Những Đứa Con Của Nửa Đêm

Chương 28: Đám cưới


Tôi kết hôn với Parvati-phù-thủy vào 23 tháng Hai năm 1975, đúng vào dịp kỷ niệm hai năm ngày tôi, kẻ bị ruồng bỏ, trở lại ghetto của giới ảo thuật.

Người Padma đờ ra, căng như dây phơi, bông sen-phân của tôi chất vấn: “Kết hôn? Nhưng mới đêm qua ông còn bảo, mình sẽ không – mà sao bao ngày bao tuần bao tháng qua ông không cho em biết…?”

Tôi buồn bã nhìn cô, và nhắc cô rằng tôi từng đề cập đến cái chết của Parvati tội nghiệp, một cái chết phi tự nhiên…

Padma từ từ xẹp xuống, khi tôi tiếp tục: “Đàn bà tạo ra tôi, và cũng hủy hoại tôi. Từ Mẹ Bề trên đến mụ Góa phụ, và thậm chí cả sau này, vận mệnh của tôi luôn do những đối tượng được gọi (một cách sai lầm, theo ý tôi) là phái yếu định đoạt. Đây, có lẽ, cũng là câu chuyện về sự liên kết: Mẹ Ấn Độ, Bharat-Mata, chẳng phải vẫn thường được nhân cách hóa thành phụ nữ đấy sao? Và, quý vị đều biết, không thể nào trốn thoát khỏi Người.”

Có ba mươi hai năm, trong câu chuyện này, là lúc tôi chưa ra đời. Chẳng bao lâu nữa, tôi có thể sẽ hoàn thành năm thứ ba mươi mốt của đời tôi. Trong sáu mươi ba năm ấy, trước và sau nửa đêm, đàn bà đã đem đến những điều tốt đẹp nhất, và cả, tôi buộc phải nói rằng, tồi tệ nhất.

Trong ngôi nhà bên hồ của một lão chúa đất mù xứ Kashmir, Naseem Aziz đã kết án tôi phải chung thân gắn bó với những tấm vải khoét lỗ. Và cũng trên mặt hồ ấy, Ilse Lubin đả rỉ vào lịch sử, và tôi vẫn chưa quên di nguyện của cô.

Trước khi Nadir Khan trốn xuống thế giới ngầm, bà tôi đã, bằng việc trở thành Mẹ Bề trên, mở đầu một chuỗi những người đàn bà sẽ thay tên đổi họ, điều tiếp tục đến tận ngày nay. Và thậm chí, rỉ sang cả Nadir, người biến thành Qasim, và ngồi trong quán café Pioneer với đôi bàn tay nhảy múa. Và sau khi Nadir bỏ đi, mẹ tôi Mumtaz Aziz trở thành Amina Sinai.

Và Alia, với niềm cay đắng của tuổi tác, người bọc tôi trong những quần áo trẻ em thấm đẫm lòng oán hận gái già. Và Emerald, người bày bàn ăn cho tôi thực hiện cuộc hành quân của lọ gia vị.

Và Quận chúa xứ Cooch Naheen, người, bằng việc tài trợ cho một người đàn ông ngân nga, đã khai sinh ra dịch bệnh lạc quan, căn bệnh, từ đó, cứ cách một thời gian lại bùng phát. Và, ở khu đạo Hồi của Delhi Cũ, một bà cô họ xa tên gọi Zohra, mà nết lả lơi đã gieo mầm, trong cha tôi, cho điểm yếu sau này của ông với những ả Fernanda và Flory.

Rồi đến Bombay. Nơi Vanita của Winkie không thể cưỡng lại cái ngôi giữa của William Methwold, còn Nussie-vịt-bầu thất bại trong cuộc-đua-đẻ. Trong khi Mary Pereira, nhân danh tình yêu, đã tráo hai chiếc thẻ tên của lịch sử và trở thành người mẹ thứ hai của tôi…

Đàn bà và đàn bà và đàn bà: Toxy Catrack, người đẩy hé cánh cửa sau này sẽ rộng mở đón lũ trẻ của nửa đêm. Bi-Appah bà bảo mẫu đáng sợ của con nhỏ, cuộc tranh giành yêu thương giữa Amina và Mary, và thứ mẹ tôi đã phô ra trước mắt tôi khi tôi nấp trong tủ giặt. Phải, Trái Xoài Đen, thứ buộc tôi khịt mạnh, và giải phóng thứ-không-phải-Tổng-Thiên-thần!… Và Evelyn Lilith Burns, căn nguyên của vụ tai nạn xe đạp, người đẩy tôi từ ngọn đồi hai tầng lao xuống vòng xoáy của lịch sử.

Và con Khỉ. Tôi không được phép quên con Khỉ.

Và còn nữa, còn nữa, còn Masha Miovic, người khích tôi đến chỗ cụt-ngón-tay, và mợ Pia, làm tim tôi tràn ngập dục-vọng-báo-thù. Và Lila Sabarmati, mà sự thiếu đoan chính đã cho tôi cơ hội thực hiện đòn báo thù khủng khiếp, thao túng kẻ khác, cắt-từ-báo-ra của mình.

Và Bà Dubash, người tìm thấy món quà truyện tranh Siêu nhân của tôi và xây nó, với sự hỗ trợ của con trai, thành Đức Khusro Khusrovand.

Và Mary, nhìn thấy hồn ma.

Tại Pakistan, xứ sở của phục tùng, quê hương của thuần khiết, tôi chứng kiến quá trình hóa thân của Khỉ-thành-Ca-sĩ, và đi mua bánh mì, và đem lòng yêu, cũng là một người đàn bà, Tai Bibi, cho tôi biết sự thật về bản thân mình. Trong sâu thẳm của bóng tối nội tâm, tôi quay sang các Puffia, và thoát khỏi hiểm họa cô dâu có bộ răng vàng chỉ trong gang tấc.

Tái sinh thành buddha, tôi ngủ với một con nhỏ dọn nhà xí, và kết quả là nếm mùi hố xí dẫn điện. Ở Cánh Đồng, một chị nông dân quyến rũ tôi, và hệ quả là Thời Gian bị sát hại. Rồi xuất hiện các houri trong một ngôi đền, và chúng tôi thoát thân vừa kịp lúc.

Dưới bóng một thánh đường, Resham Bibi đưa ra lời cảnh báo.

Và tôi kết hôn với Parvati-phù-thủy.

“Ôi, ông ơi,” Padma cảm thán, “nhiều đàn bà quá thể!”

Tôi không phản đối, vì tôi còn chưa tính cả cô, chủ nhân của những giấc mơ về hôn nhân, và Kashmir đã bắt đầu rỉ sang tôi và làm tôi ao ước. Giá như, giá như, khiến tôi, đã từng xuôi tay cam phận trước những vết nứt, giờ đây lại bị những cơn đau nhói của bất mãn, giận dữ, sợ hãi và nuối tiếc giày vò.

Nhưng trên hết, là mụ Góa phụ.

“Em xin thề!” Padma vỗ đùi, “Quá nhiều, ông ạ, quá nhiều.”

Chúng ta nên hiểu về quá-nhiều-đàn-bà của tôi ra sao? Như nhiều gương mặt của Bharat-Mata? Hay còn hơn như thế…Như trạng thái động của maya, như năng lượng vũ trụ, tượng trưng là cơ quan sinh dục nữ?

Maya, ở trạng thái động, được gọi là Shakti. Có lẽ, không phải ngẫu nhiên mà trong thê giới thần linh Hindu, năng lượng hoạt động của một vị thần được tích tụ trong vợ của vị thần ấy! Maya-Shakti sinh ra, đồng thời “bao bọc ý thức trong lưới-mộng củỉ mình”.

Quá-nhiều-đàn-bà: phải chăng họ đều là hình tượng của Devi, vị Nữ thần – cũng là Shakti, người hạ sát con trâu yêu quái, người đánh bại quái vật Mahisha[1], và đồng thời là Kali Durga Chandi Chamunda Uma Sati và Parvati[2]…và người, ở trạng thái động, được tô màu đỏ?

[1] Mahisha là một ác thần (atula) có thể hóa thành người hay trâu tùy ý. Theo truyền thuyết, nữ thần Durga đã chiến đấu với Mahisha và giết chết y sau mười ngày giao tranh.

[2] Devi là Đại nữ thần, đại diện cho giống cái của thần. Mỗi nam thần trong Ấn Độ giáo có một nữ thần tương ứng (tức Shakti). Ví dụ Shakti của Vishnu là Lakshmi, Shakti của Shiva là Parvati. Ở đây Kali, Durga Chandi, Chamunda, Uma, Sati và Parvati đều là Shakti, tức là các hình tướng khác nhau của Devi.

“Em chả biết mấy cái đó” Padma kéo tôi trở lại mặt đất, “Ai cũng là đàn bà cả, thế thôi.”

Hạ xuống từ đôi cánh của trí tưởng tượng, tôi được nhắc nhở về sự quan trọng của tốc độ. Bị sự cấp bách của những rách nứt rạn thôi thúc, tôi chấm dứt mọi suy tưởng, và bắt đầu.

Chuyện xảy ra như thế này: Parvati đã tự mình định đoạt số phận, một lời nói dối, thốt ra từ môi tôi, đã đẩy cô vào chỗ tuyệt vọng. Trong tâm trạng ấy, một đêm, cô rút trong manh áo tả tơi ra một lọn tóc anh hùng, và bắt đầu lầm rầm niệm chú.

Bị Saleem ruồng rẫy, Parvati nhớ tới kẻ thù không đội trời chung một thời của gã. Và, tay cầm một que tre bảy đốt, một đầu gắn chiếc móc sắt tự chế, cô ngồi xổm trong lều và niệm chú. Móc câu của Indra trên tay phải, một lọn tóc trên tay trái, cô triệu hắn đến bên cô. Parvati gọi Shiva, tin hay không thì tùy, nhưng Shiva đã đến.

Ngay từ đầu đã luôn có đầu gối và mũi, mũi và đầu gối, nhưng suốt quá trình kể chuyện, tôi không ngừng đẩy hắn, kẻ kia, vào hậu trường (như một lần, tôi cấm cửa hắn tại các phiên họp của Lũ Trẻ). Tuy nhiên, tôi không thể bưng bít hắn thêm nữa. Bởi vì vào một buổi sáng tháng Năm năm 1974, có phải vì trí nhớ rạn nứt của tôi, hay tôi vẫn nhớ đúng, khi cho rằng hôm đó là ngày 18? Có lẽ đúng vào thời điểm sa mạc Rajasthan chấn động bởi vụ thử bom hạt nhân đầu tiên của Ấn Độ? Có phải việc Shiva bùng nổ vào đời tôi thật sự xảy ra đồng thời với sự kiện Ấn Độ đặt chân, không hề báo trước, vào kỷ nguyên hạt nhân?

Hắn đến ổ chuột của giới ảo thuật. Vận quân phục, mề-đay-và-sao chỉnh tề, đã lên lon Thiếu tá, Shiva bước xuống từ một chiếc mô tô Quân đội, mặc dù có lớp kaki bình dị của chiếc quần Nhà binh, người ta vẫn dễ dàng nhận thấy hai chỗ phồng lên rõ mồn một của cặp đầu gối sát thủ… Người hùng thời chiến được tôn vinh nhất Ấn Độ, nhưng một thời hắn từng cầm đầu một băng du côn ở Bombay. Một thời, trước khi hắn khám phá ra thứ bạo lực hợp pháp của chiến tranh, gái điếm bị siết cổ chết ở cống rãnh (tôi biết, tôi biết – không có bằng chứng). Giờ là Thiếu tá Shiva, nhưng cũng là con trai của Wee Willie Winkie, người vẫn nhớ ca từ của những bài hát đã tắt từ lâu: “Chúc Ngủ Ngon, Các Quý Bà” thỉnh thoảng vẫn âm vang bên tai hắn.

Ở đây có những sự trớ trêu, mà ta không nên bỏ qua. Bởi chẳng phải Shiva đã vươn lên khi Saleem chìm xuống? Giờ đây ai là kẻ đầu đường xó chợ, và ai là người ngạo nghễ trên cao ngó xuống? Chả có gì bằng chiến tranh trong việc tái tạo những cuộc đời…

Dù gì đi nữa, vào cái ngày chắc có lẽ là 18 tháng Năm, Thiếu tá Shiva đã đến ghetto của giới ảo thuật, và sải bước qua những con phố khắc nghiệt của khu ổ chuột với một vẻ mặt kỳ quái. Kết hợp giữa vẻ khinh miệt bất tận của kẻ vừa thăng tiến đối với sự nghèo đói, với một điều gì khác bí hiểm hơn. Bởi vì Thiếu tá Shiva, bị tràng thần chú của Parvad-phù-thủy triệu đến nơi trú ngụ khiêm nhường của chúng tôi, không thể hiểu nổi sức mạnh nào đang thối thúc hắn.

Sau đây là phần tái hiện đường công danh của Thiếu tá Shiva. Tôi chắp nhặt lại từ lời kể của Parvari, mà tôi nghe được từ cô sau đám cưới. Hình như kình địch của tôi thích ba hoa với cô về những chiến tích của hắn. Do đó, quý vị cũng nên chiếu cố những chỗ bóp méo sự thật mà sự vỗ ngực huênh hoang kiểu đó sinh ra. Tuy nhiên, dường như không có lý do gì để tin rằng những gì hắn kể với Parvati và cô nhắc lại với tôi khác xa những gì xảy-ra-trên-thực-tế.

Cuối cuộc chiến tranh ở Đông Pakistan, truyền kỳ về những chiến tích kinh dị của Shiva râm ran khắp phố phường, nhảy lên mặt báo và tạp chí, và nhờ vậy luồn vào phòng khách của giới thượng lưu, tụ lại thành từng đám mây dày như ruồi vo ve bên màng nhĩ các nữ chủ nhân trên cả nước. Do vậy Shiva bỗng thấy mình thăng tiến cả về địa vị xã hội lẫn hàm cấp quân đội, và được mời đến dự một ngàn lẻ một cuộc giao tế khác nhau. Dạ tiệc, nhạc hội, câu lạc bộ bài bridge, tiếp tân ngoại giao, hội nghị chính đảng, các lễ hội từ lớn chí nhỏ, hội chợ từ thiện, thi đấu thể thao cấp trường và trình diễn thời trang, để được tung hô và độc chiếm sự chú ý của những nhân vật quý phái nhất và mỹ lệ nhất nước.

Đám người mà truyền kỳ về các chiến tích của hắn bu quanh họ như ruồi, chúng bò qua cầu mắt khiến họ nhìn gã trai qua làn sương truyền kỳ của hắn, bậu kín đầu ngón tay khiến họ chạm vào hắn qua lớp màng huyền thoại kỳ bí mà hắn tạo ra, đậu lên lưỡi khiến họ không thể nói chuyện với hắn như với nguơi bình thường. Quân đội Ấn Độ, thời điểm này đang đối diện với một trận chiến chính trị trước các đề xuất cắt giảm ngân sách, hiểu rõ giá trị của một đại sứ có khí chất đặc biệt như thế, nên cho phép người anh hùng giao thiệp với những người hâm mộ giàu thế lực của hắn; Shiva đón nhận cuộc đời mới một cách đầy hăm hở.

Hắn để một bộ ria dày rậm mà mỗi ngày lính cần vụ riêng của hắn lại xức một liều sáp dầu lanh ướp lá mùi. Luôn phong nhã xuất hiện ở phòng khách của những nhân vật quyền quý, hắn tham gia những cuộc tán gẫu chính trị, và tuyên bố mình là người hâm mộ nhiệt thành của Thủ tướng Gandhi. Chủ yếu xuất phát từ lòng thù ghét đối thủ của bà, Morarji Desai, một lão già cổ hủ không thể mê được, uống nước tiểu của chính mình, da kêu loạt soạt như bánh đa. Và, hồi làm Thủ hiến Delhi, từng chủ trương cấm rượu và đàn áp lũ goonda trẻ, nghĩa là lũ du thủ du thực, hay, nói cách khác, đàn áp chính thằng nhãi Shiva… Nhưng những chuyện tầm phào này chỉ chiếm một phần rất nhỏ suy nghĩ của hắn, phần còn lại hoàn toàn bị đàn bà chiếm trọn.

Shiva, giống tôi, mụ mị vì quá-nhiều-đàn-bà, và trong những ngày tháng ngất ngây sau chiến thắng quân sự ấy, hắn đã thu được một tiếng tăm thầm kín (hắn bốc với Parvati) và nó tăng nhanh đến mức có thể sánh với danh vọng chính thức, công khai của hắn. Một huyền thoại “đen” bên cạnh huyền thoại “trắng”.

Điều gì được thì thầm ở những bữa tiệc phụ nữ và những tối chơi bài canasta trên cả nước? Điều gì được khúc khích xì xào ở bất cứ đâu có dăm ba quý bà lộng lẫy tụ tập? Điều này: Thiếu tá Shiva bắt đầu trở thành một tay quyến rũ khét tiếng, một gã sở khanh, kẻ cắm sừng giới nhà giàu. Tóm lại, một con ngựa giống.

Nơi nào hắn đến – hắn bảo Parvati – nơi đấy có đàn bà. Những thân hình mềm mại uốn lượn của họ run rẩy dưới sức nặng của trang sức và dục vọng, mắt họ mờ đi trước huyền thoại về hắn. Thật khó cho hắn để từ chối họ kể cả khi hắn có muốn vậy. Nhưng Thiếu tá Shiva không có ý định từ chối. Hắn lắng nghe đầy cảm thông những bi kịch nho nhỏ của họ, những ông chồng bất lực, bạo hành, kém quan tâm, bất cứ lời bào chữa nào những sinh vật xinh xắn ấy muốn đưa ra. Giống hệt bà tôi ở cây xăng, (nhưng với động cơ gian xảo hơn) hắn kiên nhẫn lắng nghe họ than thở, nhấp whisky trong những đại sảnh lộng lẫy ánh đèn chùm, hắn xem họ chớp chớp mắt và thở hổn hển đầy ngụ ý.

Và bao giờ cũng vậy, cuối cùng, họ chủ tâm đánh rơi ví, hay làm đổ nước, hay va phải cây gậy nhà binh trên tay hắn, khiến hắn phải cúi xuống nhặt bất-cứ-gì-vừa-rơi-xuống, và sẽ thấy mẩu giấy nhét trong xăng đan của họ, duyên dáng thò ra dưới những ngón chân sơn móng. Dạo ấy (nếu lời ngài Thiếu tá đáng tin) các begum xinh tươi nhiều tai tiếng của Ấn Độ trở nên cực kỳ vụng về, và những đôi chappal của họ nói về những cuộc-hò-hẹn-lúc-nửa-đêm, những dàn hoa giấy ngoài cửa sổ phòng ngủ, những ông chồng vừa khéo vắng nhà để hạ thủy tàu biển hay xuất khẩu chè hay mua vòng bi từ đối tác Thụy Điển.

Trong khi những kẻ kém may mắn này đi vắng, viên Thiếu tá ghé thăm nhà họ và đánh cắp tài sản quý báu nhất của họ: đàn bà của họ ngã vào vòng tay hắn. Có khả năng là (tôi đã bớt đi phân nửa con số của viên Thiếu tá) vào thời điểm đỉnh cao của thói trăng hoa ở hắn đã có không dưới mười nghìn phụ nữ đem lòng say mê hắn.

Và chắc chắn sẽ có những đứa trẻ. Một đàn em bé xinh xắn nhún nhảy an toàn trong cũi của các nhà giàu. Gieo rắc con hoang khắp Ấn Độ, người hùng thời chiến thích gì làm nấy, nhưng (và, cả điều này, cũng là hắn bảo Parvati) hắn mắc phải cái tật kỳ lạ là cạn hứng thú với bất kỳ người nào có bầu. Cho dù họ có xinh đẹp quyến rũ yêu kiều đến mấy, hắn vẫn từ bỏ phòng ngủ của những ai có thai với hắn.

Và các thiếu phụ xinh tươi vành mắt đỏ hoe, lại phải thuyết phục các ông chồng mọc sừng rằng: thật mà, dĩ nhiên là con anh. Anh yêu, cuộc-sống-của-em, nó giống anh thế còn gì, và không dĩ nhiên là em không buồn, có gì mà buồn, là nước mắt vui sướng đấy thôi.

Một bà mẹ bị ruồng rẫy như vậy là Roshanara, cô vợ bé con của đại gia ngành sắt S.P. Shetty. Và tại Trường đua ngựa Mahalaxmi ở Bombay, cô bé đã chọc thủng quả bóng bay kiêu hãnh cỡ bự của hắn. Hắn đang thả bộ quanh mã trường, đi được vài mét lại cúi xuống nhặt trả khăn san và dù cho các quý bà, những vật dường như đã sống dậy và giãy ra khỏi tay chủ nhân khi hắn đi qua.

Roshanara Shetty đối mặt hắn ở đây, đứng chắn lối đi của gã và nhất định không nhường bước. Đôi mắt mười bảy của cô chất chứa niềm óan hận dữ dội của trẻ thơ. Hắn lạnh nhạt chào cô, chạm tay lên vành mũ nhà binh, rồi toan bỏ đi. Nhưng cô bấu những móng tay nhọn hoắt vào tay gã, nở nụ cười nguy hiểm như băng, và sóng bước bên gã. Vừa đi cô bé vừa rót vào tai gã liều thuốc độc thơ dại của mình, và lòng căm ghét và oán giận đối với người tình cũ dạy cho cô phương pháp buộc hắn phải tin.

Một cách tàn nhẫn cô thì thầm rằng, thật chết cười, Chúa ơi, cái cách gã vênh váo đi lại trong giới thượng lưu như một gã gà trống, trong khi sau lưng chị em luôn luôn cười nhạo gã. Ồ phải rồi, Sahib Thiếu tá, đừng tự đánh lừa mình nữa, đàn bà thượng lưu vốn luôn thích ngủ với bọn thú vật nông dân cục súc. Nhưng chúng tôi nghĩ về anh như vậy đấy, Chúa ơi chỉ nhìn anh ăn thôi cũng phát tởm. Rau quả dầm nhoe nhoét đầy cằm, anh nghĩ bọn tôi không để ý thấy anh chẳng bao giờ cầm chén vào quai, anh tưởng bọn tôi không nghe được anh ợ hơi hay đánh rắm hả? Anh chỉ là con khỉ chúng tôi nuôi làm cảnh thôi, Sahib Thiếu tá, hữu dụng thật đấy, nhưng bản chất chỉ là một thằng hề.

Sau cơn cuồng kích của Roshanara Shctty, cách nhìn thế gian của người hùng thời chiến trẻ bắt đầu thay đổi. Giờ đây, hắn cảm giác đàn bà che quạt cười rúc rích ở bất cứ đâu hắn đến. Hắn nhận thấy những cái liếc nhìn cười cợt mà trước kia hắn chưa bao giờ để ý. Và mặc dù hắn cố gắng cải thiện cách ứng xử, vẫn chẳng ăn thua gì. Dường như càng cố thì hắn càng trở nên vụng về, đến nỗi thức ăn văng khỏi đĩa của hắn lên những tấm thảm Kelim vô giá, và cổ họng hắn phát ra tiếng ợ như tiếng gầm của tàu hỏa chui ra từ đường ngầm, và hắn đánh rắm như cuồng phong thịnh nộ. Cuộc sống mới đầy hào nhoáng trở nên, với hắn, một sự sỉ nhục hằng ngày.

Giờ hắn lý giải sự tấn công của các phụ nữ xinh đẹp theo cách khác, cho rằng bằng cách nhét tin nhắn gạ tình vào dưới chân họ buộc hắn phải hạ mình quỳ dưới chân họ…Khi nhận ra rằng một người đàn ông có thể sở hữu mọi phẩm chất nam nhi nhưng vẫn bị khinh rẻ vì không biết cách cầm thìa, hắn cảm thấy một cơn hung bạo cũ trỗi dậy trong mình, một niềm căm ghét những kẻ cao sang và quyền thế của chúng, và đây là lý do khiến tôi chắc chắn – tôi biết – rằng khi Tình trạng Khẩn cấp cho Shiva-đầu-gối-bự cơ hội giành lấy một phần quyền lực cho bản thân, hắn không chờ được hỏi đến lần thứ hai.

Ngày 15 tháng Năm năm 1974, Thiếu tá Shiva quay về trung đoàn của hắn tại Delhi. Hắn khẳng định rằng, ba ngày sau đó, hắn đột nhiên bị bóp nghẹt trong niềm ham muốn gặp lại một lần nữa mỹ nhân mắt to tròn mà hắn gặp lần đầu, đã lâu lắm rồi trong Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm, nhan sắc tóc đuôi ngựa từng hỏi xin hắn, tại Dacca, một lọn tóc duy nhất.

Thiếu tá Shiva tuyên bố với Parvati rằng động cơ của việc hắn đến ghetto của giới ảo thuật, là khát khao đoạn tuyệt với những ả nhà giàu của giới thượng lưu Ấn Độ. Rằng hắn bị đôi môi bĩu ra của cô mê hoặc từ phút đầu tiên chúng chạm vào mắt hắn. Rằng đây là những lý do duy nhất để hắn rủ cô ra đi cùng hắn.

Nhưng tôi đã quá hào phóng với Thiếu tá Shiva – trong câu chuyện này, phiên bản lịch sử của riêng cá nhân tôi, tôi đã cho hắn chiếm chỗ quá nhiều. Thế nên tôi nhấn mạnh rằng, bất kể viên Thiếu tá đầu-gối-gõ-nhau có nghĩ gì, lý do kéo hắn đến ghetto, hết sức đơn giản và rõ ràng, là ma thuật của Parvati-phù-thủy.

Saleem không có mặt ở ghetto khi Thiếu tá Shiva cưỡi mô tô đến, trong khi vụ nổ hạt nhân rung chuyển vùng đất hoang Rajasthani xảy ra ngoài tầm mắt, dưới bề mặt sa mạc, thì vụ nổ thay đổi đời tôi cũng diễn ra khuất mắt tôi. Khi Shiva nắm cổ tay Parvatiỉ, tôi đang ở cùng Picture Singh tại hội nghị khẩn cấp của rất nhiều chi bộ Cộng sản của thành phố, thảo luận chi tiết về cuộc đình công toàn quốc trong ngành đường sắt. Khi Parvati, không chút đắn đo, ngồi lên yên sau chiếc Honda của người anh hùng, tôi đang bận rộn lên án việc chính quyền bắt giữ các thủ lĩnh công đoàn.

Tóm lại, trong khi tôi đang mải mê với chính trị và giấc mơ cứu nước, quyền năng phù thủy của Parvati đã khởi động cái kế hoạch rồi sẽ kết thúc với đôi tay vẽ henna, và hát hò, và một bản hợp đồng.

Một cách tất yếu, tôi buộc phải dựa vào lời kể của những người khác: chỉ có Shiva mới biết điều gì đã xảy ra với hắn. Chính Resham Bibi là người thuật lại việc Parvati bỏ đi khi tôi quay về, bảo, “Con bé tội nghiệp, hãy để nó đi, nó phiền muộn suốt bấy lâu nay, sao mà trách nó được?”

Và chỉ Parvati là có thể cho tôi biết những gì đã xảy đến với cô khi cô vắng mặt.

Nhờ địa vị tầm cỡ quốc gia của một người hùng thời chiến, viên Thiếu tá được hưởng một mức độ tự do nhất định về nội quy quân đội. Do vậy không ai phê bình hắn khi mang một người đàn bà vào nơi, nói cho cùng, không phải khu nhà của các sĩ quan đã có vợ. Vì hắn, không rõ điều gì đã đưa đến sự thay đổi lớn lao này trong đời mình.

Ngồi xuống một chiếc ghế mây theo lời cô, trong khi cô cởi giày, bóp chân cho hắn, mang cho hắn nước chanh tươi, cho người cần vụ lui, xức dầu bộ ria, vuốt ve cặp đầu gối hắn và sau cùng bày ra bữa tối là món biriani ngon lành đến nỗi hắn thôi không băn khoăn điều gì đang diễn ra nữa, và bắt đầu chuyển sang hưởng thụ.

Parvati-phù-thủy biến căn lán Nhà binh đơn sơ thành một cung điện, một Kailasa xứng tầm với Shiva-vị-thần. Và Thiếu tá Shiva, chìm trong sóng mắt ám ảnh của cô bị cái dáng bĩu ra đầy gợi cảm của môi cô khơi dậy một cơn hứng tình quá sức chịu đựng, đã dành trọn niềm sủng ái chuyên nhất của hắn cho cô trong suốt bốn tháng tròn. Hay, chính xác hơn, trong một trăm mười bảy đêm.

Tuy nhiên, ngày 12 tháng Chín, mọi chuyện thay đổi: bởi Parvati, quỳ dưới chân hắn, và biết rõ quan điểm của hắn về vấn đề này, cho hắn biết rằng cô sắp có con với hắn.

Cuộc dan díu giữa Shiva với Parvati giờ đây trở nên bão táp, đầy những cái tát và bát đĩa vỡ. Một sự mô phỏng trần tục của cuộc-chiến-thần-thánh bất tận giữa vợ chồng hai vị thần cùng tên với họ mà người ta kể rằng diễn ra trên đỉnh Kailasa của dãy Himalaya hùng vĩ…

Thiếu tá Shiva, dạo ấy, bắt đầu rượu chè, và chơi gái. Dấu vết chơi gái mà người hùng thời chiến lưu lại khắp thủ đô Ấn Độ đặc biệt giống với những cuộc du hành trên Lambretta của Saleem Sinai theo dấu mùi của những con phố Karachi. Thiếu tá Shiva, bị lời tiết lộ của Roshanara Shetty tước sạch phẩm giá nam nhi khi giao du với giới giàu sang, đã chuyển sang ăn bánh trả tiền.

Và hắn sở hữu một năng lực truyền giống rất ấn tượng (hắn đảm bảo với Parvati khi đánh cô) đến nỗi hủy hoại sự nghiệp của nhiều phụ nữ phóng đãng bằng cách cho họ những đứa con mà họ không nỡ vứt bỏ vì quá yêu thương. Hắn gieo giống khắp thành phố một đội quân trẻ con đường phố đối xứng với một trung đoàn con hoang hắn đã có với các begum của những phòng khách lộng lẫy ánh đèn.

Mây đen cũng đang vần vũ trên bầu trời chính trị.

Ở Bihar, nơi lạm phát tham nhũng nạn đói mù chữ mất đất hoành hành, Jaya-Prakash Narayan chủ xướng một phong trào sinh viên và công nhân phản đối đảng Quốc đại cầm quyền của Indira. Ở Gujarat, bạo loạn nổ ra, đường ray và xe lửa bị đốt phá, và Moraji Desai tiến hành tuyệt-thực-đến-chết để lật đổ chính quyền Quốc đại thối nát (do Chimanbhai Patel lãnh đạo). Ở cái bang khổ sở vì hạn hán này… chả cần nói cũng biết ông ta sẽ thành công mà không cần phải chết.

Tóm lại, trong khi giận dữ sục sôi trong tâm trí Shiva, đất nước này cũng đang nổi giận. Và cái gì sắp ra đời trong khi có một thứ đang lớn dần trong bụng Parvati? Quý vị đều biết câu trả lời: cuối năm 1974, J.P. Narayan và Morarji Desai thành lập đảng đối lập Janata Morcha: Mặt trận Nhân dân. Trong khi Thiếu tá Shiva ngả nghiêng từ ả điếm này sang ả điếm khác, đảng Quốc đại Indira cũng đang nghiêng ngả.

Và cuối cùng, Parvati giải thoát hắn khỏi bùa phép của cô. (Chẳng có cách giải thích nào khác. Nếu không bị phù phép, vì sao hắn không tống khứ cô ngay khi biết cô có bầu? Còn nếu không phải cô gỡ bỏ nó, làm sao hắn tự mình làm nổi?)

Lắc đầu như thể vừa tỉnh mộng, Thiếu tá Shiva bỗng thấy mình bên cạnh một cô gái ổ chuột bụng căng tròn, người dường như đối với hắn lúc này đại diện cho tất cả những gì hắn khiếp sợ nhất. Cô là hiện thân của khu ổ chuột thời thơ ấu của hắn, nơi mà hắn đã chạy trốn. Và giờ đây, thông qua cô, qua đứa con đáng nguyền rủa của cô, đang cố kéo hắn xuống xuống xuống một lần nữa…

Túm tóc cô lôi xềnh xệch, hắn ném cô lên xe máy. Và chỉ trong chốc lát, cô đã bị vứt bỏ, đúng ở rìa khu ghetto của giới ảo thuật. Bị trả về nơi từ đó cô đến, mang theo duy nhất một thứ mà cô không sở hữu lúc ra đi. Thứ ẩn trong cô như một người tàng hình trong cái giỏ liễu gai, thứ đang lớn dần lớn dần lớn dần, đúng như cô dự kiến.

Vì sao tôi nói vậy? – Bởi vì chỉ có thể là như thế, bởi vì điều gì đến, đã đến, bởi vì niềm tin của tôi là Parvati-phù-thủy đã có thai để vô hiệu hóa lý do duy nhất của tôi khi không chịu cưới cô. Nhưng tôi sẽ chỉ tường thuật, và dành việc phân tích lại cho hậu thế.

Một ngày tháng Một lạnh giá, khi tiếng gọi của muezzin từ đỉnh tháp cao nhất Thánh đường Thứ Sáu vừa rời môi đã đóng băng rồi rơi xuống thành phố như một thứ tuyết thiêng, Parvati trở lại. Cô đã đợi đến khi không ai có thể nghi ngờ về tình trạng của cô nữa, cái giỏ bên trong cô phồng lên dưới lớp áo mới của niềm say mê giờ đã tiêu tan của Shiva.

Đôi môi cô, tự tin về thắng lợi sắp đến, đã mất đi nét bĩu thời trang trước kia. Trong cặp mắt to tròn, khi cô đứng trên bậc thềm Thánh đường Thứ Sáu để đảm bảo càng nhiều người trông thấy ngoại hình đã thay đổi của mình càng tốt, ẩn hiện ánh ngân quang của sự thỏa mãn.

Tôi thấy cô trong tình trạng này khi trở về dưới chaya của thánh đường cùng Picture Singh. Tôi cảm thấy chán nản, và cảnh Parvati-phù-thủy đứng trên thềm, tay bình thản ấp lên cái bụng căng tròn, mái tóc tết vặn thừng phắt phơ giữa bầu không khí trong veo, chẳng làm tôi vui lên được tẹo nào.

Pictureji và tôi đến những phố định cư càng vào hàng hẹp sau Bưu điện Trung Tâm, nơi ký ức về thầy bói anh chàng hộp vạn hoa thầy lang bó xương lơ lửng theo gió. Và tại đây, Picture Singh thực hiện một màn trình diễn ngày càng chính trị hơn.

Tài nghệ huyền thoại của anh thu hút những đám đông tử tế, và anh điều khiển lũ rắn truyền đạt thông điệp của mình dưới sự khống chế của tiếng sáo dặt dìu. Trong khi tôi, đóng vai học việc, đọc to một bài diễn thuyết chuẩn bị trước, độc xà chuyển thể diễn văn của tôi thành kịch.

Tôi nói đến sự bất bình đẳng trắng trợn trong phân phối của cải xã hội. Hai con hổ mang diễn vở kịch câm một lão nhà giàu không chịu bố thí cho ăn mày. Cảnh sát lạm quyền, đói khổ bệnh tật mù chữ cũng được tôi nói đến và độc xà khắc họa bằng vũ kịch. Thế rồi Picture Singh, khép lại màn trình diễn, bắt đầu nói đến bản chất của cách mạng đỏ, và không khí bắt đầu ngập tràn những lời hứa hẹn, thành thử, từ trước khi cảnh sát xuất hiện từ cổng hậu tòa bưu điện để giải tán đám đông bằng dùi cui và hơi cay, đã có vài gã khán giả ngứa mồm phá đám Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian. Có lẽ, không thấy thuyết phục trước màn kịch câm khó hiểu của bầy rắn, mà nội dung rất kịch tôi phải thừa nhận là hơi tối nghĩa, một gã trai hét to.

“Ê này, Pictureji, anh phải vào Chính quyền mới đúng, đến Indiramata cũng chả hứa hẹn được oách như anh!”

Thế rồi hơi cay xuất hiện, và chúng tôi phải bỏ chạy như tội phạm. Ho khạc nôn ọe mù lòa, khỏi cảnh sát chống bạo động, vừa chạy vừa khóc một cách giả tạo (như đã từng xảy ra, ở Jallianwalabagh – nhưng ít ra lần này không có đạn). Nhưng, mặc dù nước mắt này là nước mắt hơi cay, Picture Singh quả tình đã chìm vào một cơn trầm uất đấng sợ vì lời chế nhạo của kẻ ném đá hội nghị, bởi nó nghi ngờ nhận thức của anh về hiện thực, điều anh tự hào hơn cả. Và kết thúc trận mưa hơi cay với dùi cui, cả tôi cũng thấy chán nản, đột nhiên phát hiện thấy một con ngài của nỗi bất an trong bụng, và nhận ra rằng, có gì đó trong tôi phản đối cách Picture dùng vũ điệu rắn để khắc họa sự đồi bại vô phương cứu chữa của người giàu.

Tôi thấy mình nghĩ, “Cái gì chẳng có mặt tốt mặt xấu – và họ đã nuôi nấng em, chăm sóc em, Pictureji!”

Sau đấy tôi bất đầu hiểu ra rằng tội ác của Mary Pereira đi chia cắt tôi khỏi hai thế giới, chứ không chỉ một. Rằng dẫu bị trục xuất khỏi nhà cậu, tôi cũng không bao giờ thực sự gia nhập được cái thế-giới-theo-lời-Picture-Singh. Rằng, kỳ thực, giấc mộng cứu quốc của tôi chỉ là một thứ hư yên huyễn ảnh, phi thực, những lời lèm bèm của một thằng ngốc.

Và còn kia là Parvati, với ngoại hình đã thay đổi, trong không khí rỡ ràng chói gắt của một ngày đông.

Hôm ấy là – hay tôi nhầm? Tôi phải nhanh lên, mọi thứ đang liên tục tuột khỏi tay tôi, một ngày của những sự kinh hoàng. Ngay sau đó, trừ phi đó là một ngày khác, chúng tôi tìm thấy bà lão Resham Bibi nằm chết cóng trong túp lều xây bằng vỏ thùng Dalda Vanaspati[3]. Bà cụ đã ngả màu xanh dương, xanh Krishna, xanh tựa Jesus, màu xanh của bầu trời Kashmir, đôi khi rỉ sang những đôi mắt. Chúng tôi hỏa táng bà trên bờ sông Jamuna, giữa bãi bồi và đàn trâu.

Và thế là bà đã hụt đám cưới của tôi, một điều đáng buồn, bởi vì như mọi bà già Resham thích đám cưới, và từng tham dự những lễ henna lúc ăn hỏi với một niềm háo hức nhiệt thành, lĩnh xướng màn hát đổi đáp trong đó các chị em bạn của cô dâu thóa mạ chú rể và gia đình. Có lần những lời thóa mạ của bà ngọt và bài bản đến nỗi chú rể nổi khùng hủy luôn đám cưới, song Resham không vì thế mà e ngại, bảo rằng chẳng phải lỗi của bà nếu thanh niên bây giờ yếu tim và dễ đổi ý như gà.

[3] Một nhãn hiệu dầu ăn gốc thực vật của Ấn Độ.

Tôi đi vắng khi Parvati bỏ đi, tôi không có mặt khi cô trở về, và có một tình tiết kỳ lạ nữa… Trừ phi tôi đã quên, trừ phi nó xảy ra vào một ngày khác… Nhưng dù gì đi nữa, tôi vẫn cảm thấy, rằng cái ngày Parvati trở lại, một Bộ trưởng Nội các Ấn Độ đang ngồi trong toa xe của mình, tại Samastipur, khi một vụ nổ thổi bay ông ta vào sách lịch sử; rằng Parvati, người bỏ đi giữa những vụ nổ bom nguyên tử, và trở lại với chúng tôi khi Ngài L.N. Mishra, Bộ trưởng Đường sắt và hối lộ, vĩnh viễn chia tay thế giới này. Hết điềm này đến điềm báo khác…Có lẽ, ở Bombay, cá chim đang chết trương bụng và dạt vào bờ.

26 tháng Một, Ngày Cộng hòa, là dịp tốt cho giới ảo thuật. Khi từng đám đông khổng lồ tụ tập để xem voi và pháo hoa, các thuật sĩ của thành phố lên đường kiếm ăn. Tuy nhiên, với tôi, ngày này mang một ý nghĩa khác, chính vào Ngày Cộng hòa, số phận hôn nhân của tôi được định đoạt.

Sau khi Parvati trở về, đám đàn bà có tuổi ở ghetto hình thành thói quen bưng tai hổ thẹn mỗi khi đi qua mặt cô. Cô, người mang trong bụng đứa trẻ vô thừa nhận mà chằng có vẻ gì ăn năn, sẽ cười ngây thơ và đi tiếp. Nhưng sáng Ngày Cộng hòa, khi ngủ dậy, cô thấy một sợi thừng buộc mấy chiếc giày rách treo trước cửa, liền bật khóc không ai dỗ nổi. Sự bình thản của cô sụp đổ trước sức mạnh của sự lăng nhục ghê gớm bậc nhất này.

Picture Singh và tôi, vừa rời lều với những sọt rắn trĩu nặng, đi qua cô trong tình trạng đau khổ (có tính toán? chân thực?) này, và Picture Singh nghiến răng lại với một thái độ đầy cương quyết.

“Quay về lều, đội trưởng,” Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất bảo tôi, “Ta cần nói chuyện.”

Khi về đến lều, “Bỏ quá cho anh, đội trưởng, nhưng anh phải nói. Anh nghĩ là sống trên đời mà không có con là một chuyện khủng khiếp đối với đàn ông. Không thể có con, đội trưởng: thật đáng buồn, phải không?”

Và tôi, kẹt trong lời nói dối về chuyện bất lực, đành im lặng trong khi Pictureji gợi ý về cuộc hôn nhân sẽ bảo toàn danh tiết cho Parvati và đồng thời giải quyết vấn đề vô sinh tự-thú-nhận của tôi. Và bất chấp nỗi khiếp sợ khuôn mặt của Jamila Ca sĩ, thứ, khi trùng hiện trên mặt Parvati, có sức mạnh làm tôi muốn hóa điên, tôi không thể ép nổi mình từ chối.

Parvati – đúng như cô toan tính, tôi cầm chắc như thế – chấp nhận tôi ngay tức khắc, nói có dễ dàng và thường xuyên như trước kia cô đã nói không. Và từ đây, các lễ hội của Ngày Cộng hòa bắt đầu có không khí như được đặc biệt dàn dựng riêng cho chúng tôi. Nhưng trong đầu tôi nghĩ rằng một lần nữa số phận, sự tất yếu, phản đề của lựa chọn, lại xuất hiện ngự trị đời tôi.

Một lần nữa, một đứa trẻ sẽ ra đời với người cha không phải cha mình, mặc dù với một sự oái oăm khủng khiếp, nó vẫn là đứa cháu đích thực của bố mẹ, của cha nó. Mắc kẹt trong mạng nhện chằng chịt của các phả hệ, có lẽ trong đầu tôi đã nảy ra nỗi băn khoăn rằng cái gì đang bắt đầu? Cái gì đang kết thúc? Liệu một tiến trình đếm ngược bí mật khác có đang diễn ra, và thứ gì sẽ ra đời cùng với con tôi?

Bất chấp việc thiếu vắng Resham Bibi, đám cưới đã diễn ra khá suôn sẻ. Lễ cải đạo Hồi cho Parvati (điều làm Picture Singh khó chịu, nhưng là điều tôi thấy mình đòi bằng được, trong một nỗ lực nữa tìm về cuộc đởi cũ) được thực hiện bởi một vị Haji râu đỏ, người tỏ ra thấp thỏm trước sự hiện diện của quá nhiều thành viên bỡn cợt, khiêu khích của đám vô thần.

Dưới cái nhìn dáo dác của ông già trông như một củ hành lớn có râu này, cô tụng niệm niềm tin rằng không có Chúa nào ngoài Chúa và Muhammad là Đấng Tiên tri của Người. Cô nhận cái tên do tôi chọn cho cô từ kho tàng các giấc mơ của tôi, trở thành Laylah, đêm, và bởi thế cũng bị cuốn vào những vòng lặp lịch sử của đời tôi, trở thành sự tái hiện của tất cả những người từng buộc phải đổi tên… như Mẹ tôi, Amina Sinai, Parvati-phù-thủy trở chành một con người mới để có thể có con.

Trong lễ henna, phân nửa giới ảo thuật nhận tôi làm người thân, đóng vai “gia đình” của tôi, nửa kia về phe Parvati. Và màn hát đối mạ lị nhau vui vẻ kéo dài đến khuya, trong khi những họa tiết henna cầu kỳ khô dần vào lòng bàn tay bàn chân cô. Và nếu việc vắng Resham Bibi có làm cuộc thóa mạ thiếu đi một màn trình diễn đỉnh cao, chúng tôi cũng không quá buồn lòng về điều đó.

Sang nikah, lễ cưới thực sự, tân lang tân nương được đặt ngồi trên một cái bục dựng vội bằng những thùng Dalda từ túp lều đã bị phá sập của Resham, và các ảo thuật gia long trọng xếp hàng diễu qua chúng tôi, thả những đồng xu mệnh giá nhỏ vào lòng hai vợ chồng. Và khi nàng Laylah Sinai mới ngất xỉu, ai nấy đều cười mãn nguyện. Vì mọi cô dâu tốt đều phải ngất xỉu ở đám cưới, và không ai nhắc đến cái khả năng sẽ làm tất cả bối rối là có thể cô ngất xỉu vì buồn nôn hoặc vì cơn đau-đạp do đứa trẻ trong giỏ của cô gây ra.

Tối hôm đó các nhà ảo thuật có một màn trình diễn tuyệt vời đến mức, tiếng đồn về nó lan khắp Thành phố Cũ, và mọi người chen chúc kéo đến xem. Từ các thương gia đạo Hồi ở một muhalla gần đó, nơi một lời tuyên bố công khai từng được thực hiện, rồi những người thợ bạc và bán sữa chua hoa quả từ Chandni Chowk, những kẻ lang thang về đêm và du khách Nhật Bản, những người (trong dịp này) đều đeo khẩu trang vì lịch sự, không muốn lây vi trùng từ hơi thở của họ sang chúng tôi, và những người Âu da hồng tán chuyện ống kính máy ảnh với người Nhật, tiếng màn trập lách tách và đèn flash lạch xạch, và một trong những du khách bảo tôi rằng Ấn Độ quả thật là một đất nước tuyệt vời với nhiều truyền thống đặc sắc, và sẽ cực kỳ chuẩn và hoàn hảo nếu ta không phải suốt ngày ăn đồ ăn Ấn.

Và tới valima, lễ hợp cẩn (mà, trong trường hợp này, không có tấm ga dính máu nào, dù có hay không có lỗ thủng, được chăng lên, bởi vì tôi đã trải qua đêm tân hôn với đôi mắt nhắm chặt và lưng quay lại vợ tôi, sợ bị khuôn mặt kinh dị của Jamila Ca sĩ đến ám ảnh tôi trong không khí hoang mang của bóng tối), các nhà ảo thuật còn trình diễn hay hơn chính họ trong đêm lễ cưới.

Nhưng khi mọi phấn khích đã lắng xuống, tôi nghe thấy (với một bên tai lành và bên kia điếc) thanh âm lạnh lùng của tương lai đang rình rập chúng tôi: tích, tắc, to dần và to nữa, cho đến khi sự ra đời của Saleem Sinai – cũng như của bố đứa trẻ – được tái hiện trong những sự kiện của đêm 25 tháng Sáu.

Trong khi những sát thủ bí ẩn ám sát các quan chức chính phủ, và chút nữa đã trừ bỏ được Chánh án Tối cao do Bà Gandhi đích thân bổ nhiệm. A.N. Ray, ghetto tập trung sự chú ý vào một bí ẩn khác: cái giỏ căng phồng của Parvati-phù-thủy.

Trong khi Janata Morcha phát triển theo đủ mọi đường lối kỳ quái, cho tới khi nó đi theo chủ nghĩa Cộng sản Maoist (như chính các nghệ sĩ uốn dẻo ở khu trại, kể cả ba chị em chân-tay-cao-su từng sống cùng Parvati trước khi chúng tôi thành hôn – sau hôn lễ, chúng tôi đã dọn đến một căn lều riêng, mà cả trại đã xây cho hai đứa làm quà cưới trên nền túp lều mục nát của Resham) và đón nhận những thành viên cực hữu của Ananda Marg, cho tới khi các thành viên Xã hội cánh Tả và Swatantra bảo thủ đều gia nhập hàng ngũ của nó…

Trong khi mặt trận nhân dân phình to một cách dị hợm như thế, tôi, Saleem, không ngừng băn khoăn xem thứ gì đang lớn dần đằng sau cái mặt tiền đang phình to của vợ tôi.

Trong khi dư luận bất mãn với đảng Quốc đại Indira đe dọa nghiền nát chính quyền như một con ruồi, bà Laylah Sinai mới toanh, với đôi mắt to hơn bao giờ hết, ngồi im như đá trong lúc sức nặng của đứa trẻ tiếp cục gia tăng cho đến khi đe dọa nghiền nát xương cô thành cám.

Và Picture Singh, ngây thơ lặp lại một lời nhận xét xa xưa, nói, “Này, đội trưởng! Nó chắc sẽ to phải biết: một anh cu cỡ bự mười đồng hẳn hoi!”

Và rồi đến ngày mười hai tháng Sáu.

Sử sách báo chí đài phát thanh đều bảo rằng đúng hai giờ chiều ngày 12 tháng Sáu, Thủ tướng Indira Gandhi bị phán quyết là có tội, theo chánh án Jag Mohan Lal Sinha của Tòa án Tối cao Allahabad, với hai tội danh vận động bất hợp pháp trong chiến dịch tranh cử năm 1971. Điều trước đây chưa bao giờ được tiết lộ là vào đúng hai giờ chiều, Parvati-phù-thủy (nay là Laylah Sinai) cầm chắc mình đang trở dạ.

Cuộc trở dạ của Parvati-Laylah kéo dài mười ba ngày.

Ngày đầu tiên, khi Thủ tướng bác bỏ khả năng từ chức, mặc dù bản án kèm theo hình phạt bắt buộc cấm bà tham gia chính quyền trong sáu năm, cổ tử cung của Parvati-phù-thủy, mặc những cơn co thắt đau như ngựa đá, vẫn ngoan cố không chịu mở.

Saleem Sinai và Picture Singh, bị ba chị em uốn dẻo, những người đi lãnh trách nhiệm bà đỡ, cấm cửa khỏi túp lều quằn quại của em. Chỉ biết nghe tiếng rên la vô vọng của em, cho tới khi một đoàn nghệ sĩ nuốt-lửa bạc-bịp đi-trên-than-hồng lũ lượt kéo đến, vỗ lưng họ và kể chuyện tục tĩu. Và chỉ có trong tai tôi là vẫn dội lên tiếng tích tắc… đang đếm ngược đến điều Chúa-mới-biết.

Cho đến khi tôi bị nỗi sợ xâm chiếm, và bảo Picture Singh, “Em không biết cái gì sẽ chui ra, nhưng nó sẽ chẳng tốt lành gì đâu…”

Và Pictureji, trấn an: “Đừng có lo, đội trưởng! Tất cả sẽ ổn thôi! Một thằng cu cỡ bự mười đồng, anh đảm bảo!”

Và Parvati, kêu gào la hét.

Và đêm qua ngày đến, và bước sang ngày thứ hai, khi ở Gujarat các ứng cử viên bầu cử của bà Gandhi thảm bại trước Janata Morcha, Parvati của tôi phải chịu những cơn đau dữ dội đến nỗi người em cứng đờ như sắt. Và tôi không chịu ăn uống gì, cho tới khi đứa trẻ ra đời. Hoặc là điều gì phải đến sẽ đến, tôi ngồi xếp bằng ngoài túp lều thống khổ của em, khiếp sợ run bần bật dưới cái nóng, cầu xin đừng bắt em phải chết, đừng bắt em phải chết, mặc dầu chưa một lần tôi làm tình với em trong suốt ngần ấy tháng cưới nhau. Bất chấp nỗi khiếp sợ bóng ma của Jamila Ca sĩ, tôi cầu nguyện và nhịn ăn, mặc cho Picture Singh can ngăn.

“Đừng như vậy mà, đội trưởng,”

Tôi vẫn tiếp tục, và đến ngày thứ chín thì cả ghetto đã chìm vào một sự im lặng đáng sợ. Một sự tĩnh lặng tuyệt đối đến mức, kể cả tiếng gọi cầu nguyện của muezzin từ thánh đường cũng không xuyên thủng nổi. Một sự vô thanh có uy lực mãnh liệt đến mức, làm câm bặt tiếng gào rống của đoàn biểu tình do Janata Morcha phát động ngoài Rashtrapati Bhavan, Dinh Tổng thống. Một sự câm lặng kinh hoàng cũng xuất phát từ thứ ma thuật đáng sợ, bao trùm hết thảy như sự im lặng vĩ đại từng phủ xuống ngôi nhà của ông bà tôi ở Agra.

Bởi vậy, vào ngày thứ chín ấy chúng tôi không nghe được Morarji Desai kêu gọi Tổng thống Ahmad bãi miễn bà Thủ tướng ô danh, và âm thanh duy nhất của cả thế giới này là tiếng thoi thóp kiệt quệ của Parvati-Laylah, khi từng cơn co thắt đổ dồn lên em như núi, và tiếng em nghe như đang réo gọi chúng tôi dọc một đường hầm dài rỗng của đớn đau. Trong khi tôi, ngồi xếp bằng, như bị thống khổ của em chặt thành từng khúc, với tiếng tích tắc vô thanh trong đầu.

Và trong lều, ba chị em uốn dẻo đang rót nước lên người Parvati để bù lại lượng hơi nước như đang phun trào ra khỏi người em, nhét que gỗ vào giữa hai hàm răng để phòng em cắn đứt lưỡi, và cố ép mí mắt em nhắm lại trên đôi mắt đang lồi ra đáng sợ đến nỗi họ sợ chúng sẽ rơi ra ngoài mà bị vấy bẩn trên mặt đất.

Và sang ngày thứ mười hai thì tôi đã lả đi vì đói trong khi đâu đó trong thành phố Tòa án Tối cao thông báo với Bà Gandhi rằng bà chưa phải từ chức trong thời gian kháng án, nhưng sẽ không có quyền bỏ phiếu trong Lok Sabha cũng như lĩnh lương. Và trong lúc Thủ tướng đang cơn hả hê trước chiến thắng một phần này bắt đầu thóa mạ địch thủ bằng thứ ngôn ngữ dư sức làm một mụ hàng cá Koli phải tự hào, cơn trở dạ của Parvati bước sang một giai đoạn mà trong đó. Dù hoàn toàn kiệt quệ, em vẫn tìm được hơi sức để tuôn ra một tràng chửi rủa tục tằn từ cặp môi không còn huyết sắc, đến nỗi mùi xú uế từ những lời lẽ tục tĩu của em xộc vào mũi làm chúng tôi ói mửa.

Và ba chị em uốn dẻo từ trong lều chạy ra bảo rằng người em căng ra và nhợt nhạt đến nỗi gần như nhìn xuyên qua được. Và em sẽ cầm chắc chết nếu đứa bé không chui ra lúc này. Và trong tai tôi tôi tiếng tích tắc dồn dập tích tắc cho đến khi tôi biết chắc. Đây rồi, sẽ sớm sớm sớm thôi, và khi ba chị em trở lại bên giường em vào tối ngày thứ mười ba họ thét lên Rồi rồi cô ấy bắt đầu rặn rồi.

Cố lên Parvati, rặn rặn rặn đi, và trong khi Parvati rặn đẻ ở ghetto, J.P. Narayan và Morarji Desai đang khiêu khích Indira Gandhi, trong khi ba chị em thét rặn rặn rặn thì lãnh đạo đảng Janata Morcha thúc giục Cảnh sát và Quân đội bất tuân những mệnh lệnh phi pháp của Thủ tướng đã bị bãi miễn, bởi vậy về một nghĩa nào đó họ cũng đang ép Bà Gandhi rặn, và khi đêm tối dần đến nửa đêm, bởi vì không có gì là không xảy ra vào thời điểm này, ba chị em bắt đầu réo lên nó đang ra đang ra đang ra, và đâu đó Thủ tướng cũng đang cho ra đời đứa con của mình…

Ở ghetto, trong túp lều nơi tôi ngồi xếp bằng bên ngoài và chết dần vì đói, con trai tôi đang ra đang ra đang ra, cái đầu ra rồi, ba chị em réo lên, trong khi lực lượng Cảnh sát Trung ương Dự bị bắt giữ các thủ lĩnh của Janata Morcha, bao gồm hai nhân vật già nua đến không tưởng và gần như đã thành truyền kỳ là Morarji Desai và J.P. Narayan, rặn rặn rặn, và vào chính giữa cái nửa đêm khủng khiếp ấy khi tiếng tích tắc vang dội trong tai tôi, một anh cu cỡ bự mười đồng chính hiệu, sau cùng đã phọt ra một cách dễ dàng đến nỗi chẳng ai hiểu nổi bao nhiêu khổ sở vừa qua để làm gì.

Parvati rên lên một tiếng yếu ớt cuối cùng, thế là thằng bé phọt ra, trong khi khắp Ấn Độ cảnh sát đang bắt bớ tất cả lãnh tụ đối lập trừ các đảng viên Cộng sản thân Moscow, cả giáo viên luật sư thi sĩ nhà báo công đoàn viên, kỳ thực là bất cứ ai đã phạm sai lầm hắt hơi khi Madam diễn thuyết. Và khi ba chị em uốn dẻo tắm cho đứa bé và bọc nó vào một mảnh sari cũ rồi bế ra cho bố xem mặt, chính xác vào thời điểm ấy, lần đầu tiên người ta nghe thấy từ Tình trạng Khẩn cấp, và đình-chỉ-quyền-công-dân, và kiểm-duyệt-báo-chí, và các-đơn-vị-thiết-giáp-sẵn-sàng-cao-độ, và bắt-giữ-các-phần-tử-phản-động.

Có gì đó đang chấm dứt, có gì khác đang ra đời, và chính xác vào thời khắc khai sinh của nước Ấn Độ mới và khởi đầu của một nửa đêm đằng đẵng sẽ kéo dài suốt hai năm, con trai tôi, đứa trẻ của tiếng tích tắc tái xuất, đã bước ra thế giới.

Và còn nữa: bởi vì khi, trong cảnh tối tăm tranh tối tranh sáng của cái nửa đêm sẽ kéo dài vô tận ấy, Saleem Sinai lần đầu nhìn thấy đứa bé. Gã bắt đầu phá lên cười không nín được, tâm trí gã tê liệt vì cơn đói. Phải, nhưng cũng vì nhận ra rằng, định mệnh tàn nhẫn lại dành cho gã thêm một trò chơi khăm dị hợm nữa. Nên dù Picture Singh, kinh hoảng trước tiếng cười của tôi, trong tình trạng suy kiệt nghe như tiếng khúc khích của một nữ sinh, nhắc đi nhắc lại.

“Thôi nào, đội trưởng! Đừng điên thế hỉ! Là con trai rồi, đội trưởng, vui lên hỉ!”

Saleem Sinai tiếp tục đón nhận sự ra đời của đứa trẻ bằng cách rúc rích cười điên loạn trước số phận, bởi thằng bé, thằng bé sơ sinh, thằng-bé-con-trai-tôi Aadam, Aadam Sinai có hình dáng hết sức hoàn hảo, trừ, chỉ trừ, có đôi tai. Hai bên đầu nó phấp phới cặp cơ quan thính giác xòe ra như hai cánh buồm, đôi tai lớn vĩ đại đến mức sau này ba chị em tiết lộ rằng khi cái đầu chui ra họ đã nghĩ, trong một khắc hoang mang, đây là đầu một chú voi con.

“Đội trưởng, Saleem đội trưởng,” Picture Singh van nài, “bình tĩnh nào! Tai chứ gì đâu mà phải phát diên lên!”

Nó ra đời ở Delhi cũ… ngày xửa ngày xưa. Không, như thế không được, không thể né tránh ngày tháng được: Aadam Sinai chào đời ở một khu ổ chuột chìm trong bóng đêm vào ngày 25 tháng Sáu năm 1975. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng chứ. Như tôi đã nói: về đêm. Không, nhất thiết phải rõ hơn… Thực tế là, đúng nửa đêm. Kim đồng hồ chắp tay. Ôi dào, nói toẹt ra đi, nói toẹt ra đi: chính vào thời khắc Ấn Độ bước vào Tình trạng Khẩn cấp, nó xuất hiện. Trong tiếng hổn hển, và, trên khắp đất nước, câm lặng và sợ hãi.

Và dưới ách áp chế ma quái của thời khắc đêm tối ấy, nó đã bị còng tay một cách bí hiểm vào lịch sử, và vận mệnh của nó đã bị xiềng xích không thể chia lìa với của đất nước nó. Không được tiên đoán, chẳng được tung hô, nó đến, chẳng thủ tướng nào viết thư cho nó. Nhưng, dù gì đi nữa, khi thời gian của mối liên hệ của tôi sắp chấm dứt, đến lượt nó bắt đầu. Nó, tất nhiên, chẳng có tiếng nói gì trong chuyện này sất. Nói cho cùng, lúc ấy, đến tự chùi mũi nó còn chưa làm nổi.

Nó là con của người cha không phải là cha nó, nhưng cũng là con của một thời kỳ đã hủy hoại hiện thực một cách nghiêm trọng đến nỗi không ai còn có thể tái tạo được nữa.

Nó là chắt đích thực của cụ nội nó, nhưng hội chứng chân voi đã nhắm vào tai nó thay vì vào mũi. Bởi vì nó cũng là đứa con đích thực của Shiva-và-Parvati, nó là thần Ganesh đầu voi.

Nó được sinh ra với đôi tai phấp phới cao và rộng đến nỗi chắc chúng đã nghe được tiếng nổ súng ở Bihar, và tiếng gào thét của công nhân cảng biển bị dùi cui tấn công ở Bombay…Một đứa trẻ nghe thấy quá nhiều, và hệ quả là không nói bao giờ. Bị câm vì dư thừa âm thanh, thành thử từ bấy đến giờ, từ ổ chuột đến nhà máy rau quả dầm, chưa bao giờ tôi nghe nó thốt ra lấy một lời.

Nó là người sở hữu một cái rốn lồi ra thay vì thụt vào, làm Picture Singh kinh ngạc thốt lên, “Bimbi của nó, đội trưởng! Trông bimbi của nó kìa!”.

Và nó trở thành, ngay từ buổi đầu, người tiếp nhận đầy ơn phước niềm kinh sợ của chúng tôi.

Đứa trẻ nghiêm trang tốt nết đến nỗi việc nó tuyệt đối không khóc và mè nheo đã hoàn toàn chiếm được cảm tình của cha nuôi, người đã thôi không cười như ma làm trước đôi tai dị dạng và bắt đầu trìu mến ru đứa bé lặng lẽ trên tay.

Đứa trẻ được nghe một bài hát khi đu đưa trên tay cha, bài hát được hát bằng chất giọng mang màu lịch sử của người ayah bị ô danh: “Bất cứ gì con muốn thành, con sễ được; con sễ được thành, bất cứ gì con muốn.”

Nhưng giờ, khi tôi đã cho ra đời đứa con trai im lặng, tai phấp phới có những câu hỏi cần được trả lời vì sự ra đời đồng thời kia. Những nghi vấn khó nói và khó nuốt: Phải chăng, giấc mơ cứu nước của Saleem đã, qua các mô thẩm thấu của lịch sử, ngấm vào suy nghĩ của chính Thủ tướng? Phải chăng tín niệm cả đời của tôi vào sự đồng nhất giữa Quốc gia và bản thân tôi đã chuyển hóa, trong tâm thức Madam, thành câu nói nổi-tiếng-hồi-ấy: Ấn Độ là Indira và lndira là Ấn Độ? Phải chăng chúng tôi là đối thủ cạnh tranh nhau vai trò trung tâm – phải chăng bà cũng bị ám ảnh sâu sắc bởi một sự thèm khát ý nghĩa như tôi – và có phải, có phải vì thế mà…?

Ảnh hưởng của kiểu tóc đến tiến trình lịch sử: lại thêm một chuyện đáng cười nữa. Nếu William Methwold không có ngôi giữa, chắc tôi đã chẳng ở đây hôm nay. Và nếu Người Mẹ của Dân tộc có một mái đầu đồng nhất về sắc tố, Tình trạng Khẩn cấp do bà sinh ra nhiều khả năng sẽ thiếu một khía cạnh đen tối hơn. Nhưng tóc bà lại nửa trắng nửa đen. Tình trạng Khẩn cấp cũng thế, có một nửa trắng – công khai, rõ ràng, được ghi chép, vấn đề dành cho giới sử học – và một nửa đen, bí mật, rùng rợn, không ai nhắc đến, là vấn đề của chúng tôi.

Indira Gandhi sinh ngày 19 tháng Mười một năm 1917, con gái của Kamala và Jawaharlal Nehru. Tên đệm là Priyadarshini. Bà không có họ hàng với “Mahatma” M.K. Gandhi. Họ của bà là di sản từ cuộc hôn nhân, năm 1942, với một ông Feroze Gandhi, người được cả nước coi như “phò mã”. Họ có hai con trai, Rajiv và Sanjay, nhưng năm 1949 bà dọn về nhà cha mình và trở thành “nữ chủ nhân” ở đây.

Feroze cũng thử sống ở đó một lần, nhưng không thành công, ông trở thành người phê phán gay gắt Chính quyền Nehru và phanh phui vụ tai tiếng Mundhra, buộc chính Bộ trưởng Tài chính hồi đấy, T.T. Krishnamachari – tức T.T.K. phải từ chức. Feroze Gandhi mất vì nhồi máu cơ tim năm 1960, thọ bốn mươi bảy tuổi.

Sanjay Gandhi và vợ, cựu người mẫu Meneka, là hai nhân vật nổi bật trong Thời kỳ Khẩn cấp. Phong trào Thanh niên Sanjay đặc biệt phát huy hiệu quả trong chiến dịch triệt sản.

Tôi đưa vào bản tiểu sử có phần sơ lược này để phòng khi quý vị chưa nhận ra Thủ tướng Ấn Độ, đến năm 1975, đã mười lăm năm là một góa phụ. Hay (bởi ở đây chữ hoa sẽ có tác dụng): một Góa phụ.

Phải, Padma, Mẹ Indira thực sự có mưu đồ hãm hại tôi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận