– Xin mời các vị quan nhân qua bên này.
Địch Thanh thấy kế sách đã thành công, đứng lên chắp tay với hai người Thượng Thánh nói:
– Thánh công tử, Diêm đại nhân, địch nhân xảo trá, hai người hãy chú ý chút. Xin mời!
Thượng Thánh cố nén bụng cười, học theo dáng điệu chắp tay của Địch Thanh nói:
– Diệp nhị bộ đầu, mời.
Địch Thanh khẽ giật mình, trong chốc lát liền tỉnh ngộ ra, nghĩ thầm vừa rồi mình bảo mình là đệ đệ của Diệp Tri Thu cho nên Thượng Thánh mới gọi mình là Diệp nhị bộ đầu, thầm cảm thấy buồn cười. Giả bộ làm dáng điệu của bộ đầu, hắn nghênh ngang đi theo sát nha hoàn.
Hai người thương nhân phía bên kia thấy Địch Thanh thầm thì với Phượng Sơ Ảnh mấy câu, thế mà lại được dẫn vào Thính Trúc tiểu viện của Trương Diệu Ca, kinh ngạc đến nỗi quai hàm suýt chút nữa rớt cả xuống chân, không nhịn được nhốn nháo cả lên.
Địch Thanh giao chuyện phiền phức cho Phượng Sơ Ảnh xử lí, bước theo nha hoàn qua Phượng Lưu đình, Thưởng U đài rồi đến phía trước Thính Trúc tiểu viện. Nha hoàn kia nói:
– Ba vị công tử chờ ở đây, tiểu nhân vào bẩm báo một tiếng.
Chưa nói dứt lời thì đã đi vào Thính Trúc tiểu viện.
Địch Thanh rỗi rãi, thấy gã trung niên mập trắng sầm mặt lại, liền hỏi:
– Vẫn chưa biết quý tính của vị tiên sinh này?
Người mập trắng lạnh lùng đáp:
– Họ Diêm, Diêm trong chữ Diêm Vương.
Lão vẫn trầm mặc từ đầu cho tới giờ, hiển nhiên không tán đồng với cách xử sự của Địch Thanh.
Địch Thanh khẽ giật mình, không ngờ mình chỉ thuận miệng nói ra cái tên này mà lại trúng. Thấy mặt lão ta bí xị như bị người ta quỵt nợ, trong lòng hắn cũng thấy không vui.
Đúng lúc này, nha hoàn từ Thính Trúc tiểu viện đi ra, hô:
– Xin mời ba vị.
Nàng đi đằng trước dẫn đường, Thánh công tử chăm chú đi theo, Địch Thanh lại mất hứng nói:
– Thánh công tử, ta còn có việc trong người, vì thế sẽ không vào đâu.
Thượng Thánh nghe vậy liền túm lấy Địch Thanh, vội la lên:
– Như vậy sao được, ba người chúng ta đến để bắt giặc, sao có thể thiếu được cao thủ như ngươi? Ngươi…nhất định phải đi theo.
Giọng điệu của gã nghe ra nhiều tha thiết lắm, khiến lòng Địch Thanh mềm nhũn, cuối cùng cũng phải đi thẳng về phía trước.
Gian Thính Trúc tiểu viện này thật thú vị lạ thường, lấy nét tịch mịch, yên tĩnh, trang nhã, giản đơn làm chủ đạo, khiến Thượng Thánh trên đường đi cứ không ngớt miệng khen. Đúng lúc này, lại có vài tiếng “tình tính tang” vang lên, âm thanh cao vút như vọng giữa mây trời, khiến cho tiểu viện như thêm phần tươi vui.
Âm điệu này sau khi xuyên qua mây vén sương mù, quanh co uốn lượn, dần dần trở nên trầm nhẹ, như oanh hót giữa vườn hoa, như suối buồn lắng đọng, tuyệt vời vô cùng.
Thượng Thánh nghe đến ngây ngẩn cả người, khen ngợi nói:
– Khúc nhạc này mới hay làm sao, ta rất thích.
Địch Thanh thầm nghĩ, nhìn dáng dấp ngươi xem ra cũng là kẻ có tiền, nhưng sao lại giống như kẻ suốt ngày bị giam trong lồng thế, cái này cũng tốt, cái kia cũng hay, cái này cũng mê, cái kia cũng thích?
Ba người bước lên lầu, tuy tiếng đàn đã dứt, nhưng dư âm vẫn chưa tan. Nha hoàn đẩy nhẹ cửa bước vào, chỉ vào chỗ có ba cái ghế trống, thấp giọng nói:
– Xin mời ngồi.
Nói xong dẫn ba người đến trước ghế, dâng lên ba chén trà xanh.
Trong lầu các có mười người nữa đang ngồi, trước mặt mỗi người đều chỉ có một chén trà xanh, nhưng nhìn họ sung sướng như thể được ăn sơn hào hải vị vậy.
Người con gái ngồi gần song cửa sổ nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, khẽ ngẩng đầu nhìn sang hướng này. Thượng Thánh vừa nhìn thấy, vốn định ngồi xuống nhưng lại đột nhiên đứng dậy, ngây ngốc nhìn nàng, tròng mắt cũng không đảo lấy một cái.
Ban đầu Thượng Thánh tán thưởng người ngoài, đều nói ta rất thích, nhưng giờ khắc này bờ môi chỉ nhúc nhích được hai cái, rốt cuộc ngay cả nửa chữ cũng không nói ra được.
Đôi mắt của nàng không phải là quá to, miệng cũng không được coi là quá nhỏ, phấn son cũng không quá dầy. Nếu chỉ nói riêng về khuôn mặt nàng thì không phải là quá đẹp, nhưng chỉ thoáng nhìn nàng như thế, thì tựa như gió lay cành liễu, trăng sáng nhìn người, phong tình vạn chủng, thật dễ động lòng người.
Mà chỗ động lòng người nhất của nàng, chính là ở cái phong tình.
Người khác nhìn thấy ánh mắt của cô gái này, giống như trầm mình trong nước biếc, nhìn thấy phong thái quyến rũ của nàng, tựa như được gột rửa bằng gió xuân. Không phải Thượng Thánh chưa từng nhìn thấy con gái, mà ngược lại những người gã nhìn thấy đều cực đẹp nhưng nếu so sánh với cô gái này, Thượng Thánh chỉ có thể nhận xét những người con gái trước đây, tất cả đều tầm thường!
Cô gái này tất nhiên là Trương Diệu Ca!
Lúc đôi mắt đẹp của Trương Diệu Ca lướt qua Thượng Thánh, mang theo đôi chút kinh ngạc, lúc nhìn người trung niên mập trắng, chau lại đôi mày, khi nhìn thấy Địch Thanh, đột nhiên khẽ bật cười.
Mọi người đều ngạc nhiên, trông theo ánh mắt Trương Diệu Ca, không hiểu vì sao nàng bật cười.
Trương Diệu Ca không cần cất tiếng hát, mỗi cử chỉ và hành động của nàng, một nụ cười, một cái chau mày đều là giọng ca không vang thành tiếng mà vẫn rung động lòng người. Lúc trước, Thượng Thánh mất hai mươi lạng bạc mua hai cái thẻ số còn cảm thấy không đáng, nhưng bây giờ gã bỗng cảm thấy chỉ cần gặp được Trương Diệu Ca một lần cho dù mất hai trăm lạng bạc cũng đáng.
Địch Thanh không hồn bay phách lạc như Thượng Thánh. Trên thực tế, bên trong các lâu, chỉ có hai người không hồn bay phách lạc trước Trương Diệu Ca, người thứ nhất là người trung niên mập trắng, người còn lại chính là Địch Thanh.
Người trung niên mập trắng vì lý do riêng của bản thân nên đối với con gái dù xinh đẹp cỡ nào lão cũng chẳng có cảm giác gì. Còn Địch Thanh thì cảm thấy Trương Diệu Ca có chút đáng thương, thậm chí hắn còn cảm thấy được, bản thân mình, Thượng Thánh và Trương Diệu Ca đều bị nhốt rất sâu vào thứ ngục tù mà không thể nào tự thoát ra được.
Bởi vậy, khi Địch Thánh thấy Trương Diệu Ca mỉm cười nhìn lại, cũng đáp lại bằng nụ cười, bước lên phía trước, cầm theo cành nhãn nhi mị ở trong tay đặt ở trước bàn Trương Diệu Ca, nói:
– Tặng cho cô.
Trương Diệu Ca hơi kinh ngạc, đôi mắt đẹp nhìn chăm chú vào mặt Địch Thanh, nhìn một lúc lâu mới nhẹ nhàng cất tiếng:
– Cảm ơn nhé.
Giọng nói của nàng như gió mát trăng thanh, mang theo một chút khí khái. Nàng cầm lấy cành nhãn nhi mị đặt ở trên bàn, đưa lên mũi ngửi, rồi mở môi son khen ngợi:
– Hoa đẹp! Quả thực có thể sánh với thơ của Liễu Thất(2).
Mọi người đều ngạc nhiên, trên mặt vài người đã lộ ra vẻ bất bình. Lúc Thượng Thánh nghe thấy hai chữ Liễu Thất lại khẽ nhíu mày.
Ít ai không biết Liễu Thất, chỗ nào có nước giếng chỗ đó có thơ văn của Liễu Thất!
Liễu Thất không phải quan to mà cũng chưa thi đỗ, dưới cái nhìn của người kinh thành, y chỉ là một thư sinh nghèo khổ. Nhưng tên tuổi của y thậm chí còn vượt qua cả hoàng đế đương triều.
Kim tiêu tửu tỉnh hà xử? Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt! (3)
(Đêm nay, nơi nao tỉnh rượu? Liễu xanh bờ, gió sớm trăng tan)
Chỉ bằng vào câu này, Liễu Thất đã trở thành tri kỉ của vô số nam nữ si tình trên đời này, và cũng là đối tượng ngưỡng mộ của vô số thiếu nữ khuê phòng cũng như hầu môn thâm phụ (những người vợ hay người thiếp trong gia đình quý tộc).
Thậm chí thanh lâu trong kinh thành còn lưu truyền một câu nói như thế này: “Không cần quân vương triệu, nguyện được Liễu Thất mời, không cần ngàn vàng bạc, nguyện được tâm Liễu Thất, không cần thấy thần tiên, nguyện được gặp Liễu Thất.”
Ở trong mắt của vô vàn ca kỹ, tưởng chừng như Liễu Thất còn oai phong hơn cả Hoàng đế.
Có người mến mộ, có người căm ghét, có người ghi nhớ, có người khinh bỉ. Người trong thiên hạ bình luận về Liễu Thất rất nhiều, tuy những lời nhận xét đều không giống nhau, nhưng không ai có thể phủ nhận, danh tiếng của Liễu Thất quả thực rất lớn, thế gian hiếm có. Nếu như Trương Diệu Ca khen Liễu Thất thì cũng là chuyện bình thường, nếu như bàn về tiền nhiều, mỗi người ngồi ở đây ai cũng đều hơn xa Liễu Thất, nhưng nếu bàn về văn chương thì dù là bóng lưng Liễu Thất cũng khó mà chạm tới được. Tuy nhiên, Trương Diệu Ca không ngờ lại nói đóa hoa của một tên cấm quân quèn tặng cho có thể sánh với thơ văn của Liễu Thất…
Không ai có thể phục!