Tôi đưa tay lên xoa xoa hai bên thái dương, cố làm dịu đi cảm giác bức bối trong lòng. Có thể bên ngoài anh ấy không bật cười phá lên nhưng chắc hẳn trong lòng đang thầm cười nhạo tôi phải biết. Làm sao mà không cười cơ chứ? Chẳng hiểu tôi đã nghĩ gì mà lại thốt ra những lời ấy?
“Em cũng không biết làm sao mình biết. Thậm chí em còn chẳng biết là điều đó có đúng không nữa. Nhưng khi em nhìn vào chị ấy, chị ấy… trông tối hơn rất nhiều so với những người xung quanh. Như thể chị ấy đang đứng trong một bức màn tối mà em không nhìn thấy được. Và em biết chị ấy sắp chết.”
Anh Nash nhíu mày nhìn tôi đầy lo lắng và tôi nhắm nghiền mắt lại, không để ý tới tiếng nhạc vọng ra từ trong CLB. Tôi biết cái nhìn đó. Đó là cái cách các bà mẹ thường nhìn những đứa con của mình khi chúng ngã trượt sau đó ngồi bật dậy huyên thuyên kể về những chú ngựa non màu tía và những con sóc biết nhảy.
“Em biết chuyện nghe có vẻ… “điên”… kỳ lạ, nhưng..”
Anh Nash cầm lấy hai tay tôi, quay hẳn người sang ngồi đối diện với tôi. Tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Anh mở miệng, và tôi nín thở chờ đợi “lời tuyên án” anh dành cho mình. Tôi đã để tuột mất anh ấy vì câu chuyện về bức màn bí ẩn quái dị kia hay bắt đầu từ lúc đánh rơi ly soda đá trong CLB?
“Công nhận anh nghe cũng thấy hơi kỳ lạ.”
Chúng tôi ngẩng đầu lên và thấy Emma đang đứng nhìn từ xa, tay cầm chai nước suối. Nước trên vỏ chai rỏ tong tỏng xuống sàn xi măng cáu bẩn. Tôi chỉ còn thiếu điều ôm đầu rên rỉ vì thất vọng. Những gì anh Nash đang định nói với tôi – tôi có thể nhận thấy điều đó qua nụ cười gượng gạo của anh, trước khi quay lại nhìn Emma.
Cậu ấy mở chai nước và đưa cho tôi. “Nhưng cậu đã không phải là Kaylee nếu thỉnh thoảng không làm cho mình hoảng hồn một vố như thế” – Emma cúi xuống kéo tôi đứng dậy và anh Nash cũng nhổm dậy theo – “Vậy ra cậu bị hoảng sợ vì cho rằng có cô gái nào đó trong CLB sắp chết á?”
Tôi ngập ngừng gật đầu, chờ đợi một tràng cười nhạo hay cái đảo mắt ngao ngán của Emma, nếu cậu ấy nghĩ rằng tôi đang nói đùa. Hoặc có thể là một cái nhìn sợ sệt, nếu cậu ấy biết không hề có chuyện đùa giỡn gì ở đây. Thay vào đó, lông mày của cậu ấy chổng ngược lên và Emma nghiêng đầu nhìn tôi thắc mắc “Ơ thế cậu không định báo trước cho chị ta một tiếng à? Hay là làm cái gì đó?”.
“Mình…” – tôi chớp mắt bối rối, nhíu mày nhìn về phía bức tường cũ kỹ đằng sau lưng cậu ấy. Quả thực là tôi chưa từng nghĩ tới điều đó – “Mình cũng chẳng biết nữa” – tôi liếc qua nhìn anh Nash, nhưng không tìm được câu trả lời nào từ đôi mắt giờ đã trở lại bình thường của anh – “Nhỡ chị ấy tưởng mình bị điên thì sao? Hoặc không thì chắc chị ấy sẽ sợ phát khiếp mất” — Hiển nhiên rồi, ai mà trách được chị ấy – “Thôi, chẳng cần, vì đấy cũng có phải là thật đâu! Đúng không? Không thể nào.”
Anh Nash khẽ nhún vai nhưng trông mặt anh như có vẻ muốn nói điều gì đó. Tuy nhiên Emma đã xen vào nói trước. “Tất nhiên là không phải rồi. Chẳng qua là cậu lại vừa bị một cơn hoảng loạn thôi và trí óc cậu cứ vịn vào người đầu tiên cậu nhìn thấy khi ấy. Có thể là mình, hay anh Nash, hay chị Traci. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì hết”. Tôi gật đầu, và mặc dù rất muốn tin vào cái lý thuyết này của Emma nhưng tôi vẫn thấy có gì đó không ổn. Nhưng tôi lại không dám đứng ra cảnh báo cho cô gái tóc đỏ kia. Cho dù bản thân tôi rõ mười mươi cái linh cảm ấy là gì, nhưng ý nghĩ phải bước tới nói với một người lạ huơ lạ hoắc rằng cô ta sắp chết cũng thấy điên rồ lắm rồi. Hơn nữa tôi đã có quá đủ sự điên rồ trong buổi tối ngày hôm nay.
Hay nói đúng hơn là trong hết quãng đời còn lại của tôi. “Cậu đã thấy khá hơn chưa?” – Emma hỏi, vừa thăm dò phản ứng của tôi – “Có muốn quay lại vào trong không?”
Tôi đã thấy khá hơn nhiều, nhưng cơn hoảng loạn khi nãy vẫn đang quanh quẩn đâu đó trong trí óc tôi và nó sẽ chỉ càng tồi tệ hơn nếu tôi gặp lại cô gái ấy. Tôi dám chắc là như thế. Thà chết chứ tôi không muốn chuyện đó tái diễn trước mặt anh Nash thêm một lần nào nữa, nếu có thể.
“Chắc mình về thẳng nhà thôi” – hai bác hôm nay đi ăn tiệm để mừng sinh nhật lần thứ 40 của bác gái. Chị Sophie thì tới nhà chị bạn cùng đội khiêu vũ để ngủ. Vì thế, lần đầu tiên trong đời tôi có cả căn nhà cho riêng mình. Tôi mỉm cười đầy vẻ hối lỗi với Emma – “Nhưng nếu cậu muốn ở lại thì cứ ở, lát về cùng chị Traci.”
“Thôi, mình sẽ về cùng cậu” – Emma với lấy chai nước trên tay tôi và ngửa cổ tu ừng ực – “Chị ấy đã quy định bọn mình phải về cùng nhau mà, cậu quên rồi à?”
“Chị ấy cũng đã bảo bọn mình không được uống đồ uống có cồn. ”
Emma đảo tròn đôi mắt nâu to tròn của mình và nói: “Nếu chị ấy thực sự nghĩ như vậy thì ngay từ đầu đã không lén cho tụi mình vào quán bar rồi.”
Tôi vẫn thường gọi đó là logic-của-Emma. Càng suy nghĩ về nó bạn sẽ càng thấy nó chẳng liên quan gì với nhau.
Emma hết nhìn tôi lại liếc sang nhìn anh Nash, sau đó mỉm cười và cắm đầu đi thẳng về bãi đỗ xe đối diện bên đường, tạo chút riêng tư cho anh và tôi. Tôi thò tay lấy chìa khóa xe trong túi áo và dán chặt mắt vào đó, cố tránh ánh mắt của anh Nash cho tới khi nghĩ ra được cần phải nói gì.
Anh ấy đã chứng kiến thời khắc tồi tệ nhất của tôi, và thay vì hoảng sợ hay cười nhạo tôi, anh đã giúp tôi lấy lại được bình tĩnh. Chúng tôi gắn kết với nhau theo cái cách mà nếu là một tiếng trước tôi không bao giờ dám nghĩ tới, đặc biệt với một người như anh Nash, người đã đi vào huyền thoại của trường tôi. Dẫu vậy, tôi vẫn không vượt qua được nỗi lo sợ rằng giấc mơ đêm nay sẽ kết thúc bằng cơn ác mộng ngày mai. Rằng ngày mai khi lý trí của anh hồi tỉnh lại và anh sẽ tự hỏi bản thân sao lại đi dính líu tới một đứa quái đản như tôi.
Tôi mở miệng tính nói chuyện nhưng không thốt nên được lời nào. Tiếng leng keng của chìa khóa va đập vào nhau đã hướng sự tập trung của anh vào chùm chìa khóa trên tay tôi.
“Em có lái xe được không đây?” – anh nháy mắt với tôi, làm trái tim tôi một lần nữa lại đập chệch nhịp – “Anh có thể đưa em về và đi bộ từ đó về nhà. Em ở khu Parkview đúng không? Chỉ cách nhà anh có vài phút thôi.”
Anh ấy biết mình sống ở đâu ư? Trông mặt tôi lúc đó hẳn là phải hoài nghi lắm nên anh ấy mới phải vội vàng giải thích ngay. “Anh từng cho chị gái em đi nhờ xe một lần. Hồi tháng trước.”
Mím chặt môi, tôi có thể cảm nhận mặt mình đang tối lại, “Đó là chị họ của em.” Anh Nash cho chị Sophie đi nhờ xe sao? Chắc không phải là anh ấy đang cố nói giảm nói tránh đi đấy chứ…
Ngay lập tức anh Nash nhíu mày lại và lắc đầu như để trả lời cho câu hỏi ngầm vừa rồi của tôi. “Là anh Scott Carter nhờ anh đưa chị em về.”
À, ra thế. Tôi gật đầu và anh nhún vai hỏi tiếp: “Thế em có muốn anh đưa hai em về không?”. Anh chìa tay ra hỏi chìa khóa.
“Không cần đâu ạ. Em có thể tự lái được.” Tôi vốn không có thói quen để người mới quen cầm lái xe của mình. Đặc biệt là những anh chàng điển trai – mà theo giang hồ đồn đại – từng phải nhận hai tờ giấy phạt tốc độ khi lái con xe Firebird của cô bồ cũ.
Anh Nash nhún vai cười, để lộ hai má lúm đồng tiền siêu đáng yêu. “Thế có thể cho anh đi nhờ được không? Anh đi cùng anh Carter mà anh ấy chắc phải vài tiếng nữa mới về.”
Giờ đến cả cái mạch máu ở cổ họng tôi cũng đang đập liên hồi. Anh ấy bỏ về sớm chỉ để đi cùng xe với mình sao? Hay là mình đã phá hỏng buổi tối của anh ấy bởi chứng cuồng loạn đầy hoang tưởng khi nãy của mình?
“Ừm… được ạ.” – Xe tôi cả tuần nay chưa rửa, nhưng giờ cũng đã quá muộn để lo lắng về điều đó – “Nhưng anh sẽ phải thương lượng với Emma.”
Tôi đã lo lắng hơi thừa bởi Emma đã chủ động xung phong ngồi băng ghế sau, sau khi nháy mắt nhìn tôi đầy ý nhị và chỉ chỏ về phía anh Nash, đồng thời nhanh tay gạt mấy mẩu vụn khoai tây chiên xuống sàn. Tôi đưa Emma về nhà trước, đúng một tiếng rưỡi đồng hồ sớm hơn giờ giới nghiêm mà bố mẹ cậu ấy đặt ra – đây quả là một kỷ lục đối với Emma.
Ngay khi tôi vừa lùi xe ra khỏi cổng nhà Emma, anh Nash xoay người đối diện với tôi, nét mặt anh ấy buồn buồn và tim tôi đột nhiên đau thắt lại. Hẳn là đã đến lúc nói lời từ chối rồi đây. Vì muốn giữ thể diện cho tôi mà anh ấy không nỡ nói ra trước mặt Emma, và giờ ngay cả khi không có mặt Emma, anh cũng vẫn muốn lựa lời nói khéo với tôi.
Tựu chung lại vẫn là một câu: Anh không hề thích em. Hay chí ít là sau cơn hoảng loạn vừa rồi của tôi giữa chốn đông người.
“Thế trước đây em đã từng bị hoảng sợ như thế bao giờ chưa?”
Hả? Vừa vòng xe rẽ trái tôi vừa bấu chặt hai tay vào vô-lăng vì bất ngờ.
“Vài lần rồi ạ.” Gần chục lần chứ chả ít. Tôi không giấu nổi sự hoài nghi trong giọng nói của mình. “Vấn đề” của tôi đáng ra phải khiến cho anh cao chạy xa bay từ lâu rồi mới phải, vậy mà ngược lại, anh lại muốn biết thêm chi tiết là sao? Tại sao?
“Bố mẹ em có biết không?”
Tôi khẽ cựa mình trên ghế lái, như thể một tư thế ngồi mới sẽ giúp cho tôi cảm thấy thoải mái hơn với câu hỏi vừa rồi. Nhưng chẳng ích gì. “Mẹ em mất khi em còn bé, và bố em không thể tự nuôi em. Ông đã chuyển tới sống ở Ai-len và từ đó em sống cùng gia đình bác em ở đây.”
Anh Nash chớp chớp mắt và gật đầu ra hiệu cho tôi nói tiếp. Anh ấy không hề tỏ ra thông cảm một cách gượng gạo hay ngượng ngùng hắng giọng kiểu ôi-chẳng-biết-phải-nói- gì-lúc-này-nữa, những cách phản ứng mà tôi vẫn thường nhận được mỗi khi mọi người phát hiện ra tôi là đứa trẻ mồ côi mẹ và bị bố bỏ rơi. Tôi thích anh vì điều đó, mặc dù không hề mong muốn phải nghe những kiểu câu hỏi như thế.
“Thế hai bác nhà em có biết không?”
Nghĩ gì. Họ luôn cho rằng em là quả trứng ung của dòng họ. Nhưng sự thật này quá đau lòng để tôi có thể thốt ra thành lời với anh.
Tôi quay sang nhìn anh và thấy anh đang quan sát tôi rất chăm chú. Một lần nữa, sự nghi ngờ lại bùng cháy trong tôi, như muốn thiêu đốt ruột gan tôi. Tại sao anh ấy lại quan tâm muốn biết liệu gia đình tôi có biết gì về chứng bệnh chẳng-còn-gì-là-bí-mật của tôi như thế? Trừ phi anh ấy đang ngấm ngầm thu thập thông tin để lôi tôi ra làm trò cười với đám bạn của mình.
Nhưng ngược lại tôi không nhìn thấy một tẹo dã tâm nào trong sự hứng thú của anh đối với vấn đề của tôi. Đặc biệt là sau những gì anh đã làm cho tôi ở CLB Taboo. Hoặc có thể anh ấy chỉ đang giả vờ hỏi han vậy thôi chứ thực chất lại đang theo đuổi một thứ khác. Thứ mà đám con gái hiếm khi từ chối anh, nếu tin đồn là thật.
Nếu không đạt được mục đích của mình, liệu anh ấy có định đem cái bí mật tăm tối và đau đớn này của tôi ra làm trò cười ở trường không?
Không đâu. Chỉ riêng cái ý nghĩ đó thôi cũng khiến trái tim tôi đau nhói, và tôi đã nhấn phanh rất mạnh trước khi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ.
Chân tôi vẫn giữ nguyên ở bàn đạp phanh, liếc vội qua gương chiếu hậu thấy con phố sau lưng vắng tanh không một bóng người, tôi lập tức chuyển về chế độ đỗ và quay sang nhìn thẳng vào mặt anh Nash, lấy hết can đảm nghiêm giọng hỏi: “Anh muốn gì ở em?” Tôi cần phải hỏi ngay trước khi kịp đổi ý.
Anh Nash trợn tròn mắt kinh ngạc, tựa hẳn lưng vào cánh cửa xe bên kia, như thể tôi vừa đẩy anh ấy không bằng. “Anh chỉ… Không có gì.”
“Vậy là anh không muốn gì?” – tôi rất muốn nhìn vào đôi mắt nâu lục nhạt sâu thẳm kia, nhưng cái đèn cao áp gần đó nhất cũng không rọi được vào đến xe tôi, ngoài ánh sáng tù mù phát ra từ tấm chắn bùn của xe, và nó không đủ sáng để tôi có thể đọc được biểu cảm trên khuôn mặt anh lúc này – “Em có thể đếm số lần chúng ta nói chuyện với nhau trước buổi tối hôm nay chỉ trên một bàn tay” – Tôi giơ một tay lên để nhấn mạnh thêm – “Rồi bỗng dưng anh thình lình xuất hiện và trở thành hiệp sỹ trắng giải cứu em khỏi cơn hoảng loạn, và giờ anh muốn em tin rằng không hề muốn gì đáp lại sao? Và không có gì để kể cho đám bạn anh nghe vào thứ Hai tới?”
Anh ấy đã cố bật cười một cách gượng gạo và không thoải mái thấy rõ trên cái ghế của mình. “Anh không bao giờ…”
“Anh thôi đi được rồi đấy. Thiên hạ đồn rằng anh đã chinh phục được lãnh thổ còn rộng hơn cả Thành Cát Tư Hãn.”
Ánh mắt anh nhìn tôi đầy thách thức. “Em tin vào mọi điều em nghe thấy à?”
Tôi cũng không chịu thua, vênh mặt lên nhìn ngược lại anh. “Thế anh có phủ nhận điều đó không?”
Thay vì trả lời, anh bật cười phá lên, và lần này tiếng cười của anh nghe không hề gượng gạo một tí nào. Anh chống một bên khuỷu tay vào tay nắm cửa, nheo mắt nhìn tôi. “Em vẫn thường tỏ ra khó chịu thế này với những anh chàng ngồi hát cho em nghe giữa đêm khuya lạnh giá, trong một con hẻm tối đen như mực à?”
Câu phản pháo đã chuẩn bị sẵn lập tức tắt lịm trên môi tôi, trước Iời nhắc nhở đầy thâm thúy của anh. Quả thực anh đã hát cho tôi nghe và bằng cách nào đó thuyết phục được cơn hoảng loạn trong tôi. Anh đã giúp tôi không bị mất mặt trước đám đông. Nhưng chắc chắn phải có lý do gì thì anh ấy mới làm như vậy bởi tôi đâu có thể được coi là một đỉnh cao chinh phục.
“Em không tin anh” – cuối cùng tôi đành thật thà thú nhận.
“Nói thật là giờ anh cũng chẳng tin em” – anh mỉm cười nhìn tôi, để lộ cái lúm đồng tiền duyên chết người của mình – “Em định đá anh ra khỏi xe hay là đưa anh về tận cửa đây?
Đó sẽ là thứ duy nhất anh có được từ tôi. Không nói không rằng tôi chuyển sang chế độ lái và cho xe tiếp tục lăn bánh trên đường, sau đó rẽ phải vào khu phố nhà anh. Chẳng thể có chuyện đi bộ từ nhà tôi tới đây mà chỉ mất có vài phút được. Không lẽ anh ấy thực sự định đi bộ nếu tôi chịu để anh lái xe đưa về?
Liệu anh ấy có đưa tôi về thẳng nhà không?
“Rẽ trái, sau đó rẽ phải tiếp. Chính là cái nhà ở góc đường trước mặt.”
Đó là một căn nhà nhỏ ở một khu phố cũ. Tôi đậu xe sát bên cạnh một chiếc xe Saab cũ mèm. Cánh cửa bên ghế chính vẫn đang mở, vì thế ánh đèn trong xe rọi ra cả tấm thảm cỏ khô bên trái vệ đường.
“Cửa xe anh vẫn đang mở kìa” – tôi nói, chuyển cần gạt sang chế độ đỗ, mừng thầm trong bụng vì có đề tài gì đó khác để nói với anh.
Anh Nash thở dài ngao ngán. “Xe của mẹ anh đấy. Mẹ anh đã phải thay tới ba cái ắc quy trong vòng sáu tháng.” Tôi mím môi cười khi thấy cái đèn xe lóe lên một cái rồi tắt ngúm. “Có vẻ như sẽ cần tới cái thứ tư rồi.”
Giọng anh kêu lên đầy đau khổ, nhưng khi tôi nhìn sang thì thấy anh đang nhìn tôi chăm chú hơn là để ý tới cái xe. “Thế… liệu anh có cơ hội để giành được sự tin tưởng của em không?”
Mạch máu tôi lại tăng vọt lên một lần nữa. Anh ấy đang nói thật đấy à?
Đáng ra tôi phải nói không. Đáng ra tôi phải nói lời cảm ơn anh vì đã giúp đỡ tôi ở CLB Taboo, sau đó bỏ mặc anh đứng trước cửa nhà dõi theo bóng xe tôi. Nhưng tôi đã không đủ mạnh mẽ để khước từ hai cái lúm đồng tiền đáng yêu kia. Kể cả khi đã biết thừa rằng có biết bao cô gái cũng từng thất bại như mình.
Thôi thì cứ đổ cho sự yếu lòng này là do cơn hoảng loạn hồi tối là xong.
“Bằng cách nào?” – mặt tôi đỏ bừng lên khi thấy nụ cười mỉm của anh. Rõ ràng anh ấy đã đoán được trước là tôi sẽ đầu hàng mà.
“Em hãy tới đây vào tối mai được không?”
Đến nhà anh ấy á? Đừng hòng. Tôi có thể yếu lòng thật đấy nhưng chưa đến mức ngu dại. Hơn nữa có muốn cũng chẳng được… “Chủ Nhật em phải làm việc tới chín giờ.”
“Thế thì gặp nhau ở rạp phim nhá?”
Anh ấy biết mình làm thêm ở đâu. Một bất ngờ thật ngọt ngào!!! Và tôi nhíu mày trước câu hỏi của anh.
“Có lần anh nhìn thấy em ở đó.”
“À” – tất nhiên là anh ấy từng thấy tôi rồi. Có lẽ là trong một lần hẹn hò nào đấy – “Vâng, em làm việc ở quầy vé từ hai giờ trở đi.”
“Thế thì hẹn nhau ăn trưa nhé?”
Ăn trưa. Tại một quán ăn công cộng. Cùng anh Nash. “Cũng được. Nhưng em vẫn không tin anh.”
Anh nhe răng cười, đưa tay mở cửa xe và cái đèn trên đầu anh bật sáng. Đôi mắt nâu đầy ma lực kia lại một lần nữa khiến trái tim tôi rộn ràng. Đột nhiên anh nhoài người về phía tôi như thể sắp sửa hôn tôi vậy. Má anh khẽ chạm vào má tôi và tôi có thể cảm nhận được hơi thở ấm áp của anh khi anh thì thầm vào tai tôi: “Như thế càng thú vị.” Cổ họng tôi nghẹn lại, và trước khi tôi kịp mở miệng, anh đã chui ra khỏi xe từ lúc nào. Anh đưa tay đóng cửa xe tôi lại, sau đó đi vòng ra sau đóng lại cửa xe cho mẹ.
Tôi lùi xe rời khỏi khu nhà anh và cho tới tận khi đậu xe trước cửa nhà mình, tôi vẫn không tài nào nhớ được mình đã lái xe về nhà như thế nào.
“CHÀO BUỔI SÁNG, KAYLEE” – trong gian bếp giờ đã tràn ngập ánh nắng của buổi sáng muộn, bác Val đang đứng cạnh bàn ăn, tay cầm cốc cà phê to đùng bát vại, khói vẫn bốc nghi ngút. Bác ấy khoác cái áo sa-tanh xanh cùng với màu mắt, mấy lọn tóc nâu bóng mượt vẫn còn rối bù sau một đêm ngủ dậy. Và mặc dù rối nhưng chúng vẫn rối rất kiểu cách, giống như trong phim, khi các ngôi sao thức giấc với khuôn mặt vẫn còn nguyên phấn son và bộ quần áo ngủ phẳng phiu không một nếp nhăn.
Tóc tai là thứ chẳng bao giờ tôi quan tâm tới sau khi ngủ dậy.
Cái áo khoác ngủ và kích cỡ của cốc cà phê là dấu hiệu duy nhất chứng tỏ hai bác ấy đã có một buổi tối muộn. Hay nói đúng hơn là một buổi sáng sớm. Tôi nghe thấy tiếng họ về nhà lúc hai giờ sáng, khúc kha khúc khích trong phòng khách.
Sau đó tôi đã phải đeo tai nghe vào tai để không phải nghe những lời đường mật mà bác trai dành cho bác gái, về cuộc hôn nhân mười bảy năm vẫn như mới của hai người. Bác Brendon vốn trẻ hơn vợ bốn tuổi vì thế bác gái tôi luôn cảm thấy tự ti về tuổi tác của mình.
Vấn đề không phải là bác gái trông già như tuổi thật của mình – nhờ có Botox và những bài tập luyện điên cuồng trông bác ấy giỏi lắm cũng chỉ 35 tuổi là cùng – mà là bác trai trông trẻ hơn tuổi. Trước đây bác gái vẫn thường gọi đùa chồng mình là Peter Pan, nhưng kể từ khi bước sang đầu 4, bác ấy không còn thấy trò đùa của mình thú vị nữa.
“Ngũ cốc hay bánh waffle nào?” – bác Val đặt cốc cà phê lên bệ bếp, mở tủ lạnh lấy hộp Eggo vị việt quất ra giơ lên hỏi tôi. Bác ấy không có thói quen làm bữa sáng, vì sợ quá nhiều calo. Bác ấy không nấu những món bác ấy không thể ăn, nhưng cũng không hạn chế mọi người trong nhà, ai muốn ăn gì thì ăn.
Bình thường bác Brendon đã phải ăn sắp xong bữa-sáng-thứ-Bảy-hoành-tráng (toàn chất béo và cholesterol) rồi, vậy mà giờ này tôi vẫn nghe thấy tiếng ngáy như sấm rền của bác ấy vọng ra từ trong phòng ngủ.
Tôi đi qua phòng khách và bước vào trong bếp. “Chỉ một lát bánh mỳ nướng thôi ạ. Lát cháu hẹn đi ăn trưa với bạn rồi.”
Bác Val cất hộp bánh waffle trở lại vào tủ lạnh và đưa cho tôi ổ bánh mỳ ít calo – loại bánh mỳ duy nhất bác ấy chịu mua. “Với Emma à?”
Tôi lắc đầu và cho hai lát bánh mỳ vào trong lò nướng, sau đó đưa tay xốc lại cái quần pyjama và kéo dây rút buộc lại cho chặt.
Lông mày bác ấy lập tức nhướn lên đầy nghi hoặc: “Cháu có bạn trai rồi à? Bác có biết người đó không?” Hả, bác ấy hỏi thế là ý gì? “Không phải là ai trong đám bạn trai cũ của chị Sophie đấy chứ?”
“Chắc không đâu ạ.” Bác Val chưa bao giờ che giấu nỗi thất vọng thường trực của mình đối vói tôi, bởi vì không giống như cô con gái của bác ấy – cô học sinh năm hai trung học đầy tham vọng và hướng ngoại – tôi không hề hứng thú với các hoạt động của hội học sinh, hay đội khiêu vũ, hay ủy ban tổ chức lễ hội carnival mùa Đông. Một phần cũng là vì chị Sophie sẽ khiến cho cuộc sống của tôi thành địa ngục nếu tôi dám xâm phạm vào lãnh địa “của chị ấy”. Nhưng lý do chính vẫn là vì tôi phải đi làm thêm để kiếm tiền trang trải cho cái xe, và tôi chẳng thà dành chỗ thời gian rảnh rỗi ít ỏi còn lại của mình với Emma còn hơn là ngồi giúp đội khiêu vũ gắn đá lên các bộ trang phục lấp lánh.
Mặc dù anh Nash chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của bác Val, nhưng tôi không muốn bị bác ấy bám theo tra hỏi lúc tôi về nhà sau đó, với đôi mắt hấp háy đầy hi vọng về một sự cải thiện nào đó trong quan hệ xã hội của tôi – thứ mà tôi chẳng bao giờ màng tới. Tôi hạnh phúc với Emma và đám bạn của cậu ấy.
“Tên anh ấy là Nash.”
Bác Val mở ngăn kéo lấy dao phết bơ. “Cậu ta bao nhiêu tuổi?”
Tôi gào thầm trong bụng. “Năm cuối trung học ạ.” Rồi, bắt đầu…
Nụ cười trên miệng bác ấy giờ đã sắp ngoác ra tới tận mang tai rồi. “Tuyệt vời!”
Tất nhiên, ý bác ấy thực sự muốn nói là “Hãy vươn lên từ bóng tối, và những kỳ thị của xã hội mà bước ra ánh sáng chói lòa của sự chấp nhận!” Hoặc mấy câu triết lý rởm đời tương tự. Bởi vì theo quan điểm của bà bác và cô chị họ quý báu của tôi, thế giới chỉ tồn tại hai dạng người: Sáng lấp lánh và bụi bặm. Và nếu bạn không sáng lấp lánh thì đương nhiên bạn phải nằm ở nhóm còn lại…
Tôi quệt mứt dâu lên bánh mỳ và ngồi xuống bàn ăn. Bác Val rót thêm cà phê vào cốc, sau đó giơ điều khiển bật cái TV 50 inch màn hình phẳng trong phòng khách, kết thúc “cuộc trò chuyện” buổi sáng của hai bác cháu.
“… trực tiếp từ CLB Taboo, tại khu West End, nơi thi thể của Heidi Anderson, 19 tuổi được tìm thấy trên sàn phòng vệ sinh.”
Khôngggg…
Bụng tôi quặn lại, lát bánh mỳ đang cắn dở rơi chỏng chơ xuống đĩa. Trên màn hình, nữ phóng viên mặt mày nghiêm nghị đang đứng tại con hẻm nơi tôi và Emma vừa chuồn vào chưa đầy mười hai tiếng trước. Kế đó là bức ảnh chị Heidi Anderson mặc áo phông trước Đại học UT Arlington đang cười toe toét trên bãi cỏ, mái tóc đỏ rực bay phất phơ trong gió.
Chính là chị ấy.
Tôi bỗng thấy ngạt thở.
“Kaylee, cháu sao thế?”
Tôi chớp mắt và hít một hơi thật mạnh, sau đó ngước mắt lên nhìn bác Val, người đang nhìn chằm chằm vào lát bánh mỳ phết mứt dâu cắn dở trên đĩa của tôi. Vẫn còn may là tôi chưa cho ra nốt nửa còn lại đấy.
“Không có gì ạ. Bác cho tiếng to lên một chút được không ạ?” – tôi gạt cái đĩa sang một bên và bác Val bấm nút điều khiển TV, nhíu mày nhìn tôi đầy khó hiểu.
“Hiện các cơ quan chức năng chưa phát hiện ra nguyên nhân tử vong là gì” – tiếng cô phóng viên vọng ra từ TV – “Nhưng theo như lời của một nhân viên quán bar, người đã phát hiện ra thi thể của cô Anderson, không hề có dấu hiệu của xô xát hay ẩu đả.”
Hình ảnh trên TV lại thay đổi và giờ là hình ảnh chị Traci Marshall đang nhìn vào máy quay, khuôn mặt trắng bệch, giọng run rẩy như sắp khóc. “Câ ấy nằm ở đó giống như đang ngủ vậy. Tôi cứ tưởng cô ấy chỉ uống say quá nên ngất đi thôi, cho tới khi phát hiện ra cô ấy không còn thở nữa.”
Kế đó cô phóng viên bình luận câu gì đó nhưng tôi không nghe rõ vì bị bác Val xen vào hỏi trước: “Đó có phải là chị gái của Emma không?”
“Vâng, chị ấy là nhân viên quầy bar ở CLB Taboo.”
Bác Val lại quay ra theo dõi TV rồi lắc đầu thở dài. “Đúng là bi kịch…”
Tôi gật đầu. Bác không biết chuyện gì đã xảy ra đâu. Nhưng tôi thì biết.
Toàn thân tôi sởn hết gai ốc vì sợ. Chuyện đó đã thực sự xảy ra.
Đã từng chứng kiến không ít những cơn hoảng sợ trước đây của tôi nên giờ hai bác nhà tôi không còn để tâm tới mấy câu chuyện về bóng tối mờ ảo và cái chết được báo trước này nữa. Và chính vì không có cách nào dỗ cho tôi nín thét, một khi tiếng thét ấy thoát ra, việc duy nhất họ có thể làm là đưa tôi về nhà – thật trùng hợp, nó đồng nghĩa với việc đưa tôi tránh xa khỏi nhân tố gây ra cơn hoảng loạn – rồi chờ cho tôi bình tâm trở lại. Trừ có lần gần đây nhất, họ đã đưa tôi thẳng tới bệnh viện vào khoa tâm thần và bắt đầu nhìn tôi với ánh mắt đầy thương hại. Lo lắng. Và mặc dù không nói ra thành lời nhưng tôi biết cả hai đều thở phào nhẹ nhõm khi đứa mất trí là tôi chứ không phải cô con gái quý báu của họ.
Tôi đứng bật dậy, nhanh tới nỗi xém chút nữa xô đổ cả ghế. Tôi cần phải kể với ai đó. Tôi cần phải nhìn vào mắt ai đó và xác định lại câu chuyện này một lần nữa, để chắc chắn rằng mình không phải đang tưởng tượng ra bản tin vừa rồi. Bởi vì nếu đến cả chuyện bóng tối và cái chết mà tôi còn tưởng tượng ra được thì không có gì mà cái đầu bệnh tật đáng thương này không phóng tác ra được. Có điều tôi không thể kể chuyện đó với bác Val mà bỏ qua chi tiết mình lén tới CLB đêm qua. Và một khi để bác ấy biết là tôi trốn nhà đi chơi đêm thì khỏi cần nói thêm câu nào nữa. Bác ấy sẽ lập tức tịch thu hết chìa khóa của tôi và gọi điện cho bố tôi.
Vì thế… có thể bỏ qua bác Val. Nhưng Emma chắc chắn sẽ tin lời tôi.
Tôi bỏ đĩa vào trong bồn rửa bát và chạy vụt lên phòng lờ đi coi như không nghe thấy tiếng bác ấy gọi với theo. Đóng sập cửa lại sau lưng, tôi phi thật nhanh tới cạnh giường, nhấc vội cái điện thoại đang cắm sạc pin từ tối hôm qua lên và quay số.
Tôi gọi vào di động của Emma và suýt nữa rú lên vì bất ngờ khi nhận ra người nghe máy là mẹ cậu ấy. Nhưng tối qua chẳng phải lần đầu tiên Emma đã về nhà sớm tận một tiếng rồi đó sao? Rút cuộc lần này cậu ấy bị phạt cấm túc vì chuyện gì cơ chứ?
“Cháu chào cô Marshall” – tôi nằm phịch ra giường ngước mắt nhìn lên trần nhà hình vỏ trứng của mình-“Cô cho cháu gặp Emma với ạ. Cháu có chút việc quan trọng muốn nói với bạn ấy.”
Cô Marshall thở dài. “Hôm nay thì không được, Kaylee ạ. Tối qua Emma về nhà trong tình trạng hơi thở nồng nặc mùi rượu rum. Con bé sẽ bị phạt cấm túc vô thời hạn. Cô hy vọng rằng cháu đã không uống với Emma.”
Ôi mẹ ơi. Tôi nhắm chặt mắt lại, cố gắng nghĩ ra một câu trả lời hợp lý để không làm cho tình hình của Emma tồi tệ hơn. Nhưng chẳng nghĩ ra được câu nào. “Ưm… dạ không ạ. Vì cháu còn phải lái xe.”
“Cũng còn may là một trong hai đứa vẫn còn chút tỉnh táo. Cô nhờ cháu một việc, lần sau nhớ chia sẻ cho Emma một chút tỉnh táo đó với nhé. Nếu cô còn cho nó ra khỏi nhà.”
“Dạ, cô yên tâm, cô Marshall ạ.” Tôi cúp máy, đột nhiên thấy mừng thầm vì đã không ngủ lại nhà Marshall như dự định ban đầu. Với việc Emma bị phạt cấm túc và chị Traci có lẽ vẫn chưa hết sốc, không hiểu bữa sáng ở nhà đó sẽ gượng gạo tới mức nào.
Sau một phút ngập ngừng, cộng thêm chút lo lắng, tôi quyết định gọi điện cho anh Nash, bởi vì mặc dù có nhiều lời đồn đại không hay về anh và cá nhân tôi vẫn còn chút nghi ngờ về động cơ của anh, nhưng ít ra thì anh ấy đã không cười phá lên khi tôi kể cho anh nghe sự thật về cơn hoảng sợ của mình.
Giờ Emma đã bị phạt cấm túc, chỉ còn mỗi anh Nash là người duy nhất biết chuyện.
Tôi lại nhấc điện thoại lên – và chợt nhớ ra mình không hề biết số của anh ấy.
Tôi rón rén đi vào phòng khách lấy quyển danh bạ điện thoại trong ngăn kéo và quay trở lại về phòng, cẩn thận không để hai bác, đang ríu rít chuẩn bị đồ ăn với nhau trong bếp, nghe thấy. Có bốn nhà họ Hudson nhưng chỉ có duy nhất một nhà nằm trong khu phố nhà anh. Sau ba hồi chuông, anh Nash là người bắt máy.
Tim tôi đập mạnh tới mức tôi tin rằng anh Nash ở đầu dây bên kia cũng có thể nghe thấy, và trong vài giây tôi chỉ biết im lặng không thốt ra được lời nào.
“Alo?” – anh hỏi lại, giọng có vẻ khó chịu của một người ngái ngủ.
“Chào anh, là em, Kaylee đây” – cuối cùng tôi cũng bật ra được một câu. Chỉ hy vọng anh ấy vẫn còn nhớ tôi là ai – và rằng tôi không hề tưởng tượng ra điệu nhảy với anh Nash tối qua. Bởi vì thú thật sau những chuyện vừa xảy ra tối qua và bản tin sáng nay, ngay đến bản thân tôi cũng bắt đầu tự hỏi không hiểu những gì chị Sophie nói về tôi có phải là sự thật không.
Anh Nash hắng giọng, giọng vẫn khản đặc vì ngái ngủ. “Chào em. Đừng nói là em gọi để hủy cuộc hẹn trưa nay nhá.”
Tôi không thể không mỉm cười khi nghe thấy câu nói đó của anh. “Không ạ. Em… Anh đã xem tin tức sáng nay chưa?”
“Anh còn chưa nhìn xuống tới cái sàn nhà nữa là” – anh vừa nói vừa ngáp dài. Qua điện thoại, tôi có thể nghe thấy tiếng cót két của cái đệm lò xo. Hóa ra anh ấy vẫn đang ở trên giường.
Tôi lắc lắc đầu cố gắng phanh cái trí tưởng tượng đang ngày càng bay xa của mình lại. Giờ tôi cần phải tập trung vào vấn đề chính trước mắt. “Anh hãy bật TV lên đi.”
“Anh không quan tâm lắm tới tin tức thời sự…”- lại có tiếng đệm lò xo cọt kẹt lúc anh trở mình.
Tôi nhắm nghiền mắt lại, hít một hơi thật sâu rồi nói- “Chị ấy chết rồi, anh Nash ạ.”
“Hả?” – giọng anh ấy giờ nghe đã có vẻ tỉnh táo hơn – “Ai chết cơ?”
Tôi ngồi bật dậy và đến lượt cái giường của tôi phát ra tiếng động – “Cái cô gái chúng ta đã gặp ở CLB ý. Chị của Emma là người phát hiện ra thi thể của chị ấy trong phòng vệ sinh của CLB Taboo đêm qua.”
“Em có chắc đó là chị ta không?” Giọng anh ấy đã tỉnh ngủ hoàn toàn.
“Anh tự xem tin đi.” – tôi với lấy điều khiển bật cái TV 19 inch đang đặt trên nóc tủ lên và bấm liên tục cho tới khi tìm được kênh đang phát bản tin này – “Kênh 9 ý.”
Tôi nghe thấy tiếng TV bật lên và một tràng cười như chợ vỡ vang lên từ phía đầu dây bên kia. Nhưng chỉ độ một giây sau, âm thanh đấy đã nhanh chóng được thay thế bằng kênh tin tức giống như tôi đang xem. “Ôi không” – anh Nash thốt lên. Anh hỏi tôi giọng đầy nghiêm trọng – “Kaylee này, chuyện tương tự đã từng xảy ra với em chưa? Ý anh là trước đây em đã đoán đúng lần nào chưa?”
Tôi ngập ngừng, do dự không biết nên kể cho anh Nash nghe đến đâu. Nhắm nghiền mắt lại, tôi cố tìm cho ra một câu trả lời nhưng vô ích. Cuối cùng tôi thở dài cái thượt, quyết định nói hết mọi chuyện cho anh nghe. Dù sao thì anh ấy cũng đã biết cái phần kỳ cục nhất rồi. “Em không biết. Với cả chuyện này không tiện nói qua điện thoại.”
Điều cuối cùng tôi cần lúc này là bị hai bác mình nghe lỏm được câu chuyện này. Và khi ấy nếu họ không phạt cấm túc tôi cả đời, thì chắc cũng sẽ tống thẳng tôi vào bệnh viện tâm thần.
“Anh sẽ qua đón em. Nửa tiếng nữa nhé?”
“Em sẽ đợi anh ở ngoài đường.”