Phía Đông Mặt Trời

Chương 58


Cô và Frank quay về khi bóng tối đã tràn ngập không gian. Ánh sáng tỏa ra từ cây đèn dầu trong tay anh lướt qua những hàng dương loang loáng, bập bùng trên đỉnh điện thờ, cả một khúc sông bừng lên như dát bạc. Tay trong tay, cả hai dắt nhau trên con đường đất đỏ trở lại nhà Tor nơi mọi người đang chờ họ cùng chung vui trong bữa tối. Đến gần cây cầu gỗ, anh dừng lại kéo cô vào sau một bụi hoa nhài, đặt lên môi cô một nụ hôn ngọt ngào kéo dài tưởng chừng đến bất tận, ngay cả giờ đây mỗi lần nhớ lại khoảnh khắc ấy, cô vẫn còn nguyên vẹn cảm giác run rẩy nơi đầu gối, gần như quỵ ngã trong vòng tay anh.

Khi cả hai dắt nhau về đến nhà, ngôi nhà lúc này đang bừng sáng bởi hàng trăm ngọn đèn Giáng sinh được thắp lên trên mọi ngóc ngách. Có tiếng nhạc xung quanh ngôi nhà, trong ánh sáng lung linh đêm Giáng sinh và dưới tiếng nhạc dìu dặt, ngôi nhà trông giống như một con tàu thường được dùng để du ngoạn đó đây đang chuẩn bị xuyên qua màn đêm đặc quánh với những rừng cây mơ bóng lặng im phăng phắc vây quanh.

Mọi người dùng bữa tối trong phòng ăn nho nhỏ, Tor và Rose đã khéo léo trang trí bằng những cây nến cùng một giỏ hoa tươi trên bàn ăn. Với những người bạn vây quanh, ly sâm banh sóng sánh trong tay và Frank rạng ngời dưới ánh nến ngồi sát bên cạnh, niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng cô.

Thật kỳ lạ, trong chính phút giây ấy, cô chợt nhận ra một điều, rằng có thể nguồn năng lượng đang tuôn trào trong thời khắc ấy chính là một phần của cô để dành cho cả quãng đời còn lại. Nó sẽ ở đấy vì cô, tất nhiên không phải lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng đấy chính là điều mà cô có thể quay đầu nhìn lại và vững tin ở nó. Những điều mà cô hoàn toàn hiểu được trong con người mình – cô cảm nhận được sức mạnh mãnh liệt của yêu thương đang trào dâng trong lòng mình. 

Ba tuần sau, cô cùng Frank chuyển đến một căn hộ ở Colaba. Một căn hộ ba phòng nhỏ với giá thuê một trăm ru pi, khoảng mười bảng một tháng. Có một ban công lắp kính ở phía trước, đứng ở đây nếu nhón chân nhìn sang bên phải cô có thể nhìn thấy biển, với những cánh buồm và cả hòn đảo có hình thù của một con voi mờ mờ ẩn hiện trong màn sương phảng phất.

Đấy là hòn đảo nơi có những hang động hãy còn lưu giữ gần như nguyên vẹn những bức tượng thần Shiva và Parvati được chạm khắc trên vách đá có từ thế kỷ thứ VI mà Tor đã có lần gọi bằng hai tiếng “cực sốc” khi kể cho cô nghe. Khổng lồ, tráng lệ, những bức chạm trổ các vị thần đang ở các tư thế giao hoan, chơi trò xúc xắc, đang cãi vã và đang ngửa đầu cười lớn. Ngay chính giữa hang là một bức tượng dương v*t bằng đá khổng lồ và đầy ắp sinh khí, đã được xác nhận, không một chút ngượng ngùng xấu hổ: rằng đấy chính là sự sống, là nơi chúng ta xuất hiện trên cõi đời này. Tại đây những người huớng dẫn đã cho đặt một cái giường khá rộng, rất nhiều người biết ý nghĩa của nó, ngay cả cánh đàn bà con gái đến từ nước Anh vốn dĩ rất tế nhị trong những vấn đề nhạy cảm.

Đến với hệ thống hang động trên hòn đảo, du khách sẽ được trải nghiệm một số hành trình: leo núi, vượt thác và thám hiểm hang động. Không dễ dàng chút nào, nhưng cô và anh đã hai lần đến đấy, một bữa trưa ngoài trời, ngay trên đảo. Trong men say tình yêu ửng hồng đôi gò má, cô âu yếm chuẩn bị đồ ăn cho anh, cô là ủi quần áo cho anh, hôn nhẹ lên những chiếc cổ áo, nom cô rõ buồn cười trong men say tình yêu.

Những ngày trời nóng, Viva ngồi trên ban công, dưới bóng mát của một khóm tre, dõi mắt ra xa qua biển nước lấp lánh ánh nắng như dát vàng nhìn về phía hòn đảo. Vừa gõ bàn phím máy chữ vừa quan sát, đôi mắt cô lướt qua hòn đảo, qua bến cảng, những con tàu tấp nập vào ra.

Hoàn thành cuốn sách gần như là điều kiện của cuộc hôn nhân của cô. Cô đã bắt tay viết lại từ đầu kể từ khi ở Amritstar trở về bởi hầu hết bản thảo của cuốn sách đã bị xé nát. Anh động viên cô thử viết thêm một lần nữa.

Vài ngày sau, khi quay trở lại với công việc dang dở ở mái ấm tình thương, cô tìm thấy xấp bản thảo với những trang giấy rách nát và nhàu nhĩ nằm trong ngăn kéo của chiếc bàn kê trong phòng ngủ của cô, Daisy đã cẩn thận lựa những trang bản thảo đã bị xé nát và những trang bị gạch xóa nhòe nét chữ đặt vào trong một chiếc phong bì để cô có thể dễ dàng tìm thấy chúng.

Khi bọn trẻ được thông báo những câu chuyện cuộc đời của chúng sẽ tiếp tục được viết thành sách, niềm háo hức phấn khích lập tức sống lại trong chúng, bọn trẻ lại bắt tay vào vẽ những bức tranh minh họa cho cuốn sách và miệt mài làm thơ ca ngợi. Chúng giúp cô dán lành những trang bản thảo đã rách, điền vào những chỗ trống bị khuyết chữ. Có tay bọn trẻ giúp đỡ, công việc trở nên nhẹ nhàng hơn bao giờ hết.

Đến ngày 12 tháng Tư năm 1930, cô đã đánh xong những chữ cuối cùng trong cuốn sách. Chuyện kể ở phố Hàng me: Mười đứa trẻ mồ côi ở Bombay kể chuyện đời mình.

Frank, thời điểm này đã quay lại làm việc theo ca ở bệnh viện Gokuldas Tejpal chờ dự án nghiên cứu mới của anh bắt đầu khởi động, đang nằm ngủ trong nhà khi cô đánh xong những chữ cuối cùng của cuốn sách. Cô đứng dậy vặn vẹo cơ thể cho giãn xương cốt sau quãng thời gian ngồi làm việc dài dằng dặc. Ôm gọn xấp bản thảo mới trong lòng, cô bước vào nhà, đặt cuốn sách lên bàn và leo lên giường nằm xuống cạnh anh.

“Đã xong”, cô nói. “Em đã hoàn thành cuốn sách”.

“Tuyệt”, anh khen ngợi. Frank ôm gọn lấy cô trong vòng tay rắn chắc của anh. “Tuyệt”, anh tiếp tục thì thầm với cô.

Đôi mắt anh ươn ướt, mắt cô lại dâng lên những lệ. Anh hiểu sau bao thăng trầm, cuốn sách hoàn thành có ý nghĩa với cô đến nhường nào.

Nằm gọn trong vòng tay chở che của anh, cô nghe lòng mình nhẹ bẫng. Thực sự, đấy quả là một điều kỳ diệu. Cứ như thể lồng ngực cô vừa được giải thoát khỏi sức đè trĩu nặng của một tảng đá. Có quá nhiều thay đổi đã đến trong cuộc đời cô.

Sáng hôm sau, Frank phải vào ca ở bệnh viện. Cô thức giấc cùng anh lúc năm rưỡi sáng, xuống bếp chuẩn bị bữa sáng gồm mấy quả trứng bác cho anh. Sau bữa sáng, cả hai kéo nhau ra ban công ngồi nhâm nhi những tách cà phê ngút khói, im lặng ngắm những đoàn thuyền đánh cá đang lặc lè trở về neo đậu trên bến cảng sau một đêm miệt mài đánh bắt. Phía sau đoàn thuyền đánh cá, ngay trước đường chân trời, bóng dáng con tàu chở khách khổng lồ của hãng vận tải P&O đang rẽ sóng lướt những hải lý cuối cùng trong hành trình đến Ấn Độ của nó. Cứ hai tháng một lần, con tàu lại xuất hiện mang theo những hành khách mới. Bóng dáng con tàu mỗi lúc một rõ dần, cô nhớ lại cái ngày đã đứng trên boong tàu cùng với những người bạn đồng hành: Tor và Rose, Frank và Guy, cả Nigel khờ khạo nữa, chàng công chức trẻ tuổi đã đọc cho mọi người nghe những vần thơ hừng hực sức sống trong bài “Ithaka”, giờ này đang phiêu dạt đâu đó rất xa – Nigel đã tự tử vào một ngày buồn thảm trong mùa mưa hiu hắt đến tê tái ở Chittagong, một kết cục đúng như chàng trai đã có lần dự đoán về số mệnh của mình. “Ôi xấu hổ quá, ôi thật ngượng ngùng”, hôm ấy trên boong tàu, mọi người đều đồng thanh gào toáng lên để trêu chọc Nigel.

Cô nhớ bài thánh ca mơ hồ mà cô đã hát, những âm thanh nghẹn ngào của cây đàn đạp hơi, khuôn mặt xanh xao hãy còn đậm nét thơ ngây của Rose, cô nhớ cả Guy đáng thương – thật khó có thể tưởng tượng được giờ này nó đang trải qua những tháng ngày luyện tập trên thao trường ở nước Anh xa xôi.

“Anh đã chọn ra một số trang bản thảo tốt nhất để riêng trên bàn mình”, Frank nói với cô. Hai người đã trao đổi với nhau để tìm ra cách an toàn nhất gửi cuốn sách của cô về London. “Anh sẽ giúp em gói ghém cẩn thận và nếu em đồng ý, chúng ta có thể gửi qua Thomas Cook”.

“Vâng”, cô trả lời anh. Niềm hân hoan tràn ngập lòng cô, cảm giác hoan hỉ khuây khỏa bởi vừa hoàn thành xong cuốn sách. Anh nhìn thấy những gì cô cần, những điều mà cô không hề mường tượng ra được. 

Ba tuần sau, cả hai đi đăng ký kết hôn ở Văn phòng đăng ký Bombay. Tất cả các nhà thờ đều đã được đặt chỗ trước vào cuối tuần, điều ấy cũng không ảnh hưởng đến hai người bởi dẫu sao thì cả anh lẫn cô đều không phải là những người theo đạo một cách chính thức. Cả hai quyết định sẽ đón tiếp khách mời tại mái ấm tình thương Tamarind, nơi vẫn tiếp tục hoạt động, bởi một phép lạ nào đấy, trước những lời đe dọa đóng cửa được đưa ra từ tháng Sáu năm ngoái của các thế lực đen tối. 

Buổi sáng trước lễ thành hôn, đầu óc nửa tỉnh nửa mơ, nỗi đau đớn quặn thắt quen thuộc ngày nào chợt trào lên trong cô: nhẽ ra trong ngày vui của cô, Josie và bố mẹ cô phải có mặt để chứng kiến, nhưng những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của đời người đang trôi qua trong tĩnh lặng. Những gì đã khiến cô phải đến tận đây để tìm hiểu, những gì mà Ấn Độ kỳ diệu đã giúp cô tìm thấy, ấy chính là niềm thương xót tiếc nhớ không bao giờ được xem là một tội ác. Đấy không phải là cảm giác đang nhặng xị tiếc nuối cho chính mình trong con người cô lúc này, hay trở thành một kẻ chỉ biết quan tâm đến bản thân mình một cách thái quá, đấy chính là những điều mà bạn phải làm để tiếp tục trên cõi đời này.

Và cô hiểu hơn bao giờ hết, trong suốt quãng đời còn lại của mình sẽ có những khoảnh khắc – như ngày hôm nay chẳng hạn, hoặc khi những đứa con của hai người chào đời, hoặc những khi mẹ con cô quây quần bên nhau và cô kể cho những đứa con thân yêu của mình nghe về những câu chuyện vụn vặt đã xảy ra trong cuộc đời mẹ chúng – ấy là khi yêu thương trong cô đang trào dâng đến bất tận, cô sẽ yêu những đứa trẻ của mình bằng tất cả máu thịt trong con người cô.

Ngoài cô và anh, còn có thêm ba người nữa đi cùng đến Văn phòng đăng ký kết hôn: Daisy, đội một cái mũ màu tía và đôi giày lỗi mốt, vợ chồng Tor và Toby đã bắt xe lửa từ Amritstar đến bởi chiếc Talbot già nua cuối cùng cũng đã biến thành một khối sắt gỉ vô dụng, vả lại bọn họ cũng chẳng đủ tiền để lấy một chiếc xe khác khá khẩm hơn. Tor là người đầu tiên bước xuống xe ngựa, lập tức nhảy cẫng lên khi nhìn thấy Viva từ xa. Khi trao cho cô một vòng tay ôm siết chặt đầy chân tình, Tor thì thầm vào tai cô tin vui, rằng hai vợ chồng đã có em bé từ dạo tháng Mười. 

Rose không thể có mặt. Trong thư phúc đáp lời mời dự lễ thành hôn của Viva, Rose cho biết cô phải lên tàu trở về nước Anh, bố cô đã lìa trần trước lễ Giáng sinh vài ngày. Khi Rose nhận được tin từ quê nhà thì người bố thân yêu của cô đã ra đi được sáu tuần. Sáu tuần! Hẳn Rose phải đau đớn đến nhường nào khi nghĩ đến cảnh mẹ cô một mình gánh chịu nỗi buồn thương suốt ngần ấy ngày. 

“Em ở lại vài tháng để giúp mẹ gói ghém dọn dẹp cửa nhà”, trong thư Rose viết, “và để bà làm quen với Freddie”.

Jack, thư Rose viết, sẽ ở lại Ấn Độ. Rose cũng cho biết có thể anh sẽ thu xếp để đến chung vui cùng cô và Frank.

“Chắc cậu ấy sẽ không đến được”, Viva nói với Frank. “Bannu cách đây cả ngàn dặm, vả lại cậu ấy lúc nào cũng bận rộn với nhiệm vụ”.

“Em không bao giờ hiểu được đâu”, Frank nói với cô. “Cậu ấy đang rất cô đơn khi không có chúng ta bên cạnh”. Thực lòng, Viva không dám chắc về điều Frank vừa nói với cô.

Nhưng khi cô và anh dắt nhau đến buổi tiệc tiếp đón khách khứa tại mái ấm tình thương trên phố Hàng Me, Jack đã có mặt ở đấy từ bao giờ. Gầy gò và trông già dặn hơn trước, Jack đứng tách biệt khỏi bọn trẻ và hai vợ chồng nhà Toby và Tor, lúc bấy giờ đang xăng xái tung liệng những cánh hoa giấy lả lướt lên đầu đôi tân nương tân lang. Khi cô đưa tay khẽ vẫy chào Jack, anh bẽn lẽn đưa tay chạm nhẹ vào vành mũ chào lại, niềm vui trong lòng Viva như được nhân đôi khi cô nhìn thấy Jack tại lễ thành hôn của mình.

Không còn thời gian để trò chuyện, Talika, Suday và bọn trẻ ríu rít nói cười kéo tay cô đi về căn phòng cũ cô đã ở trong những tháng ngày khó khăn nhất kể từ khi trở về Ấn Độ, nơi có ô cửa sổ nhìn ra tán me xanh mướt phía ngoài sân. Đám bé gái diện cho cô chiếc váy màu xanh lá non, râm ran dành nhau giải thích với Viva, rằng màu xanh luôn là màu hy vọng của các cô gái đến từ xứ sở Maharashtra trong ngày trọng đại của đời mình. Chúng đeo lên cổ tay cô những xâu vòng được kết từ những hạt thủy tinh màu xanh như ngọc, nhẹ nhàng cởi đôi giày kiểu phương Tây đang đi dưới chân cô, giúp cô kỳ cọ từng hạt bụi còn bám trên bàn chân rồi thận trọng đeo lên ngón chân cái của cô một chiếc nhẫn bạc xinh xắn. Sau đấy chúng cẩn thận chải mái tóc vàng mượt của cô, náo nhiệt đuổi bắt nhau chạy quanh chỗ cô đang ngồi. Viva cảm thấy nhẹ lòng trở lại, như thể cô và bọn trẻ được nhấc bổng khỏi mặt đất là đà trên những tàng cây chót vót phía ngoài xa, chao liệng như những cánh diều, tự do như những cánh chim, nghe lòng phơi phới niềm vui. 

Ngoài sân tiếng trống bắt đầu nổi lên, xen lẫn là những âm thanh réo rắt trầm bổng của tiếng sáo. Một đống lửa được nhóm trong lò than mang ra đặt giữa những hàng đá lát.

Talika chạy ra phía cửa sổ nhìn ra ngoài. “Mọi người đang chờ chúng ta đấy”, con bé hối hả giục.

Viva nhìn con bé, nhớ lại một Talika bé tẹo gầy yếu đến thê thảm khi cô cô tắm cho nó trong ngày thứ hai con bé ở nhà tình thương. Con bé đáng thương, vào cái ngày mà tấn thảm kịch đổ xuống, nó đã phải gồng mình đến thế nào để gánh vác nỗi bất hạnh to lớn gấp đôi cơ thể nhỏ bé đang đè nặng lên đôi vai mảnh mai của nó, cũng chính từ khoảnh khắc ấy, cô đã xác định mình phải làm điều gì đấy giúp chúng. 

Đôi mắt Talik vụt rạng rỡ khi con bé nhẹ nhàng nâng cao vạt sari của cô. Trên đường dẫn cô dâu ra ngoài, con bé phải nói nhanh cho cô biết thông tin mới. Talika tiết lộ với Viva, rằng nó đã bí mật tiến hành một buổi cầu nguyện thần Shiva và mong cho Viva có thể tìm được một người chồng tốt bụng, sẽ yêu thương cô suốt đời, cả chuyện nó đã vẽ một bức tranh dành tặng cô và hy vọng bức tranh sẽ được cô đưa vào trong cuốn sách. Nhìn sâu vào đôi mắt đầy ắp niềm háo hức mong đợi ấy, trong phút giây thoáng qua, Viva chợt nhận ra, cô nợ bọn trẻ nơi đây nhiều đến nhường nào, dưới mái ấm đơn sơ này, cô đã học được những bài học cuộc đời quý giá từ chúng.

Thêm một ngạc nhiên nữa dành cho Viva khi cô bước chân ra ngoài sân: Ông Jamshed, trông hồng hào hơn trước, xúng xính trong chiếc áo khoác dài khuyết tay thêu thùa hoa văn sặc sỡ từ trong đám đông khách khứa bước ra tiến về phía trước, trao tặng cô một bó hoa cùng một hộp quà gói theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ nom rõ vui mắt. Đứng bên cạnh ông là bà Jamshed đang kính cẩn bê trên tay một đĩa đồ ăn trông giống như một đĩa cơm thập cẩm được chuẩn bị hết sức cầu kỳ, nấp sau lưng bà là hai cô con gái Dolly và Kaniz, mái tóc mới tỉa đầy sức sống, xinh đẹp như những người mẫu vừa bước chân từ trên trang bìa của tạp chí Vogue xuống trong những chiếc váy lụa và những đôi giày khuy bấm tao nhã. Hai cô gái rướn đầu về phía trước, miệng cười toe toét.

Không hiểu vì lý do nào đấy, gia đình ông bà Jamshed đã tha thứ cho cô. Hơn cả sự tha thứ. Daisy tiết lộ với Viva, sáng hôm nay bà Jamshed đã có mặt ở mái ấm từ rất sớm để giúp cô giám sát công việc bếp núc: món cá tẩm bột cà ri dọn trên những khoanh lá chuối tươi xanh như ngọc, đầy đủ các loại bánh pakwan, các món ngọt, modak và bánh bao cùng cơm dừa, tất cả được bày biện trên một dãy bàn kéo dài đến tận cuối sân. 

Bữa tiệc kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ, kết thúc bữa tiệc, phía sau tấm mành trúc mỏng manh che hờ trước hiên chợt vang lên tiếng cười nói khúc khích xen lẫn với tiếng cãi cọ xôn xao, rồi Talika nhanh chóng xuất hiện trước đông đủ khách mời, rạng rỡ trong bộ sari màu vỏ quýt.

Con bé khẽ hắng giọng.

“Thưa cô Wiwa, sau đây là món quà bọn cháu dành tặng riêng cô, một điệu múa tập thể đã được bọn cháu bí mật luyện tập suốt mấy ngày qua”. Talika nghiêm sắc mặt khẽ liếc mắt vào trong cánh gà, nơi nhóm múa gồm những cô bé trạc tuổi nó đang sẵn sàng bước ra sân khấu biểu diễn. Các cô bé xúng xính trong những bộ sari màu đỏ tươi, màu hổ phách hay màu da cam. Hàng chục chiếc chuông nhỏ xíu đeo quanh cổ chân chúng đồng thanh ngân lên tạo thành những tràng âm thanh lảnh lót đến lạnh sống lưng khi bọn trẻ dàn hàng rồi quây tròn quanh khoảng trống dưới một gốc me. Các cậu bé đi phía trước mở đường cho đội múa. Âm nhạc chợt nổi lên: Suday mũm mĩm chơi trống cơm, một nhạc công chơi kèn trum-pét được mời từ Byculla đến. Rất nhanh chóng, tiếng nhạc và những bước chân rộn rã như muốn nổ tung cả khoảng sân chật chội, các cô gái bắt đầu nhún nhảy và xoay tròn theo điệu nhạc, những bàn tay búp măng thon dài cong cong khẽ vờn trong gió. Khi tiếng nhạc nhỏ dần, tiếng hát non nớt của Talika ngân lên mang theo bao kỷ niệm ùa về trong lòng Viva:

Aaja Sajan, ơi Aaja.

Aaja Sajan, ơi Aaja. 

Hãy đến bên anh, người yêu dấu hỡi

Hãy đến bên anh, người yêu dấu hỡi

Hãy đến bên anh…

Bàn tay Frank tìm đến nắm chặt bàn tay cô, Viva biết anh đang muốn trao cho cô một nụ hôn chan chứa yêu thương, nhưng cả hai đành dặn lòng kiềm chế, bởi không muốn bọn trẻ nhìn thấy những hình ảnh thuộc về người lớn và rồi chúng có thể choáng váng. Chân trần, cả hai sánh bước bên nhau quanh đống lửa linh thiêng bốn lần, thầm nguyện cầu cho nhau về một cuộc đời bình an, vững bền, thanh bình và đầy ắp yêu thương.

Sau nghi lễ, Viva định bụng sẽ đến bên Jack, lúc bấy giờ đang ngồi tách biệt khỏi đám đông, vẻ mặt đầy thận trọng, để hỏi thăm anh chàng vài câu. Nhưng khi cô vừa ngồi xuống bên cạnh Jack, cô chợt nhận ra chàng quân nhân người Anh trước mặt mình thực sự đang gồng mình cố gắng kiểm soát những cảm xúc mạnh mẽ chực bùng lên trong lòng. Không ngớt nuốt nước bọt và hắng giọng liên tục, hai cánh tay rắn rỏi của Jack vặn chặt vào nhau, mồ hôi túa ra ướt đầm cả vạt lưng áo rộng lớn. 

“Rất tốt”, Jack nghiến răng nói với cô. “Hạng nhất đấy nhé”.

“Tôi ước gì hôm nay Rose có thể có mặt ở đây”, cô phớt lờ mấy lời vừa thốt ra từ miệng Jack. “Tôi không nghĩ mình lại có thể có ngày hôm nay mà không có mặt Rose chung vui”.

“À, tốt”. Jack liếc nhanh sang cô. “Cô có nhận được thông tin gì về cô ấy không?”, Jack hỏi. Miếng bánh mì nướng vỡ vụn trong lòng bàn tay anh.

“Không nhiều nhặn gì”, cô trả lời. “Chỉ vài dòng ngắn ngủi đến từ tuần trước”. Với những nét chữ nghuệc ngoạc, hấp tấp, lấm lem màu mực.

Viva yêu quý. Em thấy mừng và hạnh phúc cho chị. Em nhớ tất cả mọi người. Yêu nhiều. Rose. Một bức thư theo kiểu cho tròn trách nhiệm, không tin tức, khiến Viva có cảm giác Rose vẫn bình thường và đã thực sự trở lại với vỏ bọc ngày nào của cô.

“Cô ấy không kể gì nhiều”. 

“Không”. Jack dán mắt vào chấm đên trên đầu cô. “Giai đoạn khó khăn. Tôi nghĩ thời điểm này mẹ của Rose đang rất cần cô ấy ở bên cạnh, mà nhiệm vụ ở trung đoàn mỗi ngày một nặng nề, thế nên tôi gần như không thể thu xếp để quay về nước Anh một thời gian. Thế…”, Jack nhìn thẳng vào mắt cô. “Còn cô thì sao? Vợ chồng cô định sẽ sống ở đâu?”.

Cô kể với Jack về dự định chuyển đến sống tại Lahore – ngay sau khi tiền bản quyền cuốn sách của cô được gửi sang, dự án nghiên cứu căn bệnh sốt rét của Frank sẽ tiếp tục được tiến hành trở lại trong mùa hè này. “Tôi đã”, Viva quả quyết, “xác định sẽ theo Frank đến đấy” – giờ thì cô có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu. 

“Ừ, hãy cứ đi”, Jack lẩm bẩm, đôi mắt anh nhìn cô đầy ngạc nhiên. “Sẽ là vô nghĩa khi mỗi người một nơi. Hai người phải sống bên nhau. Tôi đã không làm được điều ấy. Tôi…”, mấy lời cuối cùng Jack lung búng trong miệng nên Viva không thể nghe rõ. Tiếng trống đột ngột dậy lên khiến cả hai sao nhãng. Giữa sân Suday bắt đầu quay cuồng với chiếc trống cơm trong tay; bọn trẻ đồng thanh phùng mang trợn mắt ghé miệng thổi mạnh vào những ống tiêu trong tay để phụ họa cho thằng bé, mấy đứa còn lại túm tụm quanh chú ngựa hình nộm làm bằng giấy bồi bình phẩm, thậm chí có đứa còn lôi một chiếc lược ra chải bờm cho chú ngựa giấy. Frank tiến về phía cô, anh cười lớn, đặt một tay quanh eo cô, tim Viva lại bừng dậy đập rộn ràng trong lồng ngực, cô cảm nhận được nguồn sống mạnh mẽ đang trào dâng trong lòng mình.

Ánh nắng phản chiếu lấp lóa trên cặp mắt kính của Daisy, cô đang đứng trên một chiếc hộp gỗ được trang trí bởi những hoa văn bằng giấy kếp đủ màu sắc sặc sỡ. Khuôn mặt Daisy bừng lên rạng rỡ, cô gõ nhẹ chiếc thìa quấy trà trong tay lên chiếc ly thủy tinh theo nhịp trống của Suday. Tor đứng bên cạnh Daisy khẽ nháy mắt với Viva.

“Xin lỗi mọi người, cho phép tôi được làm phiền một chút”. Daisy, đầu ngẩng cao, kêu váng lên rồi im lặng chờ cho đám đông khách khứa ổn định trở lại. “Hôm nay là một ngày tràn ngập những tin tốt”, Daisy tiếp tục nói lớn. “Bác sĩ Frank và cô Viva chính thức trở thành vợ chồng, mặt trời rạng rỡ hơn bao giờ hết, chúng ta đang được thưởng thức bữa tiệc của cuộc đời. Thời điểm khó khăn rồi sẽ đến”. Dứt lời, Daisy nhắm nghiền hai mắt, mọi người đều hiểu cô đang dành hết tâm trí của mình cho số phận của mái ấm. “Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ đơn độc trong cuộc đời”.

“Yên nghe! Nghe nào!”, Toby la lớn.

“Chúng ta mắc nợ nhau nhiều lắm”, giọng Daisy đột nhiên chùng xuống. “Chúng ta nợ các cháu rất nhiều”, cô hướng về phía bọn trẻ. 

Và Talika, sau khi nhận được vài cú thúc khích lệ từ sau lưng của bà Bowman, rụt rè đứng dậy bước chân lên chiếc hộp gỗ lúc bấy giờ đã được Daisy nhường chỗ.

“Tiếp theo cháu xin đọc một bài thơ bằng tiếng Phạn”, con bé nói, rồi rướn cổ hít một hơi thật sâu.

Hãy nhớ ngày hôm nay, giọng Talika lảnh lót vang lên.

Vì tình yêu cuộc sống.

Giữa những lời dối trá

Về sự thật cuộc đời.

Vì hôm qua chỉ còn là kỷ niệm

Vì ngày mai, những viễn cảnh của tương lai.

Một cơn gió bất ngờ thốc từ trên những tán me xanh um xuống cuốn bài thơ của Talika đi xa, chỉ còn lại tiếng hàng me xạc xào trong nắng, vài giây sau chợt dậy lên những tiếng rống inh tai của một chú lừa từ ngoài phố vọng vào, bất giác bọn trẻ cùng cười vang.

“Hãy nhớ ngày hôm nay”. Talika cố rướn cổ ngân dài câu thơ cuối cùng với hy vọng mọi người có thể nghe rõ những gì nó nói, không gian trong sân chợt chùng xuống, im ắng đến nao lòng.

Tất cả chợt vỡ òa, mọi người đồng thanh dành tặng Talika những tràng pháo tay vang dội. Con bé nhảy khỏi chiếc hộp, nhét đôi cánh tay khẳng khiu vào trong vạt sari, đôi má vụt ửng hồng, mái đầu con gái khẽ lắc lư thẹn thùng.

Viva đưa mắt nhìn Tor lúc bấy giờ đang liếc về phía cô, miệng nhoẻn cười hạnh phúc. Hình ảnh những con sóng duềnh dàng cuộn lên giữa biển nước mênh mang, bầu trời trong xanh lồng lộng trên cao chợt ùa về trong cô. Những tháng ngày kỷ niệm đã trôi qua không bao giờ trở lại, bất chợt Talika từ phía sau chạy đến rụt rè nắm lấy những ngón tay cô giật nhẹ. Mọi người tiếp tục ào ra sân nhảy múa, cuộc vui chỉ mới bắt đầu. 

Hết.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận