Caw!!!
Jill vội chĩa súng vào nơi phát ra tiếng động. Tiếng kêu ghê rợn ấy vang lên khắp căn phòng rộng lớn. Và sau đó, cô phát hiện ra nguồn gốc của tiếng động và thở phào. Chỉ là một cánh của bị sập lại.
“Chúng đang làm cái quái gì ở đây vậy?”
Jill vẫn đang ở mạn đằng sau của tòa nhà. Cô quyết định sẽ kiểm tra thêm một vài căn phòng nữa trước khi quay trở lại đại sảnh chính. Căn phòng đầu tiên cô thử vào đã bị khóa, có hình chiếc mũ sắt được chạm khắc bên ổ khóa. Bộ đồ phá khóa của cô không có tác dụng trong tình huống này, vì đây là một loại khóa kỳ lạ mà cô chưa từng thực tập bao giờ, vì thế Jill quyết định sẽ thử cánh cửa bên kia căn phòng. Cô mở cửa một cách dễ dàng, bước vào, sẵn sàng cho mọi điều có thể xảy ra. Và thật là hài hước, thứ mà cô đang “mong đợi” là những con quạ đen đúa đang bám mình vào những xa ngang chạy dọc căn phòng và đập cánh liên hồi.
Một con quạ lớn rú lên kinh dị, tiếng rú của nó khiến Jill cảm thấy rùng mình. Có cả tá con đang xù bộ lông đen bóng và quan sát cô với những cặp mắt lấp lánh, và cô nhanh chóng cảm thấy mối đe dọa toát ra từ căn phòng.
Căn phòng hình chữ U mà cô bước vào là một nơi lạnh lẽo như những nơi còn lại trong tòa nhà, có thể còn lạnh lẽo hơn, và trống trơn. Đó là một căn phòng trưng bày với những bức chân dung và tranh vẽ treo xung quanh tường. Trên sàn vung vãi những sợi lông chim, một minh chứng cho thấy lũ quạ đã xâm nhập được vào tòa nhà, và Jill đang băn khoăn vì sao. Có điều gì rất lạ với vẻ ngoài của chúng Chúng to lớn một cách khác thường, và ánh mắt chúng dành cho cô có vẻ gì đó thật nham hiểm và độc ác.
Jill lại rùng mình, rồi cô quay lại cánh cửa. Không có gì ở đây cho cô cả, và cần phải tiếp tục cuộc chơi; cuộc chơi của tử thần. Cô chợt để ý đến những bức tranh và nhận thấy có những cái công tắc ở bên dưới mỗi khung tranh – cô đoán đó là công tắc đèn, mặc dù cô không thể tưởng tượng rằng kẻ nào lại có thể xây dựng một phòng tranh với những bức tranh tầm thường đến vậy. Một đứa bé, một chàng trai trẻ… những bức tranh ấy không thực sự tồi tệ, nhưng chúng cũng không đáng để ý đến.
Cô dừng lại khi chạm vào cái tay nắm lạnh ngắt của cánh cửa, khẽ cau mày. Có một cái bảng điều khiển nhỏ ngang tầm mắt phía bên phải, bên dưới là dòng chữ “Vùng sáng”. Cô bấm vào một trong những cái nút và căn phòng chìm vào trong bóng tối.
Một vài con quạ kêu lên giận dữ, đập cánh ầm ĩ. Jill bật lại đèn và suy nghĩ.
“Nếu như đây là công tắc đèn, thì những cái công tắc bên mỗi bức tranh ấy có tác dụng gì…?”
Có lẽ có những thứ khác trong căn phòng này mà cô chưa khám phá ra. Jill tiến tới gần bức tranh đầu tiên. Đây là một bức tranh lớn có hình một thiên thần vẫy cánh bay qua những áng mây được tô điểm bằng một vài ánh mặt trời le lói. Tựa đề của nó là: Từ trong nôi đến hầm mộ. Ở bên dưới bức tranh không có cái công tắc nào, do vậy Jill liền chuyển sang bức tranh tiếp theo.
Đây là bức chân dung của một người đàn ông trung niên đứng bên một cái lò sưởi khá tinh xảo, nét mặt của ông phảng phất sự mệt mỏi đến tột cùng. Dựa vào cách ăn mặc của ông, có vẻ như bức tranh này được vẽ vào khoảng những năm 40-50. Chỉ có một cái công tắc bên dưới bức tranh và chẳng có cái nhãn nào hết. Jill gạt công tắc và có tiếng điện nổ lách tách đằng sau lưng, lũ quạ trên xà ngang đồng loạt phát ra những tiếng kêu inh ỏi.
Trong tích tắc cô nghe thấy tiếng phần phật phát ra từ những đôi cánh đen sì, kèm theo đó là những tiếng kêu dữ tợn bất thường khi lũ quạ lao thẳng vào cô. Jill vội chạy thật nhanh về phía cánh cửa, cảm thấy con đường như xa tới ngàn dặm. Một con quạ đã bắt kịp khi cô vừa chạm vào tay nắm cửa. Móng vuốt của nó vạch một đường lên làn da mềm mại sau gáy của cô. Jill thấy tai phải mình đau buốt, đồng thời nhận ra một mớ lông vũ đang cọ vào hai bên mặt, tiếng kêu điên loạn của nó dội vào màng tai của cô. Jill quật mạnh vào khoảng không phía sau và ngạc nhiên khi nghe thấy những tiếng quạc quạc. Con chim đã bị cô đánh văng ra xa.
Nhiều quá, ra mau, mau, mau!
Jill giật mạnh cánh cửa, chạy nhanh ra ngoài hành lang và đóng sập nó lại. Cô ngồi bẹp xuống một lúc, điều hòa hô hấp, tận hưởng sự im ắng lạnh giá của hàng lang bất chấp cái mùi hôi thối của lũ Zombie. May mà không có con quạ nào thoát ra khỏi căn phòng.
Khi nhịp tim đã trở lại bình thường, cô ngồi lên và cẩn thận sờ vào vết thương sau tai. Cô cảm thấy ngón tay của mình ươn ướt, nhưng không có gì nghiêm trọng, máu đã bắt đầu đông lại rồi; thật là may mắn. Nếu lúc nãy cô bị vấp ngã thì …
“Tại sao chúng lại tấn công, có chuyện gì với cái công tắc nhỉ?”
Jill chợt nhớ đến tiếng điện lách tách sau lưng mình khi cô vặn công tắc, tiếng của một tia lửa điện….
“Thanh xà ngang!”
Thâm tâm cô dậy lên một mối khâm phục bất đắc dĩ với kẻ đã tạo ra cái bẫy đơn giản này. Khi cô khởi động công tắc, có một dòng xung điện đã được truyền tới những thanh sắt mà chúng đậu lên. Cô chưa bao giờ nghe đến những con quạ được huấn luyện để chiến đấu, nhưng có lẽ đó là lời giải thích hợp lý nhất hiện tại. Ai đó đã cài cái bẫy này để giấu đi một thứ gì đó trong căn phòng…. Và nếu Jill muốn biết thứ ấy là gì, cô buộc phải quay lại căn phòng.
“Mình có thể cố thủ ở hành lang này và hạ từng con một khi chúng bay ra…”
Thế nhưng, cô không nghĩ đây là cách hiệu quả. Cô không còn tin vào khả năng ngắm bắn của mình nữa, và chắc chắn cô sẽ hao phí rất nhiều đạn.
“Chỉ có kẻ ngốc mới trông chờ vào sự ngẫu nhiên và không làm gì cả; hãy động não đi, Jilly…”
Jill mỉm cười, nhớ lại quãng thời gian ở cùng cha… Đó là lời khuyên của ông dành cho Jill trước khi cô gia nhập S.T.A.R.S. Ông đã dạy cho Jill rất nhiều điều trong căn nhà ông thuê ở Massachussetts để huấn luyện riêng cho cô. Học làm bạn với bóng tối, hòa mình với sự vật xung quanh, huấn luyện cho Jill hơn 10 năm về nghiệp vụ và ông đã dặn rất kỹ: mọi lối mòn đều có cách xử lý, và luôn có nhiều hơn một câu trả lời…..
Hiện tại, rõ ràng việc tiêu diệt lũ quạ là một việc cần làm. Jill nhắm mắt lại,trầm ngâm.
Công tắc và những bức chân dung… một đứa bé sơ sinh, một cậu bé, một thanh niên, một người trung niên….
“Từ trong nôi đến mộ… Từ nôi đến mộ…..”
Cô chợt lóe lên 1 ý tưởng và chính cô cũng không ngờ nó lại đơn giản đến như vậy. Cô đứng lên, sửa sang lại quần áo và băn khoăn liệu lũ quạ đã trở lại chỗ của chúng hay chưa. Khi chúng quay về chỗ cũ thì việc khám phá ra bí mật của căn phòng sẽ trở nên thật dễ dàng với cô.
Cô từ từ mở cánh cửa, lắng nghe tiếng đập cánh của lũ quạ, và tự hứa với bản thân mình sẽ cẩn thận hơn. Trong căn nhà này, chỉ cần bấm sai một nút bấm thì mọi việc sẽ trở nên hết sức nguy hiểm.
“Rebecca? Cho anh vào, Chris đây!”
Có âm thanh của một thứ gì đó nặng nề trượt dọc theo tường, cánh cửa nhà kho mở ra cót két. Chris chạy nhanh vào và vội vã đưa cho Rebecca xem cuốn nhật ký anh vừa tìm được.
“Anh tìm thấy quyển nhật ký này ở trong một căn phòng.” Anh nói. “Có vẻ như có một hình thức nghiên cứu nào đó đang diễn ra trong căn nhà này. Anh không biết nó là gì, nhưng…”
“Nghiên cứu về Virus”. Rebecca ngắt lời, đưa ra một tập giấy và cười nhếch mép. “Anh đã đúng về việc có thứ gì đó hữu ích ở đây.”
Chris cầm lấy xấp giấy trên tay cô và lật trang đầu. Tất cả những gì mà anh nhìn thấy là một loại ngôn ngữ nào đó được viết bởi những con số và những ký tự.
“Cái quái gì thế này? DH5a-MCR…”
“Đây là một biểu đồ đặc tính”. Rebecca nói. “Đây là một chủ thể với đặc tính tạo ra bản đồ gen bao gồm Methylated Cytosine hoặc Adenine residues, mà thực ra điều ấy cũng tùy.”
Chris nhíu mày:”Cứ cho là anh chẳng hiểu bất cứ cái gì mà em vừa nói. Còn bây giờ tốt nhất hãy đi vào vấn đề chính: Em đã tìm thấy cái gì nào?”
Rebecca thở dài và lấy lại tập giấy trên tay Chris: “Xin lỗi, nhưng mà nói chung là, ờ…, cơ bản thì đó là một loại vi khuẩn lây nhiễm…”
Chris gật đầu:” Anh hiểu…một loại virus…”
Anh lật nhanh những trang nhật kí và đếm số ngày tính từ trang đầu của bản báo cáo về tai nạn xảy ra trong phòng thí nghiệm.
“Vào ngày 11 tháng 5, có một loại hóa chất nào đó bị phát tán trong phòng thí nghiệm. Trong vòng 8 – 9 ngày, bất cứ ai trong căn phòng thí nghiệm ấy đều trở thành những con quái vật kinh tởm.”
Rebecca tròn mắt: “Nó có nói gì về triệu chứng ban đầu không?”
“Có vẻ như….trong tầm khoảng sau 24 giờ, họ bắt đầu có triệu chứng ngứa da. Bị lở loét sau khoảng 48 tiếng đồng hồ.”
Rebecca tái mặt:”Thật…thật vậy sao…ôi…”
Chris gật đầu: “Đúng như anh nghĩ. Vậy có cách nào để biết liệu rằng chúng ta đã bị lây nhiễm hay chưa?”
“Không có thông tin nào khác. Đó là tất cả…”, Rebecca trầm ngâm nhìn xấp giấy, “….nó đã rất cũ, được chế tạo khoảng 10 năm trước đây. Mặc dù vậy, nếu nó vẫn còn hoạt động thì với tốc độ phát tán như vậy, cả thành phố Racoon ắt đã bị lây nhiễm rồi. Em không dám chắc, nhưng em ngờ rằng nó vẫn đang lây lan….”
Chris cảm thấy đỡ lo hơn về tình hình của mình và các thành viên S.T.A.R.S, có điều không thể phủ nhận sự thực rằng zombie chính là những nạn nhân của căn bệnh truyền nhiễm này – thật đáng buồn, cho dù căn bệnh ấy là do chính họ gây ra, họ cũng không đáng phải gánh chịu nó….
“Chúng ta cần phải tìm những người còn lại”, Chris nói, “Nếu như ai đó không biết mà bước vào căn phòng thí nghiệm ấy thì không biết điều gì sẽ xảy ra…”
Rebecca thoáng chút đắn đo, nhưng cũng đánh liều gật đầu và tiến tới cánh cửa. Trong giây phút đó, bằng vào kinh nghiệm bản thân, Chris tin chắc rằng Recbecca sớm muộn gì cũng sẽ là một thành viên chủ chốt của S.T.A.R.S. Cô là một chuyên gia hóa học, và mặc dù không có súng nhưng cô vẫn sẵn sàng rời chỗ nấp an toàn trong nhà kho theo mệnh lệnh, để cứu giúp những người đồng đội.
Họ cùng rảo bước nhanh qua những hành lang lát gỗ tối tăm. Rebecca theo sát Chris. Khi họ tới cánh cửa dẫn ra hành lang đầu tiên, Chris kiểm tra khẩu súng và quay lại nhìn Rebecca.
“Hãy theo sát anh. Chúng ta cần tới được cánh cửa bên phải ở cuối hành lang này. Có lẽ anh sẽ phải phá khóa, và chắc chắn có vài con zombie đang lởn vởn ngoài kia, vì thế anh cần em yểm trợ.”
“Tuân lệnh!”. Cô lặng lẽ nói, và Chris cười khổ. Đúng ra anh vẫn là cấp trên của Rebecca, nhưng thật là không bình thường khi nghe cô nói vậy vào lúc này.
Chris mở cửa và bước vào, súng chĩa thẳng về bóng tối phía trước rồi xuống hành lang bên phải; Không có gì chuyển động cả.
“Đi nào”. Anh thầm thì, và họ rảo bước nhanh qua hành lang. Rebecca quan sát sau lưng khi Chris khi anh vặn tay nắm cửa với hy vọng nó đã mở sẵn.
Thật là đen đủi. Chris lùi lại, ngắm thật kỹ vào ổ khóa. Bắn vỡ ổ khóa không dễ như ở trên những bộ phim. Nếu như một mảnh đạn văng ra ở cự li gần, nó có thể giết chết người bắn.
“Chris.”
Anh quay đầu lại và nhìn thấy một cơ thể đang di chuyển ở đầu bên kia hành lang. Ngay cả trong ánh sáng mập mờ thế này, anh vẫn có thể nhận ra cái cơ thể dang di chuyển kia bị mất một cánh tay. Sự kinh tởm toát ra từ con Zombie. Nó rú lên và lao về phía hai người.
Chris bắn hai phát vào ổ khóa và vặn tay nắm.Cánh cửa đã mở! Anh nắm lấy tay Rebecca và kéo cô vào, chĩa súng về đằng sau. Nó đã đi được nửa đường thì bất chợt dừng lại trước cái xác không hồn của con Zombie Chris giết ban đầu. Nó chợt quỳ xuống và vuốt nhẹ vào đầu cái xác, rú lên những tiếng rú thảm thiết như lời khóc thương ai oán.
“Ôi trời!”
Chris bất chợt rùng mình, anh nhanh chóng bước theo Rebecca và đóng sập cánh cửa để khỏi thấy cái cảnh kinh khủng ấy. Rebecca chợt tái mặt nhưng dường như cô đã trở lại bình thường, và một lần nữa Chris thấy ngưỡng mộ sự dũng cảm của cô; Rebecca còn trẻ nhưng rất cứng cỏi, dù cô mới chỉ 18 tuổi.
Chris rảo bước trên hành lang và ngay lập tức nhận ra sự thay đổi. Cách họ khoản 20 feet về phía bên phải, có xác của một con Zombie với đầu bị bể nát. Máu đọng lại thành vũng trong cái hốc mắt vô hồn của nó. Ở bên trái là hai cánh cửa mà ban đầu Chris chưa vào thử. Cánh cửa cuối cùng đã được ai đó mở ra, bên trong là bóng tối nặng nề bao trùm.
Chắc hẳn có ít nhất 1 thành viên STARS đã đi qua lối này, chắc là đi tìm mình.
“Theo anh”. Chris nói và nhanh chóng di chuyển đến cánh cửa đang mở, nắm chặt tay súng. Anh muốn quay lại đại sảnh cùng với Rebecca, nhưng trọng trách tìm kiếm đồng đội đang đè nặng lên vai anh.
Khi họ đi qua cánh cửa bị khóa bên phải, Rebecca thì thầm: “Có hình một thanh kiếm ở bên cạnh ổ khóa.”
Chris tập trung vào bóng tối trong cánh cửa, nhưng anh chợt nhận ra lời nói của cô đồng nghĩa với việc có rất nhiều khả năng họ sẽ bị lạc đường. Anh không nghĩ là những người còn lại có thể kiên nhẫn chờ mình, nhưng nhiệm vụ của anh là quay trở về sảnh chính; anh không nên dẫn theo một thành viên mới không được trang bị vũ khí vào một nơi chưa biết mà không kiểm tra qua.
Chris hạ vũ khí xuống, thở dài: “Mình quay về sảnh chính đi”. Anh nói. “Chúng ta có thể quay lại và kiểm tra nơi này sau.”
Rebecca gật đầu, và họ cùng nhau quay lại phòng ăn. Chris hy vọng rằng sẽ không có “ai” đang chờ họ ở đó…
Barry chĩa khẩu Colt về phía con quái vật kinh tởm đang bò về phía mình rồi bắt đầu bắn, hỏa lực mạnh mẽ của khẩu súng khiến hộp sọ con quái vật vỡ nát, chất lỏng trào ra ngay khi nó chạm được tới chân anh. Máu con zombie phun ra tung tóe khắp khuôn mặt nó khi nó co giật trước khi lìa đời. Barry cau có, chùi chùi cánh tay vào quần áo. Lớp đá ốp tường bé tí của căn phòng bếp khiến khung cảnh căn phòng trông còn tồi tệ hơn, những dòng máu đỏ lăn xuống qua các kẽ hở giữa mấy viên đá ốp, chảy tràn xuống lớp vải sơn lót sàn nhà màu nâu trông thật kinh tởm. Barry hạ khẩu súng lục xuống, cảm thấy vai trái của anh đau nhức. Cánh cửa tầng trên bị khóa cứng, và để phát hiện ra điều đó, anh đã phải huých vai phá cửa đến thâm tím cả vai. Và khi anh nhìn con zombie đang nằm trước mặt mình, anh nhận ra rằng thế nào anh cũng sẽ phải quay lại và phá nát một cái cửa khác. Lúc trước thì anh không chắc lắm nhưng giờ thì anh đã có thể khẳng định – Chris không đi lối này. Nếu có thì con quái vật vừa rồi đã “đi vào lịch sử”.
“Thế thì cậu đang ở chỗ quái quỉ nào vậy hả Chris?”
Ba cánh cửa đều bị khóa, Barry đã phá cánh cửa phía cuối hành lang theo linh cảm của anh mách bảo. Và anh thấy mình đứng trong một hành lang yên ắng tối tăm dẫn đến một chiếc thang máy trống rỗng ngay phía dưới một dãy cầu thang chật hẹp. Căn phòng bếp màu trắng ở phía dưới đáy của dãy cầu thang trông có vẻ trống trải, lớp đệm sàn phủ một lớp bụi dầy còn giấy dán tường thì đã phai màu – căn phòng này không có dấu hiệu nào mới được sử dụng gần đây, không thấy bóng dáng của Chris, còn cánh cửa đơn cạnh bồn rửa bát thì đã bị khóa. Anh đang chuẩn bị rời khỏi căn phòng thì anh để ý thấy một vệt dài kéo xuyên qua lớp bụi trên sàn nhà, anh liền thử đi theo hướng đó và chạm trán với con zombie vừa rồi.
Anh thở dài nặng nề, kiểm tra lại lần cuối rồi quay lại chỗ cánh cửa thứ hai. Có mấy cái thùng gỗ to theo kiểu cổ, cùng kiểu với chiếc thang máy, và cũng hoàn toàn rỗng không. Barry thậm chí còn chẳng thèm bấm thử nút “gọi” vì cái tương tự ở tầng trên khi anh bấm thử đã hoàn toàn không hoạt động. Bên cạnh đó là cái lò sưởi đã bị gỉ sét từ lâu, không ai dùng đến nó. Anh quay lại đường cũ trong khi không ngừng tự hỏi không biết Jill làm ăn thế nào rồi. Bọn anh cần rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt. Barry chưa bao giờ ghét nơi nào như cái biệt thự này. Nó vừa lạnh lẽo, vừa nguy hiểm lại có mùi giống như một kho thịt bị để thiu thối trong một tuần liền. Nói chung anh không phải loại người dễ dàng hoảng sợ hoặc để trí tưởng tượng của mình vượt ngoài tầm kiểm soát, nhưng anh luôn có cảm giác có một bóng trắng mang hình dạng quái vật xẹt qua sau lưng mỗi khi anh quay lại.
Bỗng có tiếng lách cách vang vọng sau lưng anh. Barry quay phắt lại, cảm thấy một nỗi khiếp sợ quặn lên trong ruột khi anh chĩa súng bừa vào khoảng không, mắt anh mở to, miệng khô đắng. Lại thêm một tiếng lách cách nữa vang lên, kèm theo là tiếng máy móc rộn rạo. Barry hít một hơi thật sâu rồi từ từ thở ra, lấy lại bình tĩnh. “Ít nhất thì cũng không phải tiếng động của linh hồn khi rời khỏi thể xác mà là có ai đó đang sử dụng thang máy. Ai vậy nhỉ? Chris và Wesker thì mất tích, còn Jill thì đang ở cánh khác của tòa nhà…”
Anh đứng yên tại chỗ, hạ thấp khẩu Colt xuống một chút và chờ đợi. Anh không nghĩ rằng bọn quái vật thông minh đến mức biết dùng thang máy, chưa kể còn phải biết mở cửa nữa, tuy nhiên anh không muốn mạo hiểm. Khả năng bắn của anh rất tốt trong vòng 20 bước từ chỗ anh đến chân cầu thang máy, nơi cánh cửa mở ra, giả định thang máy sẽ dừng ở tầng hầm thì anh có thể bắn trúng bất cứ ai bước ra từ đó. Một tia hy vọng lóe lên trong óc anh; biết đâu đó lại là một thành viên của đội Bravo, hay ai đó sống ở đây và người đó có thể nói cho bọn anh biết chuyện gì đã xảy ra thì sao.
Một tiếng kêu ảm đạm vang lên, thang máy dừng lại dưới nhà bếp. Tiếng bản lề sắt kêu ken két, tiếng bước chân và đội trưởng Wesker hiện ra, chiếc kính đen thường lệ được gác lên trên cặp lông mày màu nâu vàng. Barry hạ súng xuống, thở phào nhẹ nhõm, anh mỉm cười. Wesker dừng bước và cười đáp lễ lại anh.
“Barry! Đúng người tôi đang tìm đây rồi”, hắn nói nhẹ nhàng.
“Chúa ơi, anh làm tôi hoảng sợ đấy! Tôi nghe thấy tiếng thang máy khởi động và tưởng mình sắp bị đau tim đến nơi…”. Barry hơi lùi lại, nụ cười của anh trở nên ngập ngừng.
“Đội trưởng”, anh nói một cách từ tốn, “Anh đã đi đâu vậy? Khi bọn tôi quay lại thì anh đã đi đâu mất rồi.”
Wesker cười toe toét: “Tôi xin lỗi. Tôi có tí việc phải đi, anh cũng biết đấy, ‘tiếng gọi của tự nhiên’ ấy mà.”
Barry lại cười, nhưng anh cảm thấy ngạc nhiên về câu nói của Wesker. Bị kẹt lại giữa nơi nguy hiểm như thế này mà hắn ta còn có thể nghĩ đến chuyện đi vệ sinh được?
Wesker tiến lại gần và kéo nhẹ lưỡi trai trên mũ xuống, tránh nhìn thẳng vào mắt Barry, khiến anh tự nhiên có cảm giác bồn chồn. Nụ cười của Wesker có vẻ gì đó hết sức xảo trá. Trông như thể hắn đang khoe tất cả bộ hàm ra ngoài.
“Barry, tôi cần anh giúp đỡ. Anh đã bao giờ nghe nói đến White Umbrella chưa?”
Barry lắc đầu, anh cảm thấy càng ngày càng thiếu thoải mải.
“White Umbrella là một bộ phận của Khu Liên Hợp Umbrella, một phân khu rất quan trọng. Họ chuyên về… có thể gọi là nghiên cứu sinh vật học. Biệt thự Spencer đây chính là nơi nghiên cứu của họ, và gần đây, một vụ tai nạn đã xảy ra.”
Wesker phủi bụi khỏi một bức tường ở trung tâm nhà bếp rồi tùy tiện dựa người vào đó, hắn nói vui vẻ.
“Phân khu này của Umbrella có một chút liên kết với tổ chức S.T.A.R.S., và cách đây không lâu lắm, họ đã… ờ… nhờ tôi giúp đỡ trong việc xử lý tai nạn này. Thật là một tình huống khó xử, anh cũng thấy đấy, rất bí mật; White Umbrella không muốn bất cứ một tin đồn nào về sự dính dáng của họ lan ra ngoài.”
“Bây giờ, tôi định sẽ tới khu thí nghiệm ở dưới tầng hầm rồi xóa hết những chứng cứ chứng minh sự dính líu của White Umbrella với vụ tai nạn đã gây ra bao nhiêu rắc rối cho thành phố Racoon thời gian gần đây. Nhưng vấn đề ở chỗ tôi không có chìa khóa để đến chỗ lấy mấy cái chìa khóa mở cửa phòng thí nghiệm. Và đó là điều tôi muốn nhờ vả anh. Tôi muốn anh giúp tôi đi tìm những cái chìa khóa đó.”
Barry nhìn hắn chằm chằm mất một lúc, không nói gì cả, óc anh như bị khuấy tung lên.
“Một vụ tai nạn, một phòng thí nghiệm bí mật đang nghiên cứu sinh vật học…
… lũ chó giết người và bọn zombie lang thang trong rừng…”
Anh liền giương khẩu súng lục lên và chĩa thẳng vào khuôn mặt đang cười của Wesker, cau mày giận dữ.
“Mày điên đấy à? Mày nghĩ tao sẽ giúp mày phá hủy chứng cứ à? Đồ điên khùng khốn kiếp!”
Wesker lắc đầu một cách chậm rãi, hắn xử sự cứ như Barry chỉ là một đứa trẻ con. “A, anh Barry à, anh không hiểu vấn đề rồi; anh không có sự lựa chọn nào hết. Tôi nói cho anh biết, mấy tay bạn tôi ở White Umbrella hiện đang đứng ở ngay phía ngoài nhà anh, theo dõi vợ và mấy đứa con gái anh đang say ngủ. Nếu anh không giúp tôi, cả gia đình anh sẽ phải chết.”
Barry cảm thấy máu như bị rút hết khỏi mặt mình. Anh từ từ kéo cò súng, và cảm thấy sự căm thù đối với Wesker đột ngột trào lên tới từng đường gân thớ thịt trên cơ thể mình.
“Trước khi anh bóp cò, tôi xin thông báo cho anh biết một tin rằng nếu tôi không báo cáo lại với bọn bạn tôi sớm thì mệnh lệnh được giao cho bọn nó là cứ việc hành động.”
Câu nói của hắn khiến Barry trở nên hoang mang, tay anh run lên vì sợ hãi.
“Kathy, lũ trẻ – mình…”
“Mày định lừa tao đấy hả”, anh nói khẽ và nụ cười của Wesker cuối cùng cũng biến mất, mặt hắn trở lại cái vẻ khó đoán như mọi khi.
“Tôi lừa anh làm gì”, giọng hắn lạnh lẽo, “Không tin thì anh cứ thử giết tôi xem. Rồi sau này anh sẽ tha hồ mà sám hối trước bia mộ của gia đình mình.”
Mất một lúc, cả hai đứng tại chỗ, sự yên tĩnh như có thể sờ thấy được lan tỏa khắp không gian lạnh lẽo. Sau đó Barry từ từ nhả cò súng trở lại rồi hạ vũ khí, vai anh sụp xuống. Anh không thể mạo hiểm như thế được, gia đình đối với anh là tất cả.
Wesker gật đầu rồi lục túi rút ra một chùm chìa khóa, cử chỉ của hắn đột nhiên trở nên sôi nổi một cách rất kịch.
“Có bốn cái huy hiệu được cất ở đâu đó trong ngôi nhà này. Mỗi miếng to bằng cái tách trà, và được chạm khắc ở mặt bên hình: mặt trời, mặt trăng, những vì sao và gió. Và cánh cửa sau ở phía còn lại của ngôi nhà chính là nơi anh có thể đặt cả bốn miếng này vào”.
Hắn tháo lấy một chiếc từ chùm chìa khóa rồi đưa cho Barry.
“Cái chìa này có thể mở tất cả các cánh cửa ở phía còn lại của ngôi nhà, hay ít nhất thì nó cũng có thể mở những cánh cửa quan trọng ở tầng một và tầng hai. Anh hãy tìm những huy hiệu đó cho tôi và rồi vợ con anh sẽ được an toàn.”
Barry nhận lấy cái chìa khóa mà mấy ngón tay anh tê cóng, anh chưa bao giờ cảm thấy yếu đuối và sợ hãi như lúc này.
“Chris và Jill…”
“… sẽ không nghi ngờ gì khi giúp anh tìm kiếm mấy miếng đồng. Nếu anh thấy ai trong số họ thì hãy bảo rằng cánh cửa sau mà anh vừa mới phát hiện ra có lẽ là một trong những con đường thoát ra ngoài. Tôi dám chắc là họ sẽ rất vui mừng được làm việc cùng với một người bạn đáng tin cậy như anh Barry tốt bụng đây. Thực tế, tôi nghĩ anh nên mở khóa tất cả các cánh cửa anh có thể mở được để việc tìm kiếm thuận tiện và kỹ càng hơn.”
Wesker lại cười, kiểu cười nửa miệng ra vẻ thân thiện của hắn hoàn toàn trái ngược với những lời mà hắn nói. “Tất nhiên, nếu anh nói với họ là anh đã gặp tôi thì chỉ làm vấn đề trở nên rắc rối. Chẳng may mà tôi có bị sao đó, giả dụ như bị bắn trúng lưng chẳng hạn thì… mà thôi, nói vậy đủ rồi. Cứ như coi đây là bí mật giữa hai ta nhé.”
Chiếc chìa khóa được chạm khắc một hình vẽ nhỏ, phần bảo vệ khoang ngực của một bộ áo giáp sắt. Barry thả nó vào túi.
“Anh định sẽ đi đâu?”
“Ồ, anh đừng lo, tôi sẽ ở xung quanh thôi. Lúc nào cần thì tôi sẽ liên lạc với anh.”
Barry nhìn Wesker, anh không thể nào ngăn nổi sự sợ hãi lẫn van xin khi anh nói “Anh sẽ nói với họ là tôi đang giúp anh, đúng không? Anh sẽ không quên báo cáo lại đấy chứ?”
Wesker quay lưng lại và bước về phía thang máy, nói vọng lại:
“Tin tôi đi, Barry. Cứ làm những gì tôi bảo, anh sẽ không phải lo lắng gì hết.”
Tiếng cửa thang máy mờ ra rồi đóng lại lách cách, Wesker đã đi rồi.
Barry đứng ngây ra mất một lúc, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không nơi Wesker vừa ở đấy, cố tìm cách thoát khỏi những lời hăm dọa của hắn. Nhưng vô ích. Không có chuyện đắn đo giữa danh dự của anh và gia đình anh; anh vẫn có thể sống mà không có danh dự.
Anh cắn răng, bước trở lại dãy hành lang, quyết định sẽ làm những việc anh phải làm để cứu Kathy và lũ trẻ. Tuy nhiên, khi mà chuyện này kết thúc, khi mà anh có thể chắc chắn rằng gia đình mình đã an toàn.
“Thì không có cửa cho mày trốn thoát đâu, thưa “Đội trưởng”.”
Barry nắm chặt nắm đấm, các đốt ngón tay anh trắng bệch, anh thề sẽ bắt Wesker phải trả giá cho những gì hắn đang làm. Cả vốn lẫn lãi.