Hai người trở xuống dưới tiền sảnh. Billy mừng thầm khi cô đồng ý tiếp tục hợp tác. Dù đây là đâu đi nữa thì cũng không tốt lành gì. Cô ta non kinh nghiệm, nhưng ít ra cũng không ấm đầu.
”Chúng ta nên chia ra,” Rebecca nói.
Billy nặn ra một nụ cười chẳng có chút xíu gì là hài hước. ”Cô bị ấm đầu hả? Cô có coi phim kinh dị bao giờ chưa? Thêm nữa, thử nhớ lại xem chuyện gì đã xảy ra lần trước?”
”Chúng ta đã tìm được khóa mở cái cặp, nếu tôi nhớ không lầm. Và điều chúng ta cần lúc này là tìm đường thoát khỏi đây.”
”Phải, nhưng cô còn sống,” Billy nói. ”Nhìn qua cũng biết chỗ này đầy rẫy cạm bẫy. Lúc trên tàu tôi đề nghị đình chiến, bởi vì tôi không muốn chết, được chưa?”
”Anh đã tự xoay sở rất tốt đó thôi,” cô đáp. “Tôi đâu có nói là chúng ta nên đâm đầu vào rắc rối. Chỉ là mở vài cánh cửa. Với lại chúng ta có bộ đàm mà.”
Billy thở dài. ”S.T.A.R.S. không dạy cô cách hành động theo nhóm à?”
”Thực ra, đây là nhiệm vụ đầu tiên của tôi,” Rebecca nói. ”Coi nào, chúng ta chỉ việc nhìn quanh, và gọi cho nhau nếu tìm được gì đó. Tôi sẽ lên cầu thang, anh kiểm tra dưới này. Trường hợp bộ đàm hỏng, gặp lại tại đây sau hai mươi phút nữa.”
”Tôi không ưa chút nào.”
”Anh không cần ưa, chỉ cần làm thôi.”
”Sir, yes, sir,” Billy đứng nghiêm. Cô ta có khuynh hướng muốn lãnh đạo, vậy thì cứ cho cô ta làm vậy – mặc dù có lẽ không quá khó khăn để ra lệnh cho một tên tử tù, trên cương vị một người nhân danh luật pháp. ”Cho hỏi cô bao nhiêu tuổi? Tôi muốn biết chắc rằng mình đang nhận lệnh từ một người trưởng thành hơn tuổi của một hướng đạo sinh.”
Rebecca quắc mắt nhìn anh chàng, rồi quay lưng leo trở lên cầu thang. Vài giây sau, anh nghe tiếng đóng cửa.
Vậy đó. Billy ngó quanh tiền sảnh. Phải, trái, phải,…
”Trái,” Billy buộc miệng, và đi về bên trái. Anh chẳng muốn đi một mình chút nào, dù gì có hỗ trợ vẫn hơn, nhưng có lẽ theo cách này cũng tốt; nếu tìm được lối ra, anh sẽ chuồn một mình, sau đó gọi cho cô ta nói lời tạm biệt trên đường đi. Để cô gái lại phía sau khiến anh thấy bứt rứt, nhưng cũng ổn thôi, cô ta hoàn toàn có thể nấp đâu đó và chờ cứu viện. Anh phải lo cho thân mình trước; rủi mà xuất hiện thêm các thành viên S.T.A.R.S., hoặc Cảnh sát Raccoon hay quân cảnh, anh chỉ có nước ngoan ngoãn trở về Ragithon.
Billy dẹp hết những ý nghĩ đó khi đến bên cửa. Anh đã ích kỷ hơn trước nhiều kể từ lúc bị kết án, đã không ngừng bị dằn vặt bởi nỗi đau đớn xen lẫn phẫn nộ. Anh đã thoát được bàn tay tử thần sau vụ tai nạn xe jeep, nên nếu nghĩ kỹ thì cảm xúc đó cũng là đương nhiên. Anh nhất định phải giữ nguyên nó.
”Để coi có gì sau cửa số một,” anh lầm bầm, tay đẩy cửa – và lập tức nâng súng, chỉnh tầm ngắm. Đây là phòng ăn, một nơi đã từng hoàn toàn tao nhã. Còn hiện tại, có hai ba kẻ bị nhiễm đang lê lết quanh cái bàn bẩn thỉu giữa phòng, và cả ba quay mặt về phía anh. Trông chúng giống y như zombie, với làn da xám xịt và thủng lỗ chỗ, tròng mắt trắng dã. Một đứa còn dính lủng lẳng cái nĩa một bên vai.
Billy nhanh chóng đóng sập cửa, bước lùi lại, chờ xem có sinh vật nào biết xài tay nắm cửa không, tiền sảnh vắng ngắt khiến anh có có cảm giác như bị ai nhìn sau lưng. Sau một thoáng, anh nghe thấy tiếng bước chân cạ sát cửa, rồi tiếng rên khe khẽ thất vọng, thứ âm thanh duy nhất mà bọn zombie có.
Thế đấy. Ngôi nhà, căn cứ huấn luyện, dù là cái gì đi nữa, cũng đã bị lây nhiễm như trên tàu. Đấy là câu trả lời thích đáng nhất. Anh cầm lấy bộ đàm, nhấn nút.
”Rebecca, tôi đây. Chúng ta có bọn zombie ở đây. Hết.” Anh bắt đầu nghĩ tới con quái vật bò cạp và rùng mình, hy vọng ở đây chỉ có zombie thôi.
Yên lặng một chốc, rồi giọng cô gái cất lên. ”Nghe rõ. Anh cần trợ giúp không? Hết.”
”Không cần.” Billy cáu tiết. ”Nhưng cô không nghĩ là cần thay đổi kế hoạch à? Hết”
”Chẳng thay đổi gì cả,” có nói. ”Chúng ta vẫn phải tìm cho được đường ra. Tiếp tục kiểm tra đi, thấy gì khác thì hãy gọi tôi. Hết”
Tuyệt. Cô gái phi thường vẫn khư khư giữ nguyên kế hoạch. Vậy thì cửa số hai thôi, trừ khi anh muốn thử vận may với ba con zombie. Billy quay lại và băng ngang phòng, tự nhủ như thế chỉ tổ phí đạn vô ích. Sự thật là anh chẳng muốn bắn vào những kẻ bị nhiễm bệnh, dù có loạn trí đến đâu đi nữa… Và vì zombie là những thứ hết sức quái gỡ, nên nếu tránh được thì cứ tránh.
Anh đẩy cửa số hai, lấy tay vịn nó, cảnh giác cao độ. Nó mở ra một hành lang trải thảm nhung chạy dọc về bên phải, có góc rẽ không xa phía trước. Không có tiếng động hay sự di chuyển nào, cộng thêm mùi bụi ẩm thấp, ngoài ra không có vẻ gì là nguy hiểm. Anh chờ một lúc rồi bước vào, thả cho cánh cửa đóng lại phía sau.
Billy rón rén đi dọc hành lang, chân đạp nhẹ trên tấm thảm dày cộp, tiến dần đến góc rẽ với vũ khí trên tay, và thở phào khi thấy nó an toàn. Không quá tệ. Hành lang tiếp tục kéo dài và có một lối rẽ nữa, nhưng trước tiên anh phải thử cánh cửa nằm ngay bên trái.
Billy đẩy cửa – và mỉm cười với cái nhà vệ sinh trống không, với dãy bồn rửa mặt nhìn thấy từ vị trí đang đứng.
”Làm mình sực nhớ,” anh nói rồi bước vào trong, nhanh chóng kiểm tra xung quanh; mấy cái bồn rửa mặt nằm dọc hai bên vách tường của căn phòng hình chữ U, bốn ngăn toa lét nằm chiếm hết một phần ba, khuất khỏi tầm nhìn từ ngoài cửa. Cũng y như phần còn lại của tòa nhà, trông nó có vẻ bị bỏ hoang; một trong số các cửa toa lét treo lủng lẳng trên bản lề, bồn cầu thì nứt gãy, một ít phần còn lại văng rải rác dưới sàn, còn có chai lọ rỗng, chậu cây, những thứ rác vụn khác thường với một nhà vệ sinh. Thậm chí có cả bình ga plastic bên cạnh một vách ngăn. Điều trái ngược là vẫn có nước sạch trong bồn… Quá tốt cho một cuộc viếng thăm cấp tốc.
Anh mới vừa kéo khóa quần lên chừng một phút thì nghe có tiếng chân bước vào nhà vệ sinh. Một bước, dừng lại một hồi… rồi bước thứ hai.
Không biết lúc nãy có đóng cửa chưa? Anh không nhớ nữa, và thầm nguyền rủa cái quần lót. Anh kéo vũ khí ra và nhón chân, khẽ mở cửa toa lét. Từ chỗ này không thể thấy được cửa ra vào, nhưng vẫn quan sát được phần còn lại phản chiếu qua tấm gương dài gắn trên bồn rửa mặt. Anh nâng súng lên rồi chờ đợi.
Bước chân thứ ba, và lại tiếp tục im lặng. Dù là ai thì họ cũng đang bị ướt chân, vì anh có thể nghe được tiếng đạp nước phát ra khi đế giày nhấc lên khỏi sàn – rồi đến bước thứ tư, Billy đã thấy được người đó qua gương, anh bước ra khỏi buồng, cảm giác vừa ghê tởm vừa nhẹ nhõm khi đã sẵn sàng nhả đạn. Đó là một con zombie, đàn ông, khuôn mặt đen bóng, hai mắt đờ đẫn trong lúc toàn thân lắc lư, cố gắng giữ thăng bằng. Trông chúng thật tởm – nhưng ít nhất tương đối chậm chạp. Cho dù anh không thích làm việc này, nhưng giết nó dẫu sao cũng là một điều ân huệ.
Con zombie tiến thêm một bước, rơi vào tầm bắn của Billy. Billy ngắm thật cẩn thận, hướng thẳng vào phía trên tai phải của nó, anh không muốn phí một viên đạn nào –
– và con zombie thình lình quay người thật nhanh, nhanh ngoài tưởng tượng. Nó khẽ cúi mình, nhìn chằm chặp Billy bằng một con mắt nhuộm máu, con mắt kia nhìn lên tường, rồi giơ tay về phía anh, vẫn còn cách xa hai mét –
– bỗng cánh tay nó duỗi dài ra, mỏng dẹp lại, quật về phía anh như thể làm bằng cao su, cái áo thun nhợt nhạt và ươn ướt cũng kéo dãn theo.
Billy thụp xuống. Cánh tay của nó lướt ngang đầu anh và đập vào tường đánh bẹt một cái, rồi rút lại, quay trở về cơ thể không phải người của cái thứ trông như một con zombie.
Trên chuyến tàu, giống như Marcus –
Khoảng cách đủ gần để anh thấy được chuyển động trên quần áo của những sinh vật, chúng tạo nên một hiệu ứng rách toạc rất kỳ quái khi cánh tay thu về chỗ cũ. Lũ đỉa, sinh vật đó được làm bằng những con đỉa, và khi nó tiến lại gần hơn, Billy loạng choạng lui trở lại vào trong vách, nã súng vào khuôn mặt ươn ướt của nó.
Nó khựng lại, một vệt đen chảy xuống từ vết thương ngay dưới mắt trái – và rồi vết thương biến mất, lớp da giả trượt đi nhẹ nhàng, những con đỉa tự động hoán chuyển vị trí. Tự cứu chữa.
Nó lại tiến thêm một bước nữa, Billy đá vào cửa toa lét và đóng sầm lại, giữ chặt nó bằng một chân, đầu óc lướt qua hàng loạt giải pháp và nhanh chóng bác bỏ hết.
Gọi Rebecca, không đủ thì giờ, tiếp tục bắn, không đủ đạn, chạy, nó chặn đường rồi –
Billy rít lên bất lực – và ánh mắt điên cuồng của anh rơi trúng cái bình ga plastic đỏ trên sàn. Anh chồm tới, lấy vai tỳ lên cửa và lục lọi trong túi trước. Đây rồi, nằm dưới viên đạn súng săn –
Anh lấy ra cái bật lửa mà mình nhặt được trên tàu, thầm tạ ơn Chúa, rồi cúi xuống nhấc bình ga lên, cái còng lủng lẳng cạ vào lớp plastic. Nó còn chưa đầy một nửa. Lạy Chúa, hy vọng ga –
Cửa toa lét bị tông mạnh như thể có ai dộng bằng gỗ. Billy bị hất ra, rồi lại nhào tới trước lần nữa, bàn tay run rẩy tháo nắp bình, bờ vai đau nhói. Sinh vật đó im lặng một cách kỳ lạ khi nện tiếp vào cửa, mạnh đến nỗi làm biến dạng lớp kim loại.
Mùi ga choáng váng tuôn khắp toa lét. Billy vói tay chộp lấy cuộn giấy trên vách, giật ra – và cánh cửa bật tung, văng khỏi bản lề bởi một cú đấm dữ tợn. Nó đứng ngay đó, lắc lư thân hình, con mắt kỳ quái lùng kiếm Billy, định vị anh.
Billy dựng đứng bình ga lên, đồng thời bật dậy, giũ sạch hơi ga quanh người. Anh ấn cái bình tới trước, trút vào ngực nó.
Phản ứng xảy ra tức thì. Cơ thể nó bắt đầu quằn quại, run rẩy, và một tiếng rú điếc tai vang khắp phòng, không phải một mà hàng ngàn sinh vật nhỏ cùng cất tiếng. Chất lỏng đen thui đậm đặc tuôn ra khắp mọi chỗ trên cơ thể và mặt của nó.
Billy vung mạnh chân, tống nó lui lại, lúc này vẫn còn kết dính nguyên khối và gào rú, âm thanh lan khắp căn phòng nhỏ. Anh không biết một bình ga đã đủ chưa, mà cũng không muốn chờ xem kết quả. Anh mở nắp, đánh lửa, rà cuộn giấy trên ngọn lửa đang phun. Một giây sau, nó bốc cháy.
Billy nhảy vọt ra cửa và né tránh con quái vật đang gào rú. Ngay khi vừa chạy qua, anh quay người ném cuộn giấy bốc lửa, trúng vào ngay dưới chỗ xương ức – và tiếng gào trở nên dữ dội hơn khi ngọn lửa trùm lên, bao bọc lấy nó, rồi nó gục xuống thành hàng ngàn mảnh vụn. Một vũng nước đen kịt bốc cháy đang biến dạng trên sàn, tiếng gào nhỏ dần rồi tắt ngấm sau đó vài giây.
Vài con đỉa lẻ tẻ trườn khỏi ngọn lửa, nhưng chúng không còn tái kết hợp được nữa, chỉ có thể trườn đi lung tung lên tường hoặc dưới chân anh. Billy tránh xa chúng, tránh xa ngọn lửa đang tàn dần, rồi đút bật lửa trở vào túi khi đến bên cửa.
Billy thở phào một cái khi trở ra hành lang, và lục tìm bộ đàm. Bây giờ không cần biết kế hoạch gì của Rebecca nữa hết; họ phải nhập bọn càng nhanh càng tốt, và dông khỏi chỗ này ngay tức khắc, dù cho có phải dùng tay không mà đào xuyên qua tường.
oOo
4 tháng 12
Hồi mới bắt đầu, mình còn nghi ngại – nhưng tối nay chúng tôi đã ăn mừng. Cuối cùng cũng đã làm được sau ngần ấy thời gian. Chúng tôi gọi tên kiến trúc virus mới là Progenitor, theo đề nghị của Ashford, mình thích cái tên này. Sẽ bắt đầu thử nghiệm chúng ngay lập tức.
23 tháng 3
Spencer nói rằng ông ta sẽ thành lập một công ty chuyên nghiên cứu dược phẩm, có lẽ kiêm thêm sản xuất thuốc. Ông ta vẫn là nhà kinh doanh cho cả nhóm như thường lệ. Có vẻ mối quan tâm ưu tiên của ông ta với Progenitor là lợi nhuận, nhưng mình sẽ không phàn nàn. Ông ta muốn chúng tôi thành công, thì dĩ nhiên cũng sẽ cung cấp tài chính đầy đủ; chừng nào còn ký được séc, chừng đó ông ta muốn làm gì thì làm.
19 tháng 8
Progenitor thật là kỳ diệu, nhưng vẫn chưa biết ứng dụng nó để làm gì. Ngay khi chúng tôi nghĩ đã có thể lên tài liệu về tỷ lệ khuếch đại, khi đã có hàng tá thử nghiệm mang lại cùng một kết quả, thì mọi thứ đổ vỡ. Ashford vẫn đang làm việc với những chỉ số phân bào, hệ quả phát sinh từ bước lùi này, nhưng ông ta đang hy vọng. Chúng tôi phải tiếp tục tìm hiểu.
Spencer tiếp tục đề nghị mình làm giám đốc của căn cứ huấn luyện mới. Có thể là vì lợi nhuận, nên ông ta ngày càng hống hách quá quắt. Dù sao mình cũng đang cân nhắc. Mình cần một nơi để tìm hiểu ra trò về khả năng mới của loài virus này, một nơi không bị làm phiền.
30 tháng 11
Thằng cha đáng ghét. ”Cùng ăn trưa nhé, James,” lão nói, những người đồng sự cũ và những ký ức êm đềm. Thật vớ vẩn. Lão muốn Progenitor sẵn sàng ngay bây giờ. “Bạn” của lão ở trụ sở White Umbrella, với những trò chơi do thám lố bịch đem lại của cải lẫn sự buồn tẻ – chúng muốn có gì đó hay ho để đùa cợt, để bán đấu giá, và không muốn chờ nữa. Đồ ngu. Spencer nghĩ có tiền mua tiên cũng được, nhưng lão lầm to. Không có thứ gì ở đây quy ra tiền được; đã và sẽ không có. Mình phải duy trì thế cuộc này, phải bảo vệ quân hậu, hoặc là bị chiếu bí.
19 tháng 9
Rốt cuộc, rốt cuộc mình đã phát minh ra dạng DNA cặp xoắn với tính năng hấp thu và kết hợp nó với Progenitor – nó ổn định. Một kết quả mà mình luôn đặt niềm tin. Spencer sẽ hài lòng, khốn kiếp lão, mặc dù mình sẽ chỉ tiết lộ rằng vài tiến trình đã được hoàn tất, không thêm gì nữa, không cho biết làm thế nào. Mình đã tự đặt tên cho nó mà không hỏi ý lão, một vố chơi khăm. Mình sẽ gọi nó là T, lấy từ chữ Tyrant.
23 tháng 10
Mình không thể coi bọn họ là người được. Họ là những đối tượng thử nghiệm, vậy thôi, vậy thôi. Mình biết cuộc nghiên cứu ắt sẽ dẫn đến tình thế này một ngày nào đó. Mình biết và – và không biết rằng sẽ diễn tiến theo chiếu hướng này.
Mình phải giữ tập trung. T-Virus thật là phi thường; chúng, những đối tượng đáng lẽ phải được tôn vinh vì những trải nghiệm vô cùng hoàn hảo. Sự tồn tại của chúng mở ra một con đường dẫn đến những mối quan tâm lớn hơn.
Đối tượng thử nghiệm. Vậy thôi. Những con tốt. Đôi khi, phải thí tốt để tranh tiên.
13 tháng 1
Vật nuôi của mình đang lớn dần. Với DNA của chúng kết hợp với virus, mỉnh nghĩ có thể đoán được cái cách chúng biến đổi khi bị nhiễm, thế nhưng mình lầm. Chúng bắt đầu hợp thành bầy đàn, giống như kiến hoặc ong. Không một cá thể nào nổi trội hơn cả; chúng cùng làm việc theo cơ cấu quần thể, cùng tiến triển cho một mục tiêu chung. Mục tiêu của mình. Mình đã không thấy điều đó trước đây. Mình đã mù quáng, nhưng đã nhận được phần thưởng lớn lao hơn cả khi làm việc với người. Mình phải tiếp tục những thử nghiệm này, tuy nhiên – không thể để lộ ra rằng mình đã khám phá được ý nghĩa thật sự về giá trị của T và những gì nó đại diện. Mình biết Spencer thế nào cũng thử và chiếm nó. Quân vua của mình đang lộ mặt.
11 tháng 2
Bọn chúng đang theo dõi mình. Mình vào phòng thí nghiệm, thấy nhiều thứ bị di chuyển. Chúng đã lục lọi và xóa dấu vết, mọi thứ trông y như cũ, nhưng mình biết. Chính là Spencer, quỷ tha ma bắt lão, lão biết về bầy đỉa của mình, quần thể đẹp đẽ của mình, và sự khủng bố này sẽ không chấm dứt chừng nào một trong số bọn tôi chưa chết. Mình không tin ai nữa… Albert và William có lẽ là chỗ dựa còn lại của mình, họ tin vào công việc, nhưng mình phải thủ tiêu một số thứ khác. Trò chơi đã đến hồi kết. Lão lăm le quân hậu của ta, nhưng chính ta mới là người chiến thắng. Chiếu tướng lão nè, Oswell.
Đó là mục ghi chép cuối cùng. Rebecca đóng quyển nhật ký lại và đặt sang một bên, cạnh bộ cờ nằm ngay giữa bàn. Lúc khám phá ra cái ngăn dấu kín, cô đã nghĩ mấy tấm bản đồ thật sự đáng giá. Có hai tấm, một cái là sơ đồ ba tầng hầm của tòa nhà, bao gồm cả vài chỗ không được đánh dấu, có lẽ dẫn ra ngoài. Cái kia dường như là khu vực trên cầu thang, với một phòng ghi chữ QUAN SÁT, nằm cạnh một khu khá rộng có chữ HỒ NUÔI. Thế nhưng, quyển nhật ký bọc da lấm lem bụi và nhăn nhúm theo thời gian – cô không biết nó đã tồn tại bao lâu, chỉ thấy một trong số những mục ghi chép về bầy đỉa có số “1988” ở góc trên – mới chính là khám phá đáng giá nhất. Có lẽ nó là sở hữu của James Marcus, người sáng tạo ra T-Virus, loại virus đã biến con người thành zombie, đã lây lan khắp đoàn tàu và gần một nửa rừng Raccoon, mà manh mối là những vụ sát nhân gần đây.
Rebecca ngây người quan sát cách bài trí lạ lẫm của căn phòng, nhận ra toàn bộ mặt sàn là một bàn cờ khổng lồ. Hẳn ông ta đã hóa điên trong những ngày cuối cùng, khi cứ lải nhải về cờ, về “ý nghĩa thật sự” của virus. Có lẽ những cuộc thí nghiệm trên người đã đẩy ông ta đến tận cùng giới hạn.
Bộ đàm của cô nhấp nháy. Cô vừa nhấn nút NHẬN TÍN HIỆU thỉ đã nghe tiếng thở hổn hển của Billy sát bên tai.
”Cô đang ở đâu? Chúng ta cần nhập bọn ngay, cô nghe rõ không? Hết”
”Có chuyện gì? Hết”
”Chuyện là tôi vừa đụng độ với một kẻ cấu tạo bằng đỉa trong cầu tiêu, suýt nữa là đi đời với nó. Zombie thì dễ xử, chứ còn thứ này – nó nuốt được đạn, Rebecca. Chúng ta không có đủ đạn để giữ chân chúng đâu. Hết”
Chúng bắt đầu hợp thành bầy đàn, như kiến hoặc ong.
Là ai điều khiển chúng? Marcus? Hay chúng tự hình thành cá thể lãnh đạo, một con chúa?
”Được rồi,” Rebecca nói. Cô nhặt bản tóm lược về đài quan sát và tầng hầm, nhét chúng vào trong áo rồi đứng dậy. Cô ngần ngừ một thoáng rồi nhặt luôn quyển nhật ký, chuồi vào túi. ”Gặp anh ở đầu cầu thang, chỗ có bức chân dung Marcus. Có thể tôi biết lối ra, hết.”
”May quá. Coi chừng nhé, hết.”
Rebecca dông ra khỏi phòng và lao xuống hành lang thật nhanh. Cô vẫn chưa lục soát được chỗ nào khác, ngoài cái phòng chờ vắng vẻ và văn phòng có bộ cờ; thật may mắn khi không phải chạm trán với bất cứ kẻ địch nào. Billy nói đúng về những người-đỉa, họ không có cách gì giải quyết được chúng. Thật sự, nguyên nhân duy nhất khiến tổ hợp đỉa trên đoàn tàu ngừng tấn công họ, là vì chúng được triệu hồi. Cô đã có ý định ở lại trong ngôi nhà xinh xắn an toàn này trong khi chờ tiếp viện, nhưng sau khi đọc quyển nhật ký của Marcus, biết rằng nơi đây đã bị lây nhiễm – thì cô biết mình phải biến đi càng nhanh càng tốt.
Sau khi điểm lại tất cả những biến cố tối nay – trực thăng hạ cánh ngoài ý muốn, đoàn tàu, Billy, vụ va chạm, giờ đến cái này – cô chỉ muốn có ngay một đội quân được gởi đến để tiếp quản, để đưa cô về nhà với bữa tối nóng sốt và chiếc giường êm ái chờ sẵn, để ngày mai cô lại thức dậy và bắt đầu một ngày bình thường như trước. Thế nhưng, thay vào đó là cô đang bị lún sâu vào những bí mật của Marcus và các tạo vật của lão, của Umbrella và các thí nghiệm ma quỷ của chúng.
oOo
Gã thanh niên di chuyển đến nơi mà quần thể dễ dàng tập họp, một nơi rộng rãi, ấm áp, ẩm thấp, và tránh xa ánh nắng mặt trời. Bầy đàn đang vây quanh hắn, hát vang bài ca lạc điệu của nước và bóng tối, nhưng hắn vẫn chưa nguôi cơn giận. Hắn đã theo dõi một cách giận dữ khi cô gái – Rebecca, theo như tên sát thủ gọi, còn cái thằng nguyền rủa ấy tên Billy – cuỗm đi cuốn nhật ký của Marcus, nhét nó vào túi trước khi rời khỏi. Hắn đã mở cái bàn ra đâu phải để con nhãi ấy lấy thứ đó. Bản đồ của đài quan sát, đáng lẽ con nhãi chỉ được lấy bản đồ thôi.
Hai đứa bây giờ đang gặp nhau trước ô cửa chỗ bức chân dung, đang thảo luận, hiển nhiên là về những thứ thu thập được, về sự cả gan giết chóc của chúng nó. Hắn có thể thấy tên trộm và tên sát thủ qua màn hình nằm trong góc nơi trú ẩn – chỗ này là tầng dưới của nhà máy xử lý – nhưng hắn còn có thể quan sát chúng rõ ràng hơn nhiều, thông qua hàng tá đôi mắt thô sơ của những đứa con đang săm soi bọn chúng từ trong bóng tối. Ý thức của bầy đàn rất mạnh, có thể truyền tải hình ảnh từ cá thể này sang cá thể kia, truyền đến cho hắn; đó là phương pháp để chúng cùng hoạt động một cách hữu hiệu. Rebecca và Billy đã không hiểu rằng bọn nó yếu đuối đến thế nào, rằng hắn có thể tiếp cận và lấy mạng chúng như trở bàn tay. Bọn chúng sống được chẳng qua là nhờ sự khoan hồng của hắn.
Tên trộm và thằng bạn hiếu sát của nó; cái thằng Billy đã giết cả một tổ hợp. Bằng cách đốt cháy. Vài thực thể sống sót vật vã tìm đường về với ông chủ của chúng, cơ thể cháy sém của chúng đã mách cho hắn biết, rằng phần còn lại đã chết bởi sự đứt đoạn liên kết. Sao thằng đó dám, cái thằng vô giá trị, đồ nhãi nhép?
Rebecca lôi ra tấm bản đồ và cả hai cùng nghiên cứu, thật là lũ đần độn, nếu bọn bây biết cái gì đang chờ phía trước. Đài quan sát là điểm then chốt để thoát ra ngoài, nhưng thế nào bọn nó cũng thử tầng hầm trước. Cũng chả sao. Hắn không còn chắc chắn với việc muốn cho bọn chúng trốn thoát nữa.
Cả hai đang xuống cầu thang, biến mất khỏi máy quay và tầm mắt của bầy đàn, nhưng chỉ trong phút chốc. Ngay khi bộ đôi xuất hiện trở lại trong một máy quay khác, chúng dừng lại, nhìn chăm chú vào mấy cái xác nhện vương vãi, đã chết cong queo trên sàn. Có bốn con nhện khổng lồ, tất cả đều mới bị giết, bị trừ khử để Rebecca và thằng bạn của nó khỏi bị chích nọc độc. Lũ nhện đó là một thí nghiệm khác, một thất bại thảm hại, chúng quá chậm chạp, quá khó khăn để điều khiển, nhưng dư sức làm chết người, thành thử hắn phải nhúng tay vào. Bây giờ hắn lại cảm thấy hối tiếc; được chứng kiến tên trộm và tên sát thủ giãy chết hẳn là rất thú vị, bất chấp vai trò của bọn nó trong cái kế hoạch dành cho Umbrella. Cả hai đang đi tiếp, không biết rằng chúng bị theo dõi bởi những sinh vật đã giết đám nhện, lúc này đang náu mình trong những cái xác trương phình đứt đoạn.
Làm gì đây? Giết bọn chúng sẽ làm hắn nguôi ngoai, sẽ báo được thù cho sinh mệnh của những đứa con, và xác nhận uy quyền của hắn. Nhưng vạch mặt Umbrella mới là ưu tiên số một, đưa tập đoàn đó đến sự hủy diệt bằng cách phơi bày trái tim thối tha của chúng… điều mà Billy và Rebecca chắc chắn sẽ làm, nếu chúng sống sót.
Hai đứa nó đi đến cuối hành lang, xuyên qua cửa một căn phòng đã bỏ phế từ lâu. Sau khi xem lại nhanh bản đồ, chúng tiếp tục đi vào một phòng không có lối ra, nơi có những mẫu vật sống từng được nhốt. Lồng nhốt trống rỗng, cả phòng cũng trống rỗng. Hắn không hiểu sao bọn nó lại đi vào đây – tới khi hắn thấy chúng đi tới góc đông bắc, cả hai cùng nhìn lên một ô vuông tối tăm gần sát trần.
Lỗ thông gió. Nó không được ghi trên bản đồ; có lẽ chúng tin rằng đây là đường ra. Thật sự thì đường đó dẫn tới –
Hắn lắc đầu. Phòng riêng của Tiến sĩ Marcus, căn phòng hắn đã từng dùng để “giải trí” với những đối tượng thử nghiệm. Sao bọn nó không chịu xéo đi chỗ khác cho rồi? Có gì trong đó đâu mà tìm, không có gì –
– trừ khi.
Lỗ thông gió dẫn đến một khu chứa mẫu vật còn sống, một nơi không yên ả chút nào. Những sinh vật đó đã lâu không được cho ăn. Lúc này chúng đang rất, rất đói. Hắn chỉ việc ra lệnh cho bầy đàn mở chốt một hoặc hai cánh cổng…
Đúng ra nên xem hai đứa nó như một phần trong toàn bộ kế hoạch của hắn, có lẽ hắn nên coi Billy và Rebecca như những đối tượng thử nghiệm. Bọn nó có thể chết – nếu thật vậy, thì cũng chỉ làm chậm trễ việc phơi bày Umbrella thêm ít lâu; tuy hắn thiếu kiên nhẫn, nhưng cũng nên cân nhắc đến khía cạnh tiêu khiển nữa. Hoặc bọn nó có thể sống sót. Dù bằng cách nào, chúng cũng sẽ có nhiều chuyện hay ho để tường thuật.
Hắn nở một nụ cười bén ngót như dao, trong lúc Billy kê chân cho Rebecca leo lên lỗ thông gió. Con bé trườn vào trong, biến khỏi tầm nhìn. Liệu bọn nó có ngạc nhiên chăng, nếu một vài thành viên còn lại của lớp động vật bậc cao xuất hiện để đùa bỡn?
Xung quanh hắn, lũ con đang thủ thỉ, vách tường, trần nhà đang nhễu đầy những chất lỏng trơn ướt của chúng. Với bầy đàn bao quanh, xem như số mệnh của Umbrella đang nằm gọn trong tay hắn – và bây giờ có thêm hai tên lính nhỏ bé để thử nghiệm, để thưởng thức cảnh chúng dốc hết khả năng ra, chống trả những vũ khí sinh học còn sót lại của Umbrella – thật thỏa mãn. Bọn nó nên sống hay nên chết? Dù kiểu nào thì hắn cũng đều hài lòng.
”Mở lồng ra đi, các con yêu quý của ta,” hắn thì thào, và bắt đầu cất tiếng hát.