Phía Đông Mặt Trời

Chương 44


Viva đang vui vẻ chơi tennis cùng cô bạn thân Eleanor thì một bà xơ xuất hiện thông báo với cô mẹ đã mất. Chị Patricia, một cô gái người Ai-len gầy gò khẽ vẫy tay ra hiệu cho cô rời khỏi sân chơi, cả hai bước dọc lối mòn dẫn đến trường học. Những gì còn đọng lại trong tâm trí Viva lúc này chỉ là cảm giác căng thẳng cố gắng không bước chân vào những vết nứt trên mặt đường, và cảm giác trống rỗng giăng kín tâm can, lèn chặt và lạnh băng như tuyết.

Viva chỉ thoáng lấn cấn trong lòng một chút rồi thôi – những ngày này cô không muốn suy nghĩ nhiều về những điều ẩn sâu bên trong con người cô – nhưng hai ngày trước, mọi thứ bỗng chốc đổ vỡ, khi đám nữ sinh trường dòng được dẫn ra ngoài thưởng thức vở kịch Nàng Bạch Tuyết ở Chester. Viva ngồi trong lòng nhà hát kín bưng, với một túi kẹo cam thảo hiệu Liquorice Allsorts trong tay, say mê với những trường đoạn đang diễn ra trên sân khấu, cho đến khi hoàng tử xuất hiện, ngồi trên một cành cây được trang trí bằng những dây kim tuyến sáng lấp lánh, say mê hát cho Bạch Tuyết nghe “Một thiếu nữ xinh đẹp giống như một giai điệu”. Bài hát yêu thích của bố cô. Kết thúc buổi biểu diễn, Viva rời khỏi nhà hát cùng một nữ tu sĩ sống trong tu viện, cả hai hãy còn phấn khích bởi vở kịch rất hiếm hoi mới được thưởng lãm. Nữ tu sĩ cho cô mượn chiếc khăn tay đã dùng của mình, im lặng nhìn cô đứng dưới vầng ánh sáng đầy màu sắc của dây đèn màu trang trí đêm Giáng sinh bên ngoài trung tâm thương mại Debenhams, hổn hển và nức nở, ánh mắt vờ dán vào mấy người mẫu bằng hình nộm đứng sau ô cửa kính, cho đến khi Viva trấn tĩnh trở lại và quay ra nhập vào đoàn nữ sinh đang đứng chờ cách đấy không xa.

Mọi người đều nghĩ tốt hơn hết nên tảng lờ cơn xúc động mãnh liệt vừa rồi của Viva, trên xe buýt quay trở về trường, cảm giác xấu hổ chợt trào lên trong lòng Viva, và cô tự dặn lòng sẽ không bao giờ để chuyện này xảy ra thêm một lần nào nữa. Thế giới này giăng đầy những chiếc bẫy, và từ bây giờ trở đi cô phải biết cách tránh không để mình dính vào chúng, và cách tốt nhất để không dính bẫy, ấy là cô phải biết kiềm chế cảm xúc, phải thật lạnh lùng trước mọi chuyện, và đến tận giờ này, quyết định ấy luôn giúp cô an toàn trước sóng gió của cuộc đời. Chuyện này giống như một bài hát được viết từ những lời ca ủy mị và những giai điệu sướt mướt mà cô phải thật thận trọng mỗi khi quyết định ngân nga.

Giờ đây sau những bài học, những trải nghiệm thực tế đã thuyết phục được Viva mỉm cười với cuộc đời sau khi Frank rời xa cô, yên lòng sau sự ra đi của anh. Viva vui mừng vì Frank đã không cố liên lạc trở lại với mình. Có lần Daisy đã tình cờ nói với cô, rằng chị nghe nói Frank đã chuyển đến làm việc tại Lahore, một công việc với những kế hoạch đầy hấp dẫn. Sốt rét là căn bệnh khủng khiếp và nhân loại phải nhanh chóng tìm ra thuốc chữa, càng sớm càng tốt.

Ngày ra đi, Frank thậm chí còn không gọi cho cô để nói lời tạm biệt. Như thế cũng tốt.

Giờ đây chỉ còn lại công việc. Mỗi đêm khi bọn trẻ đã lên giường đi ngủ, cô lại đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ kê cạnh cửa sổ, lắng nghe tiếng róc rách trong đường ống dẫn nước cũ kỹ, tiếng cú kêu lạnh người trên những tàng cây bên ngoài cửa sổ, tiếng bọn trẻ ú ớ gọi nhau trong cơn mê, sau đấy cô sẽ cầm bút tiếp tục công việc viết lách hãy còn dang dở. Cô miệt mài viết đến tận một, hai giờ sáng, ghi lại những câu chuyện chân thực về cuộc đời của bọn trẻ. Những đứa trẻ dưới ngòi bút của cô hiện lên đầy can đảm và kiên cường – như chính cô đã có lần như thế – nhưng tất cả rồi sẽ phải học cách để không bước lên vết xe đổ đầy rạn vỡ của quá khứ.

Cuốn sách có vẻ khó viết hơn cô tưởng. Ngay cả khi Daisy đã nhiều lần cố gắng động viên, hâm nóng nguồn cảm hứng của cô, đâu đó giữa những mớ hỗn độn trong tâm trí cô, Viva vẫn mường tượng rằng, được sống dưới mái ấm tình thương Tamarind, chắc hẳn với đại đa số những đứa trẻ nơi đây, phải là niềm hạnh phúc vô biên, giống như một ý niệm thoáng qua trong cuộc đời mà hẳn mọi đứa trẻ nơi đây đều từng có lần mơ mộng đến. Giờ đây cô nhìn quan niệm ấy như một điều gì đấy ủy mị xen lẫn chút gì như ngạo mạn, kiêu căng. Một số đứa, đúng là như thế, đã rất mãn nguyện với đồ ăn thức uống hàng ngày cùng giường êm chăn ấm mỗi khi đêm về, những đứa còn lại đầy ắp âu lo khi phải sống ở một nơi là sự giao thoa giữa hai thế giới. Chúng nhớ cái nóng như thiêu như đốt, nhớ cuộc sống chật vật và hoang dại trong những khu ổ chuột. Chúng lo sợ đồng bào của mình vẫn mỗi ngày lê la trên phố ở ngoài kia sẽ nghĩ chúng là những kẻ “bán mình cho Chúa vì chút lợi lộc vật chất tầm thường”, sẵn sàng bán cả linh hồn mình cho một bữa ăn nóng sốt. Một số cậu bé đã thẳng thừng tuyên bố với Viva, rằng có thể lúc này chúng sống nhờ mái ấm của trung tâm này, nhưng chúng sẽ là những cậu bé đầu tiên của ngài Gandhi.

Nhưng bất cứ điều gì bọn trẻ kể ra đều được Viva quyết định ghi chép lại một cách trung thực, từng câu từng chữ một, góp nhặt ngày này qua ngày khác, những trang bản thảo mỗi ngày một dày lên trên bàn viết của cô. Daisy cũng từng gửi một số câu chuyện của bọn trẻ nơi đây cho một người bạn của cô là chủ một tòa soạn báo ở Macmillan, bạn của Daisy đã trả lời nếu cô có thể viết thêm được vài chương nữa và trau chuốt ngôn từ cho nuột nà, chắc chắn tòa soạn sẽ sử dụng chúng.

Giờ đây cô đã hết sức chú tâm vào công việc viết lách, cô đã xác định sẽ làm chuyện này thật nghiêm túc, và rồi khi cô ghé mắt lướt qua tờ Thư tín tiền phong đọc được mẩu thông cáo về Rose, vợ của ngài đại úy Jack Chandler đã sinh hạ một cậu con trai được đặt tên là Frederick, Viva thực sự kinh ngạc và choáng váng – ừm, chuyện này là như thế nào? Cô lập tức viết thư chúc mừng Rose đã mẹ tròn con vuông, gửi kèm một chiếc tã trẻ em cực kỳ xinh xắn, do một cô bé trong trung tâm tình thương làm. Cô quay trở lại với công việc, còn rất nhiều điều để viết trong cuốn sách trước khi cô đủ tự tin để gửi cho các nhà xuất bản. Tháng Chín trượt qua, rồi tháng Mười cũng nhanh chóng rơi lại sau lưng, rồi mùa đông kéo đến ngang qua trời Bombay, mang theo những ngày nắng đẹp, ấm áp, bầu trời trong sáng đến tinh khiết, cùng những buổi chiều tà hoàng hôn buông xuống nhanh đến không ngờ, cả những đêm liu riu gió lạnh quét từ trên dãy Himalaya xuống, cuốn qua đồng bằng Deccan rộng lớn để rồi giúp Viva có thêm một tấm chăn dày nữa đắp trên mình trong những đêm nổi gió. 

Đầu tháng Mười một, bọn trẻ bắt đầu háo hức bởi thời điểm trăng tròn sẽ sớm xuất hiện ở Kartika, điều đấy có nghĩa lễ hội lớn nhất mà chúng đang chờ đợi đang đến gần: Lễ hội Diwali, lễ hội ánh sáng của người Hindu. Diễn ra trong đêm tối trời nhất của năm, đánh dấu thời điểm bắt đầu của mùa đông, sự trở lại của hai vị thần Hindu, Sita và Sam, thời điểm đón mừng sự trở lại của ánh sáng sẽ xua tan màn đêm tăm tối.

Thứ Ba, ngày 3 tháng Mười một, đêm trước thời điểm lễ hội chính thức khai cuộc, một cậu bé tên Vijay được chọn đóng vai thần Ram, được kiệu vòng quanh căn phòng ngủ tập thể chật chội, với một thanh gươm làm từ giấy bìa cứng nắm chắc trong tay; China, một cô bé mồ côi đến từ Bandra, được chọn đóng vai nữ thần Sita.

Ít phút sau, có tiếng gõ cửa phòng Viva. Talika xuất hiện, lộng lẫy trong chiếc váy hội: bộ sari màu hồng đào, cánh tay nó đeo đầy những chiếc vòng được tết từ những nhánh cỏ, một lớp phấn côn đen nhánh đánh quanh mí mắt con bé. Đôi tai bé nhỏ của con bé trĩu nặng bởi những chiếc vòng gián dấy vàng chen nhau đeo kín trên mình. Khuôn mặt Talika rạng rỡ, đầy tự hào xen lẫn đôi chút thẹn thùng, Viva tiến tới định ôm con bé vào lòng nhưng nó đã lùi lại, nhất định giữ khoảng cách với cô. Tuần trước, có lần Viva hỏi Talika có nhớ chút gì đến vòng tay ôm ấp của mẹ nó nữa hay không, con bé đã trả lời cô như sau, đầy quả quyết, rằng “mẹ chưa bao giờ ôm cháu vào lòng cả. Mỗi lần từ nhà máy trở về, mẹ rất mệt mỏi”. Talika như một chú mèo hoang cô đơn bước đi trên đời.

Đứng cạnh Talika là Savit bé bỏng, cậu bé có một chân bị bỏng khá nặng, hôm nay Savit mặc một chiếc kurta mới tinh, một chiếc vương miện vàng chói đội trên đầu, Neeta đứng bên cạnh mặc một bộ sari màu tím cùng một sợi dây trang sức hình lưỡi liềm được kết từ những hạt nhựa màu đỏ giả hồng ngọc vấn trên đầu thõng xuống đung đưa ngang trán. 

“Trông cháu thế nào?”, Savit hỏi cô.

“Rất tuyệt”, Viva trả lời. “Giống hệt thần Ram”.

Thằng bé cười tít mắt, rồi nặng nề lê chiếc chân tật nguyền bước đi, trông nó có vẻ đang rất phấn khích.

Viva cùng bọn trẻ lang thang giữa những quầy hàng chất đầy kẹo ngọt, mứt cà rốt tẩm mật ong và những chiếc bánh ngọt điểm hạnh nhân thơm phức. Chiếc vương miện bằng giấy bìa cứng trên đầu Savit tả tơi sau một hồi chen lấn, nhưng thằng bé vẫn không chịu cởi ra khỏi đầu. Trong lúc tập tễnh bước bên Viva xuyên qua một đám đông huyên náo, Savit hổn hển thông báo với cô rằng Uma Ooma, vị thần nữ ánh sáng, đã hiện thân.

“Nữ thần ánh sáng xuất hiện xua tan bóng tối”, thằng bé tỏ vẻ hiểu biết.

Tiếng trống chợt dậy lên râm ran khắp mọi nẻo đường, tiếp theo là tiếng kèn trum-pet chói tai vút lên, rồi bất ngờ từ giữa biển người đang đu đưa lúc lắc đầu theo điệu nhạc xuất hiện một pandal gần như nghiêng hẳn sang một bên với một vị thần được trang trí cực kỳ lộng lẫy ngồi trên một chiếc kiệu, những vòng hoa mộc lan quấn dài quanh cổ, điểm xuyết thêm những cánh hoa hồng và hoa nhài thơm ngát. 

Một người đàn ông kiệu một đứa bé mập mạp trên vai chen lên phía trước đã cản tầm nhìn của Viva cùng những người đứng sau, không còn ai nhìn thấy thần Savit nữa, bọn trẻ vẫn kiên nhẫn chờ đợi.

Talika giật mạnh tay áo của Viva. “”Mamji, Mamji”, giọng con bé hào hứng. Mỗi khi phấn khích, Talika vẫn gọi cô bằng tiếng mẹ đầy trìu mến. “Lakshmi xuất hiện tối hôm nay”.

Lakshmi được xem là nữ thần tài của những người Hindu. Viva biết tối nay mọi cánh cửa ở Byculla đều mở rộng, chào đón sự viếng thăm của nữ thần Lakshmi. Rồi những chùm pháo hoa bất chợt vút lên giữa trời đêm ngập tràn ánh sáng: những vòng pháo hoa bừng nở ngập tràn không gian về đêm đậm màu da cam, tiếp đến là tiếng đạn pháo nổ tung giữa tầng không, soi sáng khuôn mặt của những đứa trẻ đang đứng quanh cô ngửa cổ say mê nhìn lên trời, từng khuôn mặt ngây thơ biến đổi theo sắc màu của những màn pháo hoa đang bừng nở trên trời cao; xanh, vàng rồi chuyển sang hồng tươi, đám đông khổng lồ trên phố cùng nghệt mặt há hốc miệng sững sờ trước màn pháo hoa ngập tràn màu sắc.

“Vui chứ?”, Daisy xuất hiện bên Viva từ bao giờ, lên tiếng. Một sợi kim tuyến quấn trên mũ của cô. “Chị hy vọng em sẽ đến dự bữa tiệc do chị tổ chức sau buổi tối hôm nay”.

“Chị thử cố ngăn không cho em đến đấy xem, Daisy”, cô trả lời, nhoẻn miệng mỉm cười. Sau một quãng thời gian dài vật lộn với công việc, trong buổi tối hôm nay, cô chợt thấy phấn khích, niềm hứng khởi tràn ngập trong cô, Viva có cảm giác cô đã sẵn sàng để tận hưởng niềm vui cuộc sống. 

Đến nửa đêm thì không khí lễ hội trên đường phố đã lắng xuống, cô dẫn bọn trẻ quay về trung tâm và đôn đốc chúng lên giường đi ngủ. Sau khi bọn trẻ đã ngoan ngoãn lên giường, còn lại một mình, Viva bước ra ngoài phố, từng tốp từng tốp người đang dật dờ kéo nhau quay về nhà trong làn khói mỏng tang mơ hồ bởi những màn pháo hoa đã bắn lên trời từ mấy tiếng trước hãy còn lẩn khuất trong lòng thành phố. Một con chó hoang cụp đuôi luồn lách sục sạo giữa một đống tạp nham bầy hầy dưới một chiếc bàn kê trên niễng.

Vừa bước chân từ trên hè xuống lòng đường, Viva nghe thấy tiếng chuông từ góc đường đối diện vọng lại, tiếp theo là tiếng bánh xe rệu rã nghiến trên đường, rồi một bàn tay khẽ chạm nhẹ vào cánh tay cô.

“Thưa quý cô”, một ông già nhỏ thó với đôi mắt mờ đục hình quả hạnh chỉ vào chiếc xe của ông ta. “Cô Barker sai tôi đánh xe đến đón cô. Xin mời lên xe”.

Ông già đánh xe lên đường, làn da nhăn nheo của ông khẽ cựa quậy, Viva lúc bấy giờ đã thấm mệt sau một buổi tối vui chân theo lễ hội cùng bọn trẻ, dựa lưng vào thành ghế, khép mắt mơ màng ngủ. Khi tỉnh giấc, cô khẽ kéo tấm vải mành che ô cửa sổ bé tí bên mình chiếc xe, nhìn ra ngoài đường. Chiếc xe đang lao vùn vụt trên con đường chật chội bẩn thỉu, hai bên đường phơi dày những áo quần đã được giặt sạch.

“Không phải lối này”, Viva đập cửa. “Cô Barker ở gần bệnh viện Mái ô kia mà. Làm ơn dừng lại”.

Nhưng chiếc xe vẫn vùn vụt lao về phía trước, ông già đánh xe vẫn ngồi im.

“Dừng lại!”, cô hét lên, đáp lại lời cô vẫn chỉ là tiếng bánh xe nghiến lên mặt đường rít rói. Tiếp theo là những tiếng động chói tai vang lên bởi va đập, tim cô đập rộn ràng khi nhìn ra ngoài, không một bóng người. “Xin lỗi! Xin lỗi”. Cô hiểu lúc này mình cần phải tỏ ra nhã nhặn với ông già đánh xe. “Đây không phải là nơi tôi muốn đến. Ông nhầm đường rồi”.

Viva cố nhổm người về phía trước, nhưng ngay lập tức cô đã bị ngã dúi về phía sau bởi ông già đánh xe lại thúc ngựa tăng tốc.

Chiếc xe tiếp tục chao đảo rẽ vào một con đường chật chội khác, bánh xe lăn lóc cóc trên những viên sỏi khiến hai hàm răng của Viva liên tục lập cập va vào nhau. Cô nhìn sang bên phải, chiếc xe đang băng qua khu ổ chuột mà người dân địa phương vẫn gọi bằng cái tên chawls, gồm những khu nhà xập xệ tạm bợ nơi đám công nhân lưu động vẫn thường trú ngụ. Ngoại trừ một ngôi nhà hãy còn le lói ánh đèn dầu tù mù hắt ra, còn lại đều chìm trong bóng tối đặc quánh. Một cú giật mạnh kèm theo một cú xóc đến chao đảo, chiếc xe ngoặt sang bên phải, tại một góc đường Viva nhìn thấy hai cô gái mặc sari đang đứng lẩn khuất trong quầng sáng vàng vọt hắt ra từ những ô cửa sổ có lưới sắt bao bên ngoài của tòa nhà sau lưng. Những cô gái điếm, Viva nhủ thầm.

Chiếc xe đột ngột dừng lại, đôi mắt trắng dã lờ đờ dán vào tấm màn cửa sổ, Viva nhìn thấy rõ cả hàm răng xỉn màu trầu đang nhăn nhở ngoài cửa xe.

Một luỡi dao sắc lạnh dí vào thái dương Viva.

“Ra ngoài”, một giọng nói lạnh lùng vang lên.

Không có dấu hiệu nào cho thấy lễ hội Diwali từng tồn tại ở đây, không một chút màu mè trang điểm nào xuất hiện, chỉ bầu trời nhạt nhòa màu da cam bao trùm lên những ngôi nhà ổ chuột xiêu vẹo im lìm trong bóng tối.

Người đàn ông ép cô đi vào một ngõ hẹp, Viva bước phía trước ông ta. Bên tay phải là một cống thoát nước dậy mùi hôi thối của chất thải, giữa những đống rác cao ngất là những mảnh vỡ của một chiếc xe đạp nằm chỏng chơ, thêm những khúc xương của một loài vật nào đấy có kích thước trung bình nằm vương vãi xung quanh, có lẽ là xương lừa. Viva bắt gặp những ánh mắt sắc lạnh ẩn nấp sau những vách cửa dán vào mình khi cô bước ngang qua.

Viva dỏng tai, cố gắng lắng nghe những âm thanh lộn xộn phát ra sau những ô cửa sổ xập xệ hai bên ngõ hẹp: tiếng trẻ con khóc, tiếng leng keng của chai lọ va vào cạnh bàn, tiếng nhạc dậm dật… Người đàn ông liên tục thúc mũi dao vào sau lưng cô, đau điếng, miệng không ngớt lầm bầm, “Gora”, – đồ ngoại quốc – ngôn từ tục tĩu cô vẫn thường nghe mấy đứa trẻ bụi đời lang thang ngoài đường phố thốt lên với những người nước ngoài.

Cuối con ngõ, ông già đánh xe dừng lại trước một ngôi nhà chật chội, cánh cửa chắc nịch đóng kín. Mấy ô cửa chớp trên đầu nhờ nhờ bụi bám, bên trong căn nhà tối như bưng.

“Dừng lại”, người đàn ông nói.

Cửa nhà được mở. Một cánh tay lôi tuột cô dọc hành lang chật chội lúc bấy giờ đã được một ngọn đèn dầu tù mù thắp sáng. Có tiếng bước chân nhè nhẹ lọt vào tai Viva. Ai đấy túm lấy tóc cô giật ngược trở lại, trước khi cô kịp hét lên, một búi giẻ đậm mùi dầu máy tống thẳng vào miệng Viva.

Một cánh cửa được mở ra, cô bị dúi một cách thô bạo vào khoảng không tối sầm và ẩm ướt bên trong, đầu cô va phải vật gì đấy cứng như gỗ, có thể là một chiếc ghế hay một cánh cửa sổ. Viva nghe thấy giọng của một người đàn ông hét lên, tiếng ghế nghiến kèn kẹt lên nền nhà khi cô ngã xuống. Điều cuối cùng cô lờ mờ nhận thấy là cảm giác thắt chặt bởi sợi dây thừng buộc cứng quanh cổ tay rồi lồng lên tận cổ, rồi một cú đập mạnh vào đầu, trước khi chìm dần vào bóng tối, Viva mơ hồ cảm nhận được mùi vị lạnh tanh của kim loại xộc vào mũi.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận