳng hay ho gì,” tôi nói.
Dường như Dick North thực sự buồn khi biết tôi phải đi. Không phải vì chúng tôi có nhiều điểm chung, mà vì chúng tôi cảm thấy rất thoải mái khi nói chuyện với nhau. Và tôi rất quý trọng Dick vì ý thơ mà anh đem tới cho cái thế giới đầy những lo toan vật chất này. Chúng tôi bắt tay nhau. Và đúng lúc đó, hình ảnh bộ xương người với một cánh tay lại hiện lên trong tôi. Liệu đó có phải là người đàn ông này không?
“Dick, đã bao giờ anh nghĩ về cái chết chưa? Anh sẽ chết như thế nào chẳng hạn?” tôi hỏi khi ngồi trò chuyện với Dick lần cuối.
Anh mỉm cười. “Tôi đã nghĩ về cái chết rất nhiều lần trong chiến tranh. Cái chết ở khắp xung quanh, có quá nhiều cách để anh bị giết. Nhưng sau đó thì không. Tôi không có thời gian để lo lắng về những việc mình không kiểm soát được. Trong thời bình tôi bận rộn hơn thời chiến,” anh cười lớn. “Điều gì khiến anh hỏi vậy?”
“Không có lý do gì cả,” tôi trả lời.
“Tôi sẽ nghĩ về điều này. Lần sau chúng ta sẽ nói nhé,” Dick nói.
Rồi Ame mời tôi đi dạo cùng, hai chúng tôi đi dọc đường chạy bộ.
“Cám ơn anh về tất cả,” Ame nói, “Tôi thực sự muốn nói vậy. Tôi không giỏi nói những điều thế này. Nhưng – ừm – tôi thực sự muốn cám ơn anh. Anh đã giúp ọi chuyện trôi chảy. Yuki và tôi đã có thể nói chuyện với nhau. Chúng tôi đã gần gũi hơn. Và bây giờ con bé sẽ tới đây ở cùng tôi.”
“Điều đó thật tuyệt,” tôi nói. Tôi không nghĩ ra được câu nào bớt sáo rỗng để nói. Tất nhiên là Ame hiếm khi để ý nghe tôi nói gì rồi.
“Con bé dường như đã điềm đạm hơn đáng kể từ khi gặp anh. Nó không cáu kỉnh và căng thẳng nữa. Tôi không biết anh đã làm gì, nhưng chắc chắn anh đã có một phương pháp nào đó. Anh và con bé có điểm gì chung à?”
Tôi cam đoan rằng tôi không biết gì cả.
Tôi nghĩ về chuyện học hành của Yuki.
“Nếu con bé không thích đến trường, có lẽ chị nên nghĩ cách nào đó thay thế,” tôi nói. “Đôi khi bắt trẻ con tới trường là không tốt, đặc biết đối với một đứa trẻ quá ư nhạy cảm và thu hút nhiều sự chú ý hơn là nó thích như Yuki. Gia sư có thể là một gợi ý. Tôi nghĩ Yuki không thể chịu được những đợt học nhồi nhét mỗi kỳ thi chuyển cấp, những cuộc thi ngớ ngẩn, áp lực từ phía bạn bè, quy tắc và các hoạt động ngoại khóa. Một số người đã rất thành công mà không cần có những thứ đó. Tôi biết mình đang lý tưởng hóa vấn đề, nhưng điều quan trọng là Yuki có thể nhận ra khả năng của mình và có cơ hội để được bồi dưỡng. Có thể con bé sẽ quyết định quay trở lại trường. Thế cũng tốt, nếu đó là quyết định của nó.”
“Tôi nghĩ là anh đúng,” Ame nói sau một hồi suy nghĩ. “Tôi cũng không phải loại người thích tụ tập, cũng không bao giờ theo kịp được với trường học, vì vậy tôi nghĩ mình có thể hiểu được những điều anh đang nói.”
“Nếu chị đã hiểu thì còn gì phải nghĩ nữa. Vấn đề là ở đâu?”
Chị lắc đầu, từ bên này sang bên kia cho đỡ mỏi cổ.
“Ý tôi là không có vấn đề gì cả, vấn đề duy nhất chính bản thân tôi còn không có niềm tin vững chắc của một người mẹ. Thế nên tôi không thể quyết đoán thay Yuki được. Nếu thiếu niềm tin, anh sẽ đầu hàng. Trong thâm tâm anh sẽ luôn lo lắng rằng xét về mặt xã hội, không cho con tới trường là một điều sai trái.”
Xét về mặt xã hội là sai trái?”Tôi không thể khẳng định được điều gì, nhưng ai mà biết được thế nào là sai, thế nào là đúng? Không ai có thể biết trước được tương lai. Kết quả có lẽ sẽ rất tệ hại. Nhưng cũng có thể xảy ra theo hướng kia. Tôi nghĩ nếu chị thể hiện với con bé rằng chị thực sự cố gắng – với tư cách là một người mẹ hay một người bạn – để làm cho mọi việc của con bé trở nên tốt đẹp, và nếu chị thể hiện sự tôn trọng của mình với con bé, khi con bé đủ sắc sảo để tiếp nhận và có thể tự lập được trong suốt quãng đời còn lại của mình.”
Ame đứng lên, tay đút túi quần soóc và im lặng. Rồi chị nói: “Anh thực sự hiểu nó nghĩ gì nhỉ? Tại sao thế?”
Bởi vì tôi không thường xuyên để đầu óc trên mây, tôi muốn nói với chị như thế. Nhưng tôi không nói.
Rồi Ame nói muốn đưa tôi một thứ gì đó để thể hiện lòng cảm kích đối với tôi. Tôi nói với Ame đã nhận quá nhiều từ người chồng cũ của chị rồi.
“Nhưngtôimuốn. Ông ấy là ông ấy, còn tôi là tôi. Vàtôimuốn cám ơn anh. Nếu không làm ngay bây giờ, tôi sẽ quên mất”.
“Tôi sẽ rất vui nếu chị quên,” tôi đùa.
Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế dài. Ame móc bao Salem trong túi áo sơ mi ra. Châm lửa, hít vào, rồi thở ra. Rồi để điếu thuốc thành tro tàn giữa những ngón tay.
Trong khi đó, tôi lắng nghe tiếng chim hót và xem những người làm vườn đi quanh quanh trên những chiếc xe nhỏ. Bầu trời bắt đầu tươi sáng, dù loáng thoáng có tiếng sấm xa xa. Ánh mặt trời chói chang đã chọc thủng màn mây dày đặc xám xịt. Đeo kính râm và mặc áo cộc tay, Ame dường như quên hẳn đi ánh nắng và cái nóng, mặc dù vài vệt mồ hôi vẫn chảy dài trên cổ áo. Có lẽ đó không phải là do mặt trời. Có thể vì chị đang tập trung hay phân tán tinh thần quá mức cũng nên. Mười phút đã trôi quan, dường như thời gian không phải là một điều gì thiết thực trong cuộc sống. Hay nếu có đi chăng nữa, nó cũng không được xếp hạng cao trong dang sách ưu tiên của Ame. Khác hẳn với tôi. Tôi còn có một chuyến bay.
“Tôi phải đi rồi,” tôi nói và liếc đồng hồ. “Tôi phải trả xe trước khi làm thủ tục lên máy bay.”
Ame rất cố gắng để hướng ánh mắt nhìn tôi. Tôi thường xuyên bắt gặp ánh mắt này ở Yuki. Đúng là mẹ nào con nấy. “Ồ, đến giờ rồi, tôi không để ý,” Ame nói. “Tôi xin lỗi”.
Chúng tôi đứng lên và đi bộ quay trở về nhà.
Tất cả cùng bước ra ngoài để tiễn tôi. Tôi dặn Yuki nên bớt ăn đồ ăn nhanh, nhưng gợi ý Dick North quan tâm chuyện đó. Khi xe chuyển bánh, nhìn qua gương chiếu hậu ,tôi thấy ba người đứng đó tạo thành một bức tranh kỳ lạ. Dick giơ tay cao vẫy vẫy; Ame thất thần nhìn về phía trước, khoanh chéo tay trước ngực; Yuki nhìn xuống bên đường đá đá một viên sỏi. Những tàn dư của một gia đình trong một góc tam của vũ trụ không hoàn chỉnh. Không hiểu sao tôi lại liên can tới họ nữa? Tôi rẽ trái và họ dần khuất khỏi tầm nhìn. Lâu lắm rồi, đây là lần đầu tiên tôi chỉ có một mình.