Phía Bên Kia Nửa Đêm

Chương 10: Washington 1941-1944


Catherine đã bỏ công việc làm ở chỗ William Fraser ngay vào buổi sáng hôm sau, ngày nàng lấy Larry. Fraser có mời nàng cùng dùng cơm trưa với ông vào hôm cô trở lại Washington. Trông ông hốc hác, dài thượt và bỗng trở nên già sọm. Catherine cảm thấy thương cho ông, song cũng chỉ có vậy thôi. Nàng đang ngồi đối diện với một người xa lạ cao lớn, đẹp trai mà nàng cảm thấy mến, song bây giờ nàng không thể tưởng tượng được, rằng đã có lúc nàng nghĩ đến chuyện xây dựng với ông. Fraser nhìn nàng, cười méo mó:

– Thế là bây giờ em đã trở thành một phụ nữ có chồng – Ông nói.

– Người phụ nữ có chồng nghiêm chỉnh nhất trên đời đấy!

– Chuyện xảy ra đội ngột quá. Tôi… tôi ước ao có dịp được ganh đua với em đấy.

– Em có được một dịp nào đâu – Catherine thật thà nói – Chuyện đó chỉ tình cờ xảy ra mà thôi.

– Larry là người khá lắm.

– Phải.

– Catherine, em chưa thực sự hiểu nhiều về Larry, phải không?

Catherine bỗng thấy lưng mình cứng đơ.

– Em biết là em yêu anh ấy, Bill ạ – Nàng nói đều đều – Và em biết là anh ấy cũng yêu em. Khởi đầu như vậy là tương đối tốt đấy chứ.

Ông ngồi im lặng, nhíu mày, tự vấn bản thân.

– Catherine…

– Có gì vậy?

– Em hãy cẩn thận.

– Về chuyện gì? Nàng hỏi.

Fraser chậm rãi nói, cố tìm lời diễn đạt cho trôi chảy.

– Larry là… một loại người khác đấy.

– Khác thế nào? – Nàng hỏi lại, không muốn nghe ông nói.

– Ý tôi nói là anh không giống như đa số những người đàn ông khác – Ông nhận thấy nét mặt nàng tỏ vẻ khó chịu – Ấy thôi, cô đừng chú ý đến lời tôi nói làm gì (ông gượng cười).

Chắc ông có đọc truyện của Edop Con cáo và chùm nho rồi?

Catherine thân mật nắm lấy tay ông.

– Em sẽ không bao giờ quên được anh, Bill ạ. Hy vọng rằng chúng ta sẽ giữ được tình bạn mãi mãi.

– Anh cũng hy vọng như vậy Fraser bảo – Có thực là em không muốn làm việc ở văn phòng anh nữa chứ?

– Larry muốn em thôi việc. Anh ấy vốn tính cổ hủ cho rằng các đức ông chồng phải có trách nhiệm nuôi vợ.

– Nếu em muốn thay đổi ý kiến thì nhớ cho anh biết sớm.

Câu chuyện còn lại trong bữa ăn trưa là nhắc đến chuyện ở văn phòng và họ thảo luận ai sẽ thế chân Catherine. Nàng biết rằng nàng sẽ rất nhớ Bill Fraser. Nàng cho rằng người đàn ông đầu tiên quyến rũ một cô gái bao giờ cũng chiếm một vị trí đặc biệt trong đời cô gái đó. Song Bill đối với nàng còn có ý nghĩa lớn hơn thế nhiều. Ông là một người thân cận, một người bạn tốt. Catherine thấy băn khoăn trước thái độ của ông đối với Larry. Hình như Bill đã định báo trước cho nàng một điều gì đó nhưng sau đấy lại dừng ngay lại vì sợ làm hỏng niềm hạnh phúc của nàng. Hoặc phải chăng đúng như ông nói, trường hợp của ông cũng giống như trường hợp chùm nho chua kia?

Bill Fraser đâu có phải là một kẻ nhỏ nhen hoặc hay ghen tuông đố kỵ. Ông thực sự mong cho nàng được hạnh phúc.

Bởi vậy Catherine tin rằng ông cố tìm cách cho nàng biết một điều gì đó. Ở đâu đó trong tiềm thức nàng đã có một dự cảm mơ hồ. Song một giờ sau, khi nàng gặp Larry, chàng mỉm cười với nàng, mọi chuyện đều tan biến khỏi đầu óc nàng trừ niềm say mê vì nàng đã kết hôn với một người vui vẻ, độc đáo.

Larry là người vui nhộn hơn so với bất kỳ ai nàng đã từng gặp. Mỗi ngày là một cuộc phiêu lưu mới, một ngày lễ lớn. Ngày nghỉ cuối tuần nào họ cũng lái xe về nông thôn họ lưu lại ở các quán trọ nhỏ, đi thăm hội chợ các tỉnh. Họ đi hồ Placid, chạy trên đường trượt tuyết khổng lồ bằng xe toboggan, tới Montauk bơi thuyền và câu cá. Catherine rất sợ nước vì nàng chưa từng học bơi bao giờ, song Larry đã trấn an cho nàng và quả thực bên cạnh chàng, nàng thấy rất an toàn. Larry thật dễ thương và hấp dẫn, chàng có vẻ hoàn toàn không hay biết gì rằng mình là cái nam châm lôi cuốn các phụ nữ khác. Dường như chàng chỉ cần có mỗi Catherine là đủ lắm rồi. Trong tuần trăng mật của họ, Larry đã bắt gặp một con chim nhỏ bằng bạc trong một tiệm đồ cổ. Catherine thích lắm khiến cho chàng phải tìm một con chim bằng pha lê cho nàng và đó là khởi đầu cho một bộ sưu tập của nàng. Vào một buổi tối thứ bảy họ đi xe hơi về Maryland kỷ niệm ba tháng lễ thành hôn, họ đã đến cái tiệm ăn nhỏ lần trước để ăn tối.

Chủ nhật ngày 7 tháng mười hai, cảng Pearl Harbour(1) của Mỹ đã bị quân Nhật tấn công.

Ngày hôm sau, lúc 1 giờ 32 phút chiều, tức là không đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau cuộc tấn công của quân Nhật, nước Mỹ đã tuyên chiến với Nhật Bản, ngày thứ hai, Larry đang ở căn cứ không quân Andrews, Catherine cảm thấy không chịu được tình trạng một mình trong phòng, nàng đáp taxi tới Toà nhà Capitol để xem tình hình đang xảy ra. Nhiều tốp người đang xúm quanh hàng chục chiếc máy thu thanh xách tay rải rác giữa đám đông đứng dọc trên hai lề đường Capitol Plaza. Catherine đứng ngắm đoàn xe của Tổng thống lao nhanh trên đường giành cho xe hơi rồi dừng lại ở cổng phía nam của toà nhà Capitol. Nàng đến gần sát, nhìn rõ cửa chiếc xe mở và Tổng thống Roosevelt bước xuống có hai người hộ vệ đỡ kèm. Vài chục cảnh sát đứng án ngữ khắp các góc, đề phòng bất trắc. Theo Catherine nghĩ, thái độ của đám đông có vẻ quá khích, giống đám người hành quyết kiểu lynch(2) nhăm nhe chỉ chực hành động.

Năm phút sau khi Tổng thống Roosevelt bước vào điện Capitol, giọng của ông đã truyền đi trên đài phát thanh khi ông phát biểu trong phiên họp liên tịch của Quốc hội. Giọng ông chắc nịch, rắn rỏi, đầy vẻ kiên quyết và phẫn nộ.

“Nước Mỹ sẽ không quên tấm thảm kịch này… Sức mạnh chính nghĩa sẽ thắng. Cầu Chúa phù hộ cho chúng con!”

Mười tám phút sau khi ông Roosevelt vào toà nhà Capitol, Nghị định số 254 của Hai viện đã được thông qua tuyên chiến với Nhật Bản. Bản nghị quyết này đã được nhất trí thông qua trừ nữ Hạ nghị sĩ bang Montana Jeannette Rankin bỏ phiếu chống việc tuyên chiến, như vậy là kết quả cuối cùng 388 phiếu thuận, 1 phiếu chống.

Bài diễn văn của Tổng thống Roosevelt vừa đúng mười phút và đây cũng là một thông điệp chiến tranh ngắn nhất phát biểu trước Quốc hội Mỹ từ xưa tới nay.

Đám đông đứng ngoài hoan hô, hò hét rầm rộ bày tỏ sự tán thành, nỗi uất hận và quyết tâm trả thù. Thế là cuối cùng nước Mỹ đã vào cuộc.

Catherine quan sát những người đàn ông và đàn bà đứng gần nàng. Nét mặt của những người này cũng tỏ ra hoan hỉ giống như nét mặt của Larry mà nàng đã thấy ngày hôm trước, tuồng như thể họ cùng là hội viên của một câu lạc bộ bí mật coi chiến tranh là một trò thể thao hấp dẫn. Thậm chí đến cả những người phụ nữ cũng bị lây ngay tâm trạng hào hứng bộc khởi đang lan nhanh trong đám người. Song Catherine tự nói không biết họ sẽ nghĩ gì một khi những người đàn ông phải ra đi, để lại những người phụ nữ phải mòn mỏi trông tin chồng con mình.

Catherine chậm rãi quay trở về nhà. Ở góc phố nàng đã trông thấy những người lính bồng súng cắm lê sáng quắc. Nàng nghĩ: chẳng bao lâu nữa cả nước sẽ mặc quân phục.

Sự việc xảy ra thậm chí còn nhanh hơn cả điều Catherine dự kiến. Gần như hôm trước hôm sau cả Washington đã trở thành thành phố của một đội quân mặc đồ kaki.

Không khí sôi sục lan nhanh như điện. Dường như hoà bình là một thứ chướng khí chỉ đem lại cho con người sự buồn nản, và chỉ có chiến tranh mới kích thích con người sống hăm hở, náo động nhất.

Larry dành từ mười sáu đến mười tám giờ ở Căn cứ không quân, chàng thường ở lại đó qua đêm. Chàng cho Catherine hay rằng tình hình ở Trân Châu cảng và Hickam Field còn tồi tệ hơn nhiều so với những gì người ta thông báo cho dân chúng biết. Cuộc tiến công bất ngờ đã đưa đến sự tàn phá thảm hại. Xét về mặt thực dụng, người ta đã tiêu diệt được Hải quân Mỹ và một bộ phận lớn Binh chủng không quan của Mỹ.

– Cứ theo như anh nói thì chúng ta có thể thua trong cuộc chiến này? – Catherine sửng sốt, hỏi.

Larry trầm tư nhìn nàng:

– Điều đó còn tuỳ thuộc ở việc liệu chúng ta có nhanh chóng chuẩn bị vào cuộc chiến hay không. Mọi người ai cũng tưởng rằng người Nhật là một lũ lùn, mắt cận thị, lố bịch. Thật thối! Họ là những người dẻo dai, không sợ chết. Trong lúc đó chúng ta thì mềm yếu.

Trong nhiều tháng tiếp theo dường như không có gì ngăn cản nổi người Nhật. Các tít báo ra hằng ngày than thở về thắng lợi của họ:

Chúng đang tấn công Wake… Đang lấn chiếm dần quần đảo Philippin… đổ bộ lên Guam… lên Bornéo… lên Hương Cảng. Tướng Mac Marthur tuyên bố bỏ ngỏ Manila, những toán quân Mỹ bị kẹt lại ở Philippin đầu hàng.

Một ngày tháng Tư, Larry gọi điện từ Căn cứ không quân về cho Catherine, hẹn nàng vào trung tâm thành phố ăn ở nhà hàng khách sạn Willard để kỷ niệm.

– Kỷ niệm gì vậy? – Catherine hỏi.

– Tối nay anh sẽ nói cho em rõ – Larry đáp. Giọng chàng tỏ ra phấn khích mạnh.

Khi Catherine gác máy, nàng có một linh tính ghê sợ. Nàng cố nghĩ tới tất cả những lý do khác có thể có được để Larry tổ chức kỷ niệm, song cuối cùng bao giờ cũng vẫn quay lại một lý do mà nàng không dám đương đầu với nó.

Lúc năm giờ chiều Catherine đã ăn mặc chỉnh tề ngồi trên giường nhìn vào tấm gương trong phòng trang điểm. Nàng nghĩ. Chắc là mình đã lầm. Có thể là chàng đã thăng chức cũng nên. Vì thế hai đứa mới phải kỷ niệm. Hoặc cũng có thể chàng nhận được một tin vui gì đó về chiến cuộc. Catherine tự nhủ thầm như vậy song chính nàng cũng không tin điều đó: Nàng chăm chú ngắm mình trong gương cố giữ một thái độ khách quan. Tuy nàng không phải thao thức nhiều đêm để suy bì với Ingrid Bergman, song vô tư mà xét, nàng cũng thuộc loại hấp dẫn đấy chứ. Thân hình nàng rất đẹp, đầy những đường cong khêu gợi. Nàng tự nhủ: Mi là đứa thông minh, vui tươi, lịch lãm, tử tế, lại hừng hực tình dục. Vậy thì gã đàn ông máu đỏ bình thường làm sao lại có thể dứt bỏ mi mà đi hứng lấy cái chết ở trận mạc được.

Bảy giờ tối Catherine bước vào phòng ăn của khách sạn Willard. Larry vẫn chưa tới. Người phụ trách hướng nàng đến một chiếc bàn. Lúc đầu nàng bảo là không uống gì sau đó nàng thấy bồn chồn thay đổi ý kiến và gọi một ly Martini.

Người bồi mang tới và khi Catherine nhấc ly rượu lẽn, nàng nhận ra Larry đang tiến lại phía nàng. Chàng len lỏi qua những dãy bàn, vừa đi vừa đáp lại những lời chào mừng của mọi người. Chàng mang theo một tinh thần hứng khởi lạ thường, bộc lộ rõ ra ngoài, khiến cho mọi cặp mắt phải đổ dồn về phía chàng. Catherine quan sát chàng và nhớ lại hình ảnh chàng hồi chàng tiến lại chiếc bàn nàng ngồi ở nhà ăn của hãng MGM ở Hollywood. Hồi đó nàng biết về Larry mới ít ỏi làm sao, chẳng bù với bây giờ thật là phong phú. Chàng tiến lại bàn, hôn nhanh lên má nàng và xin lỗi:

– Xin lỗi Cathy nhé. Suốt ngày hôm nay căn cứ của anh như một cái nhà thương điên.

Chàng ngồi xuống, đón nhận việc người ta gọi đến chức vụ đại uý của mình và gọi một ly Martini. Nếu như chàng có trông thấy Catherine uống rượu, chàng cũng không hề nói năng gì.

Catherine muốn nói to ý nghĩ của mình. Anh cho em biết món quà bất ngờ của anh đi. Chúng ta đang tổ chức lễ mừng gì đây. Song nàng không nói được nên lời. Ngạn ngữ Hungary cổ có câu: “Chỉ có những kẻ điên mới lặn lội đi tìm tin tức xui mà thôi”. Nàng lại nhấp một ngụm Martini nữa. Có thể đây không đúng với ngạn ngữ Hungary cổ. Có thể đây là một ngạn ngữ mới của Catherine Douglas song chỉ để nhằm vào những người cả tin mà thôi. Cũng có thể ly Martini đã làm cho nàng hơi la đà. Còn nếu như điều nàng linh tính lại là thật thì trước khi hết đêm nay, nàng sẽ uống say tuý luý. Song nhìn vẻ mặt đầy yêu thương của Larry, Catherine hiểu ngay nàng đã lầm, Larry không thể bỏ nàng mà đi cũng như nàng không thể rời chàng được.

Nàng đã tưởng tượng ra một cơn ác mộng từ những suy diễn của nàng. Qua nét mặt vui sướng của chàng, Catherine hiểu rằng chàng thực sự có tin mừng muốn cho nàng hay.

Larry ghé về phía nàng, mỉm cười, nụ cười trẻ thơ, nắm lấy tay nàng.

– Cathy, em không thể đoán được chuyện gì đã xảy ra với anh đâu. Anh sắp ra hải ngoại.

Trước mặt nàng như có một tấm màn mỏng buông xuống làm cho mọi vật trở thành mờ mờ, ảo ảo. Larry đang ngồi bên nàng, môi chàng đang mấp máy, song khuôn mặt chàng chập chờn và Catherine không nghe được một lời nào chàng nói cả. Nàng nhìn qua vai chàng. Bức tường của nhà hàng như đang chuyển dịch, lùi ra. Nàng cứ ngồi ngây người ra quan sát như vậy.

– Catherine?

Larry lắc tay nàng. Đôi mắt nàng từ từ tập trung nhìn vào mặt chàng. Mọi vật trở lại bình thường.

– Em vẫn bình thường đấy chứ?

Catherine gật đầu, nuốt nước bọt, nói run run:

– Tuyệt diệu. Những tin tức tốt lành vẫn thường gây tác động như vậy cho em.

– Em cũng hiểu là anh cần phải hành động như vậy chứ?

– Vâng, em hiểu. Thực ra, em có sống đến triệu năm em cũng không thể hiểu được đâu, anh yêu ơi. Song nếu em nói ra điều đó, anh sẽ căm ghét em, có phải thế không? Anh thiết gì loại vợ hay sách nhiễu? Vợ của người anh hùng bao giờ cũng phải tươi cười khi tiễn chồng mình đi xa.

Larry nhìn nàng đăm chiêu:

– Em khóc đấy à?

– Đâu có – Catherine phẫn nộ nói và nàng hốt hoảng nhận ra rằng nàng đang khóc thật – Em… em phải làm quen dần với ý nghĩ đó.

– Họ sẽ trao cho anh chỉ huy một phi đoàn – Larry bảo.

– Thật sao? Catherine cố tỏ vẻ tự hào trong giọng nói.

Chàng chỉ huy cả một phi đoàn. Hồi chàng còn bé, có lẽ chàng có cả một bộ đồ chơi lửa. Còn bây giờ chàng là một cậu bé cao lớn và họ giao cho chàng cả một binh đoàn để chàng chơi. Mà đây lại là những món đồ chơi thật, nhất định sẽ có kẻ bị bắn rụng, bị đổ máu và chết chóc.

– Em muốn uống một ly nữa – Nàng bảo.

– Được thôi.

– Bao giờ… bao giờ anh phải ra đi?

– Chỉ trong tháng này.

Chàng làm ra bộ rất nôn nóng muốn ra đi ngay. Thật đáng sợ khi nàng nghĩ đến cuộc hôn nhân của nàng sắp phải chia lìa.

Trên dàn nhạc, một ca sĩ đang rên rỉ: Một chuyến đi tới mặt trăng trên những đôi cánh mỏng…

Nàng nghĩ: Phải, mỏng manh. Cuộc hôn nhân của mình cũng làm bằng chất mỏng tang. Đúng như nhạc sĩ Cole Porter đã nhìn thấu mọi chuyện.

– Từ nay đến ngày anh đi, chúng mình còn vô khối thời gian – Larry bảo.

Vô khối thời gian để mà làm gì? Catherine chua chát nghĩ. Vô khối thời gian để xây dựng một gia đình, để các con chúng ta đi trượt tuyết ở Vermont, để cùng già bên nhau ư?

– Tối nay em muốn chúng ta làm gì? Larry hỏi.

– Em muốn tới bệnh viện của tỉnh để người ta cắt bỏ của anh một ngón chân đi, hoặc chọc thủng một bên màng nhĩ của anh cũng được.

Song Catherine lại nói to lên rằng:

– Ta về nhà, làm tình.

Và đó là một đòi hỏi thôi thúc mãnh liệt và tuyệt vọng ở nàng.

Bốn tuần lễ trôi qua. Đồng hồ vẫn cứ lao về phía trước trong một cơn ác mộng như Kafka miêu tả, chuyển ngày thành giờ, giờ thành phút và khó có thể tin được đây đã là ngày cuối cùng của Larry rồi. Catherine lái xe đưa chàng ra phi trường. Chàng vui mừng, sung sướng, mồm nói liên miên còn nàng thì im lặng ủ dột như trong ống kính vạn hoa… và cuối cùng một chiếc hôn tạm biệt…

Larry bước vào chiếc máy bay sẽ đưa chàng đi xa khỏi nàng… Cánh tay giơ lên vẫy lần cuối cùng vĩnh biệt…

Catherine đứng trên sân bay ngắm nhìn chiếc máy bay nhỏ dần như một vệt tí hon trên nền trời, rồi cuối cùng biến mất. Nàng còn đứng đó một giờ nữa, cho đến lúc trời xẩm tối nàng mới quay ra xe, lái về thành phố, trở lại với căn phòng trống trải của nàng.

Trong năm đầu tiên sau cuộc tiến công cảng Pearl Harbour đã có tới mười trận không chiến và thủy chiến lớn chống lại quân Nhật Bản. Quân đội đồng mình chỉ thắng có ba trận, song hai trận có ý nghĩa quyết định là Midway và trận Guadalcanal.

Catherine đọc không sót một chữ nào những bài tường thuật trên báo về từng trận đánh một, sau đó nàng còn đề nghị William Fraser cung cấp thêm cho nàng những chi tiết khác. Đều đặn hàng ngày nàng viết thư cho Larry, song phải tám tuần sau nàng mới nhận được lá thư đầu tiên của chàng. Lời lẽ đầy lạc quan, phấn khởi. Lá thư đã bị kiểm duyệt gắt gao cho nên Catherine không có một ý niệm rằng chàng đã qua những nơi nào và hiện nay đang làm gì. Song dù thế nào chăng nữa, nàng vẫn có cảm giác dường như chàng tỏ ra rất thích thú với công việc. Trong những giờ phút vò võ giữa đêm trường, Catherine nằm thao thức trên giường với vô vàn thắc mắc. Nàng tự hỏi, động cơ nào đã thúc đẩy Larry đáp lại sự thách thức của chiến tranh và thần chết như vậy. Không phải là chàng có ý muốn chết, bởi Catherine chưa từng bao giờ thấy ai vui sống say sưa như chàng, song có lẽ đó chẳng qua là mặt bên kia của đồng xu, chính cái làm cho ý nghĩa cuộc sống thêm sắc bén lại thường xuyên đem nó ra cọ xát với cái chết.

Nàng đã đến ăn trưa với William Fraser, Catherine được biết Fraser cũng đã cố đăng lính, song Nhà Trắng khuyên ông rằng ông cứ ở vị trí hiện nay ông có thể làm được nhiều việc có ích hơn. Ông đã bị thất vọng sâu sắc.

Tuy nhiên, chưa bao giờ ông đề cập việc đó với Catherine. Lúc này ông đang ngồi đối diện với Catherine tại bàn ăn trưa, Fraser hỏi nàng:

– Cô có được tin gì của Larry không?

– Tuần trước em vừa nhận được một lá thư.

– Cậu ta nói gì?

– Vâng, theo thư viết thì cuộc chiến đối với anh ấy chỉ như một trận bóng đá. Chúng ta thua trong keo đầu, song bây giờ khi ta cử đội đầu tiên vào, chúng ta đã lấy lại được tình thế?

Ông gật đầu:

– Đúng kiểu Larry.

Catherine nói se sẽ:

– Nhưng chiến tranh không phải như vậy. Đây không phải là một trận đấu bóng anh Bill ạ. Trước khi cuộc chiến tranh này kết thúc sẽ có hàng triệu người bị sát hại.

– Nếu như em tham gia vào đó, theo anh, em sẽ dễ dàng coi đó là một cuộc đấu bóng.

Catherine quyết định sẽ tiếp tục đi làm. Quân đội đã thành lập một đơn vị cho phụ nữ với cái tên WAC.

Catherine đã nghĩ tới khả năng tham gia vào một đơn vị như vậy, rồi nàng lại nhận thấy nàng có thể có ích hơn nếu làm một việc gì khác như loại công việc lái xe hoặc trả lời những cú điện thoại. Mặc dù qua các nguồn tin nàng được biết, các đơn vị WAC cũng có khá nhiều hoạt động phong phú. Có rất nhiều phụ nữ đang mang bầu trong số người đăng ký tham gia, đến nỗi theo một tin đồn cho biết thì khi những người tình nguyện đến khám sức khoẻ, các bác sĩ phải dùng đến một cái dấu nhỏ bằng cao su ấn vào bụng họ. Các cô gái cố đọc những dòng chữ nhỏ li ti mà không thể đọc nổi. Cuối cùng có một cô nảy ra sáng kiến kiếm một chiếc kính lúp. Hoá ra dòng chữ đó như sau: “Nếu như chị đọc được dòng này bằng mắt thường thì hãy báo cho chúng tôi biết”.

Lúc này nàng đang ngồi ăn trưa với Bill Fraser, nàng bảo rằng:

– Em muốn đi làm. Em muốn một công việc gì đó giúp đỡ anh.

Ông ngắm nhìn nàng hồi lâu rồi gật đầu:

– Có một việc cho em đấy! Catherine ạ. Chính phủ đang muốn bán công trái quốc phòng. Có lẽ em có thể giúp vào công việc tổ chức bán công trái cho các nhân vật tiếng tăm.

Mới nghe tưởng công việc dễ như trở bàn tay, không ngờ khi thực hiện mới thấy hoàn toàn khác hẳn. Nàng nhận thấy các ngôi sao màn bạc có hành vi cư xử như con nít, họ nhiệt tình, hăm hở muốn đóng góp cho chiến tranh, song hẹn được gặp họ quả là một việc hết sức khó khăn.

Lịch làm việc của họ cứ thay đổi xoành xoạch. Thông thường đó không phải là lỗi của họ mà bởi vì việc làm phim bị trì hoãn hoặc thời gian biểu thay đổi. Catherine cứ phải đi về như con thoi từ Washington đến Hollywood rồi New York. Nàng đã quen với nếp ra đi chỉ được báo trước có một giờ đồng hồ, và nàng phải mang theo đủ quần áo để thay đổi cho từng chuyến công du. Nàng đã gặp gỡ có đến hàng chục những ngôi sao xuất sắc.

– Có thật là chị đã gặp tài tử Gary Grant rồi không?

Người thư ký của nàng đã hỏi như vậy sau một chuyến nàng mới từ Hollywood trở về.

– Tôi đã ăn trưa với ông ấy.

– Ông ấy có hấp dẫn như người ta nói không?

– Nếu như ông ta biết cách lợi dụng nó, ông ta sẽ là người giàu có nhất trên đời.

Sự việc xảy ra dần dần khiến cho Catherine hầu như không nhận ra. Trước đó nửa năm Bill Fraser có cho nàng biết về một vấn đề rằng Wallance Turner dính dáng đến một tài khoản quảng cáo mà Catherine đã từng sử dụng.

Catherine phát động một chiến dịch mới vận dụng một phương pháp hài hước và khách hàng tỏ ra rất hài lòng.

Sau đó vài tuần Bill đã yêu cầu Catherine giúp đỡ giải quyết một món nợ, và đến khi nàng nhận thức ra được vấn đề thì nàng đã dành hơn nửa số thời gian của nàng với công ty quảng cáo này. Nàng phụ trách một nửa tá tài khoản, tất cả những tài khoản này hoạt động tốt và Fraser đã trả nàng một số lương lớn cộng với một số phần trăm lợi tức.

Một buổi trưa trước lễ Giáng sinh, Fraser đã tới văn phòng của nàng. Các nhân viên khác đã về nhà, chỉ còn một mình Catherine đang hoàn thành nốt công việc cho tới phút chót.

– Vui chứ? – Ông hỏi.

Nàng mỉm cười, hồn hậu đáp:

– Cảm ơn anh Bill. Đây cũng là công việc tạo nên nguồn sống và có lương hậu.

– Đừng cảm ơn anh làm gì. Chính em mới là người kiếm ra từng xu với sức lực của mình, sau này còn khá hơn. Chính vì “cái sau này còn khá hơn” kia mà anh muốn trao đổi với em. Anh muốn em làm hội viên công ty.

Nàng nhìn ông ngạc nhiên:

– Hội viên công ty?

– Một nửa số tài khoản mới mà chúng ta có được trong sáu tháng qualà nhờ công của em đấy.

Ông ngồi trầm tư ngắm nhìn nàng và không nói gì thêm. Nàng hiểu ra những điều ông nói ra là rất quan trọng.

– Anh muốn có một người như em làm hội viên ư?

Vẻ mặt ông sáng lên:

– Anh không thể nói hết cho em thấy là anh hài lòng về việc này đến mức nào.

Ông lúng túng giơ tay ra phía nàng. Nàng lắc đầu bước tránh cánh tay đang mở rộng của ông, ghì chặt lấy ông, rồi hôn lên má. Nàng nói đùa:

– Bây giờ chúng ta cùng một công ty rồi nhé, em có thể hôn anh.

Nàng cảm thấy đột nhiên ông ghì chặt nàng thêm:

– Cathy, anh…

Catherine đặt một ngón tay lên môi ông:

– Đừng nói gì nữa anh Bill. Ta hãy giữ nguyên trạng như vậy.

– Em biết đấy, anh đang yêu em.

– Và em vẫn yêu anh – Nàng nồng nhiệt đáp.

Nàng nghĩ: Về ý nghĩa mà xét, “vẫn yêu” và “đang còn yêu” là rất khác nhau như một vực sâu không có cầu nào nối liền cả.

Fraser mỉm cười:

– Anh hứa anh sẽ không quấy rầy em. Anh tôn trọng những tình cảm của em đối với Larry.

– Cảm ơn anh Bill – nàng ngập ngừng – Em không biết liệu nói ra như vậy có ảnh hưởng gì không, song nếu như em có nghĩ đến ai khác thì người đó không ngoài anh đâu.

– Anh hiểu lắm chứ – Ông cười toe toét – Anh sẽ mất ngủ suốt đêm đấy.

Chú thích:

(1) Thường gọi là Trân Châu Cảng

(2) Hành quyết người da đen do bọn phân biệt chủng tộc thực hiện.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận