Nhưng cả hai bác đều không nhìn thấy. Bác Brendon đang mải dò xét cẩn thận mọi ngóc ngách trong phòng, như thể thần chết có thể đang trốn đâu đó sau lưng ghế, hoặc bên trong mấy chậu cây cảnh. Còn bác Val vẫn đang ngửa cổ nhìn lên trần nhà, gào thét yêu cầu thần chết Marg xuất hiện và có lời giải thích cho thỏa đáng.
Bác ấy cứ làm như các thần chết lượn từ trên đó xuống không bằng.
Nhưng cái thời khắc khi chị Sophie vừa chết, khúc hát linh hồn của chị ấy sục sôi trong cổ họng tôi, làm tôi xém chút nữa thì tắt thở trong lúc tìm cách kìm nén nó lại, theo thói quen.
Bác Val nghe thấy tiếng ú ớ của tôi lập tức quay ngoắt ra tìm cô con gái. “Không!” – bác hét ầm lên. Chưa bao giờ tôi nghe thấy tiếng một con người có âm lượng ngang ngửa với tiếng thét của mình như thế.
Bác quỳ sụp xuống sàn. “Dậy đi con, Sophie ơi!” – bác đưa tay gạt mấy lọn tóc vàng trên mặt chị Sophie sang một bên và các ngón tay của bác dính đầy máu – “Marg, hãy sửa lại chuyện này đi! Đây đâu phải là thỏa thuận của chúng ta!”
“Sophie!” Bác Brendon chạy vội tới cơ thể đã không còn sự sống của chị Sophie, trong khi anh Nash và tôi chỉ biết lặng người quan sát, quá sốc để có thể nhúc nhích hay cử động được. Qua vai vợ, bác Brendon nhìn tôi cầu cứu, nhưng tôi không hiểu bác ấy muốn gì ở tôi. Tôi vẫn còn đang bận kìm nén tiếng thét trong cổ họng mình.
Anh Nash ngồi xổm xuống trước mặt tôi và nắm lấy hai tay tôi, ánh mắt anh đầy mạnh mẽ và quyết tâm. “Hát đi em” – anh thì thầm – “Hãy chỉ cho bọn anh thấy linh hồn của Sophie để bọn anh có thể dẫn đường cho chị ấy.”
Và tôi mở miệng cất tiếng hát cho chị Sophie.
Tôi hát cho một linh hồn bị bắt đi trước khi thời khắc của nó tới, cho một cuộc đời tươi trẻ vừa bị mất đi. Cho một cặp vợ chồng vừa mất con, và cho một cô gái sẽ không còn được quyết định xem mình muốn trở thành người như thế nào trong tương lai. Cho người chị họ, người chị em thay thế của tôi.
Ngay khi tôi cất tiếng thét, ánh sáng trong phòng lập tức trở nên mờ đục, mặc dù tôi biết không phải do bóng đèn. Cả căn phòng bắt đầu chuyển sang gam màu xám, giống như lúc chiều nay ở phòng thể dục, và tôi ngập ngừng liếc mắt nhìn quanh, lo sợ sẽ bắt gặp những bóng tối có hình thù quái dị đang lẩn khuất trong chính căn nhà của mình.
Nhưng tôi đã không nhìn thấy ai hết. Rõ ràng là tôi đang nhìn vào cái thế giới của Cõi m nhưng không hiểu sao nó hoàn toàn… trống rỗng.
Và điều khiến tôi thấy chưng hửng nhất chính là âm thanh. Hay nói đúng hơn là sự biến mất của âm thanh. Khi tôi hát, tôi không nghe thấy các tiếng động khác xung quanh mình, như thể ai đó đã ấn phải cái phím câm trên bảng điều khiển vũ trụ. Sau vài giây, ngay đến tiếng thét chính mình tôi cũng chẳng còn nghe thấy, mặc dù cứ chiếu cái cảm giác bỏng rát trong cổ họng và hai lá phổi lúc này của tôi, tôi hiểu rằng mình vẫn đang gào thét rất to.
Anh Nash vẫn đang ngồi cạnh tôi, vòng tay ôm chặt lấy tôi không màng tới tiếng thét đinh tai nhức óc. Còn bố tôi đang đứng nhìn chằm chằm vào linh hồn của chị Sophie, một làn khói màu hồng nhạt, không hình dạng đang lơ lửng trên cơ thể của chị ấy, phấp phới như cánh diều trên bầu trời lồng lộng gió.
Khoảng cách giữa linh hồn và thân xác của chị ấy cách xa nhau hơn so với Emma và một phần trong tôi hiểu rằng đó là lỗi của tôi. Bởi vì anh Nash đã phải giục tôi cất tiếng khóc than cho linh hồn chị Sophie.
Bác Brendon đứng đó, hai tay nắm chặt lại và gồng mình lên. Tôi không thể nhìn thấy khuôn mặt của bác ấy, nhưng tôi có thể hình dung ra nó giống như khuôn mặt của anh Nash khi dẫn đường cho linh hồn của Emma lúc chiều nay: Đỏ bừng, căng thẳng, và nhễ nhại mồ hôi.
Bác Val vẫn đang khóc ngất trên sàn, bên cạnh xác của cô con gái. Bác ấy là người duy nhất trong căn phòng này không nhìn thấy được linh hồn của chị Sophie và ở một góc xa xôi nào đó trong tôi, tôi hiểu rằng đó chính là bi kịch.
Hai vai của bác Brendon trùng xuống và bác kiệt sức quay sang nhìn tôi. “Cố giữ lấy Sophie!” – bác ra hiệu cho tôi và tôi gật đầu, miệng vẫn tiếp tục hét. Tôi sẽ cố gắng làm hết khả năng của mình, nhưng cổ họng tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục sau khúc hát linh hồn dành cho Emma chiều nay, và tôi không dám chắc mình còn có thể giữ chị Sophie lại được bao lâu nữa.
Bác Brendon ra hiệu cho bố tôi. Và mặc dù không nghe thấy tiếng bác nhưng tôi có thể đoán được: Bác ấy không thể làm một mình. Vì lý do nào đó, bác ấy không thể khiến linh hồn của cô con gái nhúc nhích.
Bố tôi gật đầu và cả hai cùng quay lại giúp linh hồn của chị Sophie.
Bác Val quỳ trên sàn, tay đặt lên xương ức của chị Sophie, mặt nhìn thẳng về phía trước. Bác ấy không hề nhìn vào bất kỳ ai trong số chúng tôi. Bác ấy đang nói chuyện, với cả căn phòng nói chung. Gương mặt bác thấm đẫm nước mắt và đỏ bừng vì nỗi đau đớn cùng cảm giác tội lỗi. Tôi không hiểu hết những lời bác Val đang nói, nhưng có thể luận ra được bốn từ, được lặp đi lặp lại nãy giờ trên môi bác.
“Hãy bắt tôi đi!”
Và tôi chợt hiểu. Bác ấy đang nói chuyện với thần chết – Marg – cầu xin mụ ta tha mạng cho chị Sophie và đổi bằng mạng của bác ấy.
Đúng lúc đó mọi thứ đột nhiên thay đổi. Bầu không khí của căn phòng bỗng dưng dịch chuyển, như thể các góc đã bị thay đổi, các tỷ lệ đã được phân chia lại. Giống như đang xem phim qua một cái màn hình có tỷ lệ sai be bét.
Một thân hình tối tăm, mảnh khảnh xuất hiện ngay chính giữa phòng khách, cách bố tôi và bác Brendon chưa đầy nửa mét.
Tôi nhận ngay ra mụ ta từ lễ tưởng niệm của Meredith. Marg. Mụ ta vẫn mặc chiếc áo len dài màu đen, làm tôn lên thân hình mảnh mai, và đôi giày búp bê trên chân mụ ta đang lún sâu xuống tấm thảm dày cộp của bác Val.
Ả thần chết nhíu mày, liếc tôi một cái rồi quay sang nhìn bác Val. “Cô có chắc không?” Tiếng mụ ta nghe như kim loại nấu chảy, mượt mà và chậm rãi, nhưng đủ nóng để làm cháy sém nếu chạm tay vào.
Tôi đã bị bất ngờ đến nỗi gần như ngừng hát và linh hồn chị Sophie bắt đầu trôi về phía mụ Marg. Nhưng anh Nash kịp bóp lấy tay tôi và tiếng hát tôi lại được tiếp tục. Linh hồn của chị Sophie cũng ổn định trở lại.
Ả thần chết dường như không để ý. Mụ ta còn đang mải nhìn bác Val, người đang tiếp tục nói những câu gì đó mà tôi không thể nghe thấy. Tôi chỉ có thể nghe thấy giọng của mụ Marg – chứng tỏ ả thần chết vẫn chưa quên tôi, và vì lý do nào đó mụ ta muốn tôi nghe thấy những lời mụ ta nói.
Đáp lại câu hỏi vừa rồi của thần chết, bác Val gật đầu đầy quyết tâm, môi bác mấp máy câu gì đó rất nhanh.
Ả thần chết nhìn bác Val hồi lâu rồi lắc đầu, nhếch miệng cươi nham hiểm. “Linh hồn của cô sẽ không đủ” – mụ Marg nói, khiến tôi gai hết cả người – “Cô đã hứa với bà Belphegore những linh hồn trẻ trung và xinh đẹp, còn linh hồn của cô, cũng giống như cơ thể của cô, đang già nua và xấu xí đi. Bà ấy sẽ không chấp nhận nó đâu.”
Bác Val lại mở miệng, giận dữ huơ tay nói câu gì đó, làm bác Brendon nghe thấy cũng phải rúm hết ngươi lại, hai tay nắm chặt đầy khó khăn. Tôi ước gì có thể nghe được câu chuyện từ cả hai phía.
“Chúng ta đâu có thỏa thuận về từng linh hồn cụ thể sẽ bị bắt đi” – ả thần chết tỉnh bơ trả lời. Chỉ nghe thấy giọng nói của ả thôi cũng đủ khiến tôi muốn ngạt thở rồi – “Ta đã thu thập được bốn linh hồn đầu tiên, mặc dù bị mấy đứa bợ đỡ trẻ ranh nhà cô phá bĩnh…”
Bợ đỡ á? Mụ ta dám gọi tôi là kẻ bợ đỡ á?
“…và ta sẽ bắt đi đứa thứ năm khi đã thấy chán trò chơi này. Ta sẽ có tiền của cô, bà Belphegore sẽ có các linh hồn của bà ấy, còn cô sẽ có được tuổi trẻ và sắc đẹp cho riêng mình.”
Tuổi trẻ ư? Bác Val đã thuê thần chết đi săn trộm các linh hồn vô tội để đổi lấy tuổi trẻ cho bản thân ư? Trên đời thực sự có ngươi hão huyền đến thế sao?
Giờ thì bác Val đang quát ầm lên, mạch máu trên cổ bác ấy như muốn nổ tung ra. Nhưng mụ Marg chỉ ngửa cổ cười khành khạch. “Ta đang sở hữu bốn linh hồn trẻ khỏe, và chừng nào chúng vẫn còn ở trong tay ta thì dù có đến nửa tá bean sidhe cũng không thể đoạt được linh hồn này từ tay ta.” Để chứng minh, mụ ta ngửa tay giơ lên trời và vẫy một cái. Nỗi đau đón như muốn xé toang lồng ngực tôi, và linh hồn của chị Sophie bay vụt lên, mặc dù tôi vẫn đang ra sức hát và hai ông bố vẫn đang nỗ lực dẫn đường cho chị.
Thấy vậy, anh Nash lập tức đứng dậy nhập hội, trợ giúp cho hai vị bean sidhe tiền bối. Mặt anh bừng bừng lên đầy căng thẳng.
Linh hồn của chị Sophie chao đảo, sau đó tụt xuống một chút và rồi lại giữ nguyên.
Phải đến khi ấy ả thần chết mới chịu quay đầu lại, gầm lên nhìn tôi và anh Nash. “Hai đứa…”
Toàn thân tôi run bần bật với mỗi bước chân của mụ ta đang tiến lại gần tôi, và tiếng hát của tôi bắt đầu nhỏ lại. Tôi đang dần mất đi giọng hát của mình và một khi tiếng khóc ấy mất đi, sẽ không còn linh hồn nào để dẫn dắt.
“Có cái gì đó…” – cái áo len của mụ ta phấp phới sang hai bên khỉ mụ ta bước đi, khiến cho người đối diện cảm nhận được rõ ràng hơn sự hiện diện của mụ ta. Ánh mắt mụ ta nhìn như muốn khoan thủng lồng ngực tôi và nụ cuời cay độc khi nãy lại xuất hiện – “Ngươi đang sống bằng cuộc đời đi mượn. Bà Belphegore hẳn sẽ rất thích thử mùi vị của một kẻ đi mượn cuộc đời của người khác cho mà xem. Nếu ngươi vẫn còn muốn nhìn thấy Mặt Trời sáng mai, hãy câm ngay miệng lại và thả linh hồn đó ra. Bằng không cả gia đình ngươi sẽ phải chứng kiến cảnh ta bắt linh hồn ngươi thay thế cho con bé kia đấy.”
Nói rồi mụ Marge há miệng cười sằng sặc ra chiều đắc thắng. “Và ngươỉ sẽ phải chết trong câm lặng, nhóc con ạ. Chẳng còn ai cất tiếng hát linh hồn cho ngươi nữa.”
“Ta sẽ hát cho con bé.” Một giọng nói nhẹ nhàng cất lên, và trong bầu không khí yên lặng đến rợn người này, nghe nó cũng kỳ quái không kém gì giọng của ả thần chết. Tôi quay ngoắt đầu lại nhìn.
Anh Tod đang đứng trước cửa ra vào, hai chân choãi ra đầy vững chãi, hai bàn tay nắm chặt, còn cái cằm thì bạnh ra vì tức giận. Anh ấy đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu với ả thần chết. Có điều, giọng của anh Tod đâu có giống cái giọng tôi vừa nghe thấy.
Một bóng người bước ra từ sau lưng anh Tod, và tim tôi đập rộn ràng, tràn trề hi vọng. Cô Harmony Hudson. Mẹ của anh Nash. Và trông nét mặt cô ấy có vẻ cũng đang rất điên tiết.
“Cháu nghe thấy tiếng cô không?” – cô cất tiếng hỏi tôi và tôi gật lấy gật để. Quá mừng rỡ trước sự xuất hiện của cô Harmony, tôi thậm chí còn không buồn thắc mắc làm thế nào mà cô ấy biết được bọn tôi đang cần cô – “Giọng của cháu đang tắt dần, nhưng yên tâm, cô có thể hát cả đêm” – nói rồi mẹ anh Nash sang đối diện với mụ Marg, trông cô cao hơn hẳn ả thần chết kia – “Cô sẽ không lấy đi linh hồn của cô bé này, hay cô bé kia.” Vừa nói cô vừa liếc về phía cái linh hồn đang bay lơ lửng trên xác của chị Sophie.
Mụ Marg rít lên như một con mèo điên, miệng há to, và răng nhe ra. Trong một thoáng, tôi cứ ngỡ rằng mụ ấy sắp sửa lao tới cào cấu mẹ anh Nash cho hả cơn tức nhưng cuối cùng mụ đã lấy lại được bình tĩnh. “Ngươi cũng sẽ không khá hơn con nhỏ đó đâu” – môi mụ ta cong lên đầy giễu cợt – “Ba người đàn ông của ngươi gộp lại cũng không thể giành được với ta, trong khi ta vẫn đang nắm giữ bốn linh hồn khỏe mạnh kia.”
“Nếu là bốn người đàn ông thì sao?” Anh Tod rít qua kẽ răng. Anh nhìn tôi rồi nhìn qua anh Nash, người vừa gật đầu đồng ý, cho phép anh Tod làm cái việc mà tôi không hiểu là việc gì. Anh Tod nhắm mắt lại tập trung tinh thần và linh hồn của chị Sophie chao đảo, tụt xuống thêm một chút nữa.
Tôi trợn tròn mắt sửng sốt. Anh Tod là một thần chết. Vậy mà anh ấy rõ ràng vừa giúp ba người kia dẫn đường cho linh hồn chị Sophie.
Đôi mắt của ả thần chết tối sầm lại vì giận dữ, kế đó mụ ta quay ngoắt sang phía chị Sophie, hiển nhiên định bắt chị ấy đi trước khi tuột mất cơ hội.
Đúng lúc đó tiếng hát của tôi tắt ngúm.
“Không!” – tôi hoảng hồn kêu lên, nhưng không có âm thanh nào được thốt ra.
Tuy nhiên, ngay khi tiếng thét của tôi vừa lịm dần đi trong không khí, một tiếng thét khác đã kịp cất lên thế chỗ. Và cùng với đó là một khúc hát du dương thoát tục, đẹp nhất mà tôi từng được nghe trong cuộc đời mình.
Mẹ anh Nash đang cất tiếng hát cho chị Sophie.
Cả bốn người đàn ông đang giành giật lấy linh hồn của bà chị tôi từ tay của ả thần chết, với tiếng hát của cô Harmony đang níu giữ lấy nó. Linh hồn chị Sophie lại bắt đầu nhô lên và lần này hơi nghiêng về phía mụ Marg, hai cánh tay mụ ta đang mở rộng để đón lấy nó.
“Marg, tôi cầu xin cô đấy!” – bác Val gào lên – “Hãy bắt tôi đi. Linh hồn tôi có thể không còn trẻ nhưng vẫn khỏe mạnh. Cô không thể mang Sophie đi được!”
“Cô không thể cứu nó…” – ả thần chết ngân nga hát, và đưa mắt nhìn xung quanh đầy tự mãn. Phải công nhận, vói bốn linh hồn dự trữ, mụ Marg đang quá mạnh, cho dù bốn bean sidhe nam có hợp sức lại cũng khó thắng nổi mụ ta. Thật mỉa mai, khi mà mụ ta trông nhỏ bé và yếu đuối như thế kia…
Khoan đã… Mụ ta đúng là yếu đuối thật mà. Bố tôi từng nói các thần chết phải hiện thân để tương tác với môi trường xung quanh. Chứng tỏ mụ Marg cũng có những nhược điểm về cơ thể giống như gã thần chết từng cố săn lùng giết tôi. Gã thần chết đã từng bị bố tôi đấm gãy mũi…
Đầu óc tôi chao đảo, mạch máu trên cổ đập thình thịch, tôi chạy thật nhanh vào trong bếp. Tôi liếc về phía giá đựng dao nhưng rồi lắc đầu. Tôi không dám chắc có thể ngăn mụ ấy lại chỉ bằng một nhát dao hay không.
Nhưng tôi có thể phang cho mụ ý nát như tương.
Tôi mở ngăn tủ bên dưới lò nướng, chộp lấy cái chảo gang mà bác Brendon vẫn thường dùng để nướng bánh ngô rồi chạy thục mạng ra ngoài phòng ăn. Tôi chạy qua mặt anh Nash, cô Harmony, anh Tod, và dừng lại ngay bên cạnh bố, vung chảo lên chuẩn bị giáng xuống đầu ả thần chết.
Mụ Marg chắc hẳn đã nghe thấy tiếng bước chân của tôi của hoặc đã đoán ra khi nhìn thấy nét mặt của bác Val, nên đúng vào phút cuối cùng mụ đã quay đầu lại. Hậu quả là cái chảo đã đập trúng vai mụ ta, thay vì trúng đầu, và tôi chỉ có thể quật ngã mụ ấy chứ không làm cho mụ ấy bất tỉnh nhân sự như dự định ban đầu được.
Nhưng được cái mụ ta ngã xuống rất mạnh, với cú đập hông cái rầm xuống sàn nhà.
Tôi không thể giấu được nụ cười đắc thắng trên môi, mặc dù hai cánh tay đang đau ê ẩm sau cú đánh trời giáng kia.
Trong một phút, ả thần chết nằm chết lặng trên sàn, mái tóc đen xõa sượi trên đất, hai tay xoè sang hai bên. Và tôi nhìn thấy linh hồn chị Sophie nhanh chóng trôi tuột xuống cơ thể của chị ấy. Kế đó, bác Val gào ầm lên đầy phẫn nộ và lao thẳng về phía ả thần chết. Tôi chưa từng nghĩ bác tôi lại có thể có những hành động đầy bản năng và kém duyên dáng như lúc này – và tôi ngưỡng mộ bác ấy hơn bao giờ hết.
Bác cưỡi thẳng lên thân hình nhỏ xíu của ả thần chết, dùng tay đè nghiến hai vai mụ ấy xuống. Hai mắt bác trắng dã, tóc tai xõa sượi, giống như một người mất trí.
“Cô sẽ không bắt con gái tôi đi đâu hết!” – bác Val hét lên, mặt chỉ còn cách mặt mụ thần chết có vài phân – “Vì thế một là cô bắt tôi đi, hai là cô quay về và chấp nhận thiếu đi mất một linh hồn.”
Môi mụ Marg cong lên đầy giận dữ, trong khi tôi nhích lại gần, hai tay vẫn đang nắm chặt lấy cái chảo. Mụ ta liếc vội về phía linh hồn của chị Sophie và điên cuồng nhận ra rằng linh hồn ấy đã biến mất và chị Sophie đã thở được trở lại, mặc dù vẫn đang bất tỉnh.
Quay đầu lại nhìn bác Val, một nỗi khiếp sợ chợt lóe lên khuôn mặt đang tái dần đi của ả thẩn chết. Tôi không biết người có tên Belphegore kia là ai, nhưng rõ ràng đó là một người mà mụ Marg không hề muốn làm phật lòng.Chưa đầy một giây sau, mụ ta gật đầu. “Linh hồn của ngươi sẽ không đáp ứng được cái thỏa thuận mà ngươi đã đưa ra, nhưng cứ coi như đó là cái giá phải trả cho sự kiêu căng và thói cao ngạo của ngươi.” Và chỉ như vậy thôi, bác Val gục xuống trên người ả thẩn chết, hai mát bác mở to, đờ đẫn nhìn vào hư vô.
Trong nháy mắt, toàn thân bác Val đổ sụp xuống sàn, và mụ Marg đã biến mất.
Tôi đứng chết lặng nhìn mọi thứ vừa xảy ra giống như một thước phim quay chậm đã đến hồi kết.
“Kaylee, em không sao chứ?” – anh Nash nắm lấy bàn tay trái của tôi, và tôi giật mình nhận ra rằng tay phải tôi vẫn đang nắm khư khư lấy cái chảo gang và tôi vội quẳng nó ra thật xa.
“Em không sao” – tôi thều thào trả lời, cổ họng vẫn đang bỏng rát.
Bác Brendon hấp tấp chạy chỗ tôi, quỳ xuống bên cạnh chị Sophie, bắt mạch cho chị ấy và thở phào nhẹ nhõm. Sau đó bác cẩn thận kiểm tra lại vết thương trên đầu, chỗ chị Sophie vừa đập xuống mép bàn khi nãy, rồi bế chị ấy đặt lên ghế sô-pha, không chú ý tới chuyện máu trên tóc chị ấy đang dính đầy ra cái đệm trắng muốt.
Nếu bình thường chắc bác Val đã làm loạn lên khi thấy vết bẩn ấy. Nhưng giờ bác Val đã chết.
Sau khi chắc chắn là chị Sophie đã an toàn, bác Brendon quay lại chỗ vợ đang nằm và đưa tay bắt mạch cho bác ấy. Nhưng lần này, không còn tiếng thở phào nhẹ nhõm. Thay vào đó, bác ngồi phịch xuống sàn, dựa lưng vào thành ghế, hai khuỷu tay chống lên đầu gối và đầu gục vào lòng bàn tay. Toàn thân bác rung lên cùng những giọt nước mắt khóc thầm.
“Anh Brendon ơi?” – bố choàng một tay lên lưng tôi.
“Sao cô ấy có thể làm chuyện ấy?” – bác Brendon ngước mắt lên nhìn mọi ngươi, hai mắt đỏ hoe – “Cô ấy đã nghĩ gì không biết?”
“Em không biết.” Bố tôi bước tới ngồi xuống bên cạnh ông anh trai.
“Tất cả là lỗi của tôi. Việc sống cùng chúng ta quả là quá khó khăn đối với con người. Đáng ra tôi phải hiểu điều đó mới đúng” – bác Brendon ngậm ngùi, đưa tay lên quệt nước mắt – “Cô ấy không muốn bị già đi mà không có tôi bên cạnh.”
“Đây không phải là lỗi của anh” – bố tôi khẳng định, tay nắm chặt lấy vai ông anh – “Không phải là chị ấy không muốn bị già đi mà không có anh, anh Bren ạ. Chị ấy chỉ đơn giản là không muốn bản thân bị già đi mà thôi.”
Bác Valerie của tôi đã thỏa thuận với một tà ma và lấy đi sinh mạng của bốn cô gái vô tội. Bác đã nói dối tất cả mọi người và suýt chút nữa đã hại chết nốt cả đứa con gái duy nhất của mình. Việc làm của bác đã tạo ra một lỗ hổng quá lớn trong gia đình chúng tôi.
Nhưng khi thời khắc tới, bác ấy đã hy sinh mạng sống của chính mình để đổi lấy tính mạng cho cô con gái mà không cần phải suy nghĩ, giống như mẹ tôi. Liệu hành động đó có đủ để tha thứ cho những tội lỗi mà bác đã gây ra không?
Tôi rất muốn nói là có – rằng sự hy sinh quên mình của một ngươi mẹ là một việc làm tốt, đủ để xóa bỏ mọi lỗi lầm trong quá khứ – nhưng sự thật không hề đơn giản như vậy.
Cái chết của bác tôi sẽ không thể khiến Heidi, hay Alyson hay Meredith, hay Julie sống trở lại. Nó không thể bù đắp cho những tổn thương về tinh thần mà chị Sophie sẽ phải trải qua trước sự ra đi đột ngột của bác. Nó không thể trả lại cho bác Brendon người vợ yêu quý của mình.
Sự thật là sự hy sinh của bác Val quá nhỏ bé, và quá muộn màng. Bác ấy ra đi, để lại mọi hậu quả cho những người bác ấy thương yêu nhất phải tự đối mặt và tự giải quyết.
***
“ĐY, KAYLEE. Cái này sẽ giúp cho cổ họng của cháu.” Cô Harmony Hudon đặt lên trên bàn một cốc trà mật ong nóng và tôi nhoài người ra hít hà mùi thơm đang bốc lên từ cốc nước. Cô ấy đang định quay trở vào trong bếp, nơi mùi bánh nướng đang tỏa ra ngào ngạt – một liệu pháp giải tỏa căng thẳng đặc trưng của mẹ anh Nash – thì tôi vội đặt một tay lên tay cô.
“Chắc cháu đã mất chị Sophie nếu cô không có mặt ở đây.” Giọng tôi vẫn đang khản đặc và cổ họng tôi có cảm giác như vừa nuốt phải một quả thông. Cơn sốc cuối cùng cũng đã qua, bỏ lại trong tim tôi một cảm giác trĩu nặng và đầu tôi tràn ngập những chi tiết khủng khiếp về sự thật vừa xảy ra.
Cô Harmony mỉm cười buồn bã, và kéo ghế ngồi xuống bên cạnh tôi. “Nghe giọng hát của cháu lúc nãy, có vẻ như ngày hôm nay cháu đã phải cất tiếng hát quá sức của mình.”
Tôi gật đầu và nhấp một ngụm trà nóng, mừng rỡ khi thấy cổ họng đỡ đau hơn hẳn. “Nhưng mọi chuyện giờ đã kết thúc rồi đúng không cô? Cái bà Belphegore đó không thể rời Cõi m, và mụ Marg sẽ không quay trở lại đây nữa đúng không ạ?”
“Khôn hồn thì cô ta nên làm như vậy. Giờ các thần chết khác đều đã biết cô ta là ai, và họ sẽ lùng bắt cô ta cho bằng được.” Cô Harmony liếc mắt sang bên trái và tôi nhìn theo ánh mắt cô ra ngoài phòng khách, nơi bác dâu tôi vừa mất, chị họ tôi vừa được cứu sống, và tôi vừa phang cho ả thần chết tâm thần một phát bằng chiếc chảo gang.
Một ngày thứ ba. Kỳ quặc nhất. Từ trước tới giờ.
Các nhân viên cứu thương đã rời khỏi đây được gần nửa tiếng, và tấm thảm trắng trong phòng khách vẫn còn in hằn dấu bánh xe của cái cáng. Họ đã đưa bác Val ra khỏi đây trên chiếc cáng phủ khăn trắng, và bác Brendon cùng chị Sophie đi theo xe cứu thương đến bệnh viện, nơi chị ấy sẽ phải khâu vài mũi sau gáy và mẹ chị ấy sẽ chính thức được công bố tử vong.
Chị Sophie không hề biết chuyện gì đã xảy ra; tôi có thể nhận thấy điều đó ngay khi chị ấy vừa tỉnh lại. Nhưng điều không ngờ nhất chính là chuyện chị ấy đổ lỗi cho tôi về cái chết của mẹ chị ấy. Về lý thuyết thì chị Sophie đã chết khi bác Val mặc cả với thần chết để đổi lấy mạng sống cho con gái mình, vì thế chị ấy không hề nhớ gì về thời điểm xảy ra trước đó. Tất cả những gì chị ấy biết lúc này là mẹ chị ấy đã chết và tôi có liên quan tới cái chết ấy. Cũng giống như mẹ tôi.
Chị Sophie và tôi giờ đã có thêm một điểm chung mà trước giờ chúng tôi chưa hề có – nhưng đồng thời chưa khi nào chúng tôi lại trở nên xa cách đến như vậy.
“Sao cô lại biết mà đến đây thế ạ?” – tôi hỏi cô Harmony. Nhưng cô ấy chỉ nhíu mày, bối rối không biết nên trả lời câu hỏi của tôi như thế nào cho phải.
“Là anh nói đấy.”
Giật bắn mình, tôi ngẩng mặt lên và thấy anh Tod đang ngồi đối diện tôi, hai tay khoanh lại để trên mặt bàn, một lọn tóc vàng xõa xuống trước trán. Cô Harmony mỉm cười với anh, chứng tỏ cô ấy cũng nhìn thấy anh Tod, sau đó cô đứng dậy đi xem mẻ bánh đang nướng dở trong lò.
“Sao anh có thể làm chuyện đó?” – tôi cầm cốc trà nóng lên và nhấp thêm một ngụm – “Sao anh có thể dẫn đường cho linh hồn chị Sophie thế? Em tưởng anh là thần chết cơ mà.”
“Anh ấy là cả hai” – tiếng anh Nash vang lên sau lưng tôi, tôi quay lại và thấy anh đang cùng bố tôi đi từ ngoài cửa vào, vừa đi vừa kéo tay áo xuống. Anh ấy và bố tôi đã bê cái ghế sô-pha trắng bỏ lên thùng sau xe tải của bác Brendon, để lát nữa khi bác ấy cùng chị Sophie từ bệnh viện trở về, sẽ không phải nhìn thấy vết máu trên đó – “Anh Tod rất có tài.”
Anh Tod đưa tay gạt lọn tóc kia ra khỏi trán, mặt mày cau có.
Tiếng lò nướng bật mở và cô Harmony từ trong bếp nói với ra. “Cả hai con trai của mẹ đều giỏi.”
“Cả hai ý ạ?” – tôi hỏi lại, cứ ngỡ là mình đang nghe lầm.
Anh Nash thở dài, ngồi xuống cái ghế lúc này mẹ anh vừa ngồi, và giơ tay chỉ về phía anh Tod. “Kaylee, giới thiệu với em, anh trai anh, Tod.”
“Anh trai anh á?” Tôi hết nhìn anh Tod lại quay sang nhìn anh Nash, để tìm kiếm sự giống nhau giữa hai người, nhưng tất cả những gì tôi có thể tìm thấy là hai cái lúm đồng tiền. Mặc dù giờ nhắc tôi mới nhớ, anh Tod đúng là có mái tóc xoăn màu vàng giống cô Harmony…
Và rồi đột nhiên mọi thứ đã dần trở nên sáng tỏ. Những câu cãi cọ, kèn cựa vô nghĩa. Việc anh Nash biết anh Tod “từ rất lâu”. Việc anh Tod quanh quẩn ở nhà anh Nash. Việc anh Nash biết rất nhiều về thần chết.
Sao tôi không nhận ra điều đó sớm hơn nhỉ?
“Xin cảnh báo trước…”- cô Harmony mỉm cười với tôi, sau đó quay sang nhìn bố tôi – “Hãy cẩn thận với anh em nhà bean sidhe. Họ không hề dễ đối phó đâu.”
Bố tôi hắng giọng và nhìn đi chỗ khác.
Một tiếng sau, gia đình Hudson ra về và bố tôi đang đứng đối diện với tôi trong phòng bếp, nhai nốt miếng bánh ngọt cuối cùng trên đĩa. Tôi bỏ cái đĩa trống trơn của bố vào trong bồn rửa bát và xả nước.
Bố vòng tay qua vai, kéo tôi sát về phía bố. Và tôi để im cho bố làm như vậy. Bố vẫn chưa hề biết thêm được gì về tôi và cuộc đời tôi, so với một tiếng trước – đó là điều vẫn chưa thay đổi. Nhưng mọi thứ khác đều đã thay đổi. Giờ bố đã có thể nhìn thẳng vào mắt tôi, và cho dù tôi trông có giống mẹ đến đâu, bố vẫn nhìn thấy tôi, chứ không phải mẹ tôi. Bố có thể nhìn thấy thứ bố đang có, chứ không phải thứ bố đã mất.
Và bố sẽ ở lại đây với tôi. Bố con tôi có lẽ sẽ còn phải tranh cãi nhiều về giờ giới nghiêm và khiến cho người kia phải tức điên lên, nhưng ít ra như thế mới giống người bình thường. Sau một tuần bão tố vừa xảy ra, “bình thường” chính là thứ tôi cần nhất hiện nay.
Tôi thở dài gần như kiệt sức, và đứng ngây người ra nhìn chằm vào cái vòi nước mà không nghĩ tới chuyện tắt nó đi.
“Sao thế con?” – bố đưa tay tắt vòi nước.
“Không có gì ạ” – tôi nhún vai, rồi quay lưng lại dựa lưng vào cái bồn rửa – “Thực ra là có ạ. Chỉ là… trước giờ con mới chỉ gặp ba bean sidhe người lớn và cả ba người đều… cô độc” – Hay nói chính xác hơn là góa bụa – “Liệu các bean sidhe có bao giờ có kết cục hạnh phúc không bố?”
“Tất nhiên là có chứ con” – bố tôi nói đầy quả quyết, rồi vòng tay ôm lấy vai tôi – “Ít nhất là giống như bao người khác” – điều ngạc nhiên là trông mặt bố không hề có chút hoài nghi nào khi thốt ra những lời đó, mặc dù sau những gì bố đã phải trải qua – “Bố hiểu, điều đó có vẻ như là không tưởng, sau những gì con vừa nghe và chứng kiến tối nay. Nhưng đừng phán đoán tương lai của mình dựa vào sai lầm của người khác con ạ. Sai lầm của bác Valerie hay của bố đều không có liên quan gì tới tương lai của con hết. Con sẽ có được một kết cục hạnh phúc nếu con sẵn sàng nỗ lực cố gắng vì nó. Và theo như những gì bố quan sát được ngày hôm nay, con không phải là người chịu chùn bước trước khó khăn.”
Tôi gật đầu, không biết nên đáp lại như thế nào cho đúng.
“Hơn nữa, việc là một bean sidhe cũng không tệ lắm đâu, Kaylee ạ.”
Tôi nhướn mày nhìn bố đầy hoài nghi. “Thế ạ, vậy mà tất cả những gì con thấy chỉ toàn là chết chóc và những tiếng thét thôi.”
“Ờ, ngoài hai thứ ấy ra. Nhưng…” – bố nắm lấy hai vai xoay người tôi ra đối diện với bố. Tôi nhìn thấy những vòng xoáy màu sô-cô-la, đồng và ca-ra-men đang xoay tròn chậm rãi và đều đặn – “Chúng ta được ông trời ban cho một món quà và nếu con sẵn sàng đối mặt với các thử thách đi kèm theo món quà ấy, đôi khi cuộc đời sẽ mang lại cho con những điều bất ngờ, và thậm chí là những phép màu.” Đôi mắt bố lại chuyển động nhanh hơn và tay bố khẽ siết chặt lấy cánh tay tôi.
“Con chính là phép màu của bố, Kaylee ạ. Và của mẹ con nữa. Mẹ con biết bản thân mình đang làm gì buổi tối hôm dó. Mẹ đang cứu lấy phép màu của hai bố mẹ. Mặc dù bố vẫn nhớ mẹ vô cùng, nhưng bố chưa bao giờ ân hận với quyết định của mình. Dù là trong một giây” – bố rưng rưng nước mắt – “Con cũng đừng bao giờ cảm thấy ân hận vì điều đó.”
“Không đâu ạ” – tôi nhìn bố, hy vọng rằng ánh mắt tôi trông đủ chân thành mặc dù sự thật là tôi không hề dám chắc. Tại sao tôi lại được sống trong khi số phận đã định là tôi phải chết vào cái đêm định mệnh đó?
Bố tôi nhíu mày lại, như thể đọc được sự thật trong mắt tôi. Mấy cái vòng xoáy đáng ghét! Nhưng trước khi bố kịp nói thêm câu gì, một tiếng động cơ quen thuộc vang lên ngoài sân, sau đó tắt ngúm.
Anh Nash.
Tôi nhìn bố đầy hy vọng và bố cau mày lại. “Cậu ta thuờng xuyên đến chơi muộn thế này à?”
Tôi đảo tròn hai mắt. “Mới có 9 rưỡi mà bố.” Mặc dù phải thừa nhận là tôi có cảm giác không khác gì như đã 2 giờ sáng.
“Thôi được rồi. Con ra nói chuyện với cậu ta đi, trước khi cậu ta vào nhà, và bố sẽ phải giả vờ như là không có vấn đề gì xảy ra.”
“Bố không thích anh ý à?”
Bố tôi thở dài. “Sau tất cả những gì cậu ấy đã làm cho con, làm sao mà bố không thích cậu ta được? Nhưng bố nhìn thấy cái cách cậu ta nhìn con. Cái cách hai đứa nhìn nhau.”
Tôi mỉm cười, có tiếng cửa xe vừa đóng lại. “Ôi giời ơi, bố đang ở thời nào thế? Bố quên hồi bố bằng tuổi con như thế nào rồi à?”
“Bố đã hơn 100 tuổi rồi, và bố vẫn còn nhớ mọi chuyện. Đó là lý do tại sao bố lo lắng” – mặt bố thoáng buồn, sau đó bố phẩy tay xua tôi về phía cửa ra vào – “Nửa tiếng thôi đấy.”
Tự dưng tôi thấy khó chịu vô cùng. Bố mới về nhà chưa được ba tiếng vậy mà đã lập ra nội quy rồi cơ đấy. Nhưng nghĩ đi phải nghĩ lại, thà bị bó buộc bởi giờ giới nghiêm vô lý của bố vẫn còn hơn phải làm khách trọ dài hạn trong nhà bà chị họ của tôi.
Anh Nash đã rất ngạc nhiên khi tôi chạy ra mở của trước cả khi anh kịp gõ của. “Chào em”.
“Chào anh” – tôi khép cửa lại và đứng dựa lưng vào của – “Anh bỏ quên cái gì à?”
Anh nhún vai. “Anh chỉ muốn chúc em ngủ ngon mà không bị mẹ anh hay bố em nhìn qua vai.”
“Hoặc anh trai anh” – tôi nhe răng cười, nhưng anh Nash chỉ nhăn mặt.
“Anh không muốn nói chuyện về anh Tod.”
“OK” – tôi bước xuống cầu thang, anh Nash đang đứng dưới tôi một bậc và giờ hai đứa bọn tôi đang ở ngang tầm mắt nhau – “Thế anh muốn nói về chuyện gì nào?”
Anh nhướn một bên mày và mỉm cười nhìn tôi đầy âu yếm. “Ai nói là anh muốn nói chuyện?”
Và tôi để cho anh hôn tôi – cho tới khi bố tôi gõ gõ vào cửa sổ phía sau lưng. Anh Nash rền rĩ kêu lên và tôi kéo anh xuống khỏi cầu thang, đi ra ngoài sân.
“Vậy là em ok với tất cả những chuyện này chứ?” – anh giang rộng hai tay trong bóng tối – “Đa số các cô gái sẽ phát hoảng khi biết thân thế thực sự của anh.”
“Em có thể nói gì đây? Giọng nói của anh là một điều kỳ diệu.” Chưa kể bàn tay của anh. Và đôi môi của anh.
Một lần nữa, sự nhức nhối ấy lại xâm chiếm lấy tôi làm dấy lên sự nghi ngờ trong trái tim tôi. Liệu một tháng nửa sau khi cảm giác mới lạ của những nụ hôn với “đồng nghiệp” bean sidhe đã qua đi, anh Nash có đá tôi không?
“Sao thế em?” – anh nâng cằm tôi lên, nhìn vào mắt tôi, nhưng trong bóng tối như thế này tôi chẳng đọc được điều gì trong mắt anh.
Tôi gạt bỏ những nỗi lo âu và nghi ngờ kia sang một bên, đứng dựa lưng vào thành xe. “Sau những chuyện vừa xảy ra, em thấy quay trở lại trường học cứ thế nào ý. Làm sao em còn có thể quan tâm tới môn lượng giác hay lịch sử thế giới khi mà em vừa mới đưa bạn mình từ cõi chết trở về và giành giật với một ả thần chết để đòi lại linh hồn bị đánh cắp của bà chị họ mình?”
“Em sẽ phải quan tâm thôi, bởi vì nếu em bị phạt cấm túc do thi trượt môn kinh tế, em sẽ không còn được làm thế này nữa…” Anh cúi xuống và môi anh đùa nghịch với môi tôi, cho tới khi tôi kiễng chân lên đòi hỏi một nụ hôn thực sự.
“Ừm… Công nhận đây là một động lực khá ổn đấy” – tôi thì thầm vào má anh.
“Và nếu may mắn, chúng ta sẽ không bao giờ phải chứng kiến lại điều đó nữa” – anh hất đầu chỉ về phía ngôi nhà – “Mọi chuyện đã kết thức.”
Tôi rùng mình trước sự nhắc nhở vừa rồi của anh. “Nếu mọi chuyện vẫn chưa kết thúc thì sao hả anh?” Dù sao thì mụ Marg vẫn đang ở đâu đó ngoài kia và người có tên Belphegore đó hiển nhiên là vẫn chưa hài lòng với kết quả đạt được.
Nhưng anh Nash không hề bị lung lay. “Mọi chuyện kết thúc rồi. Nhưng chúng ta mới chỉ bắt đầu, Kaylee ạ. Em không biết là chúng ta đặc biệt như thế nào khi ở bên nhau đâu. Thật thần kỳ khi chúng ta đã tìm thấy được nhau” – anh vuốt dọc hai cánh tay tôi và không cần nhìn tôi cũng đoán đưọc các vồng xoáy trong mắt anh có lẽ đang xoay tít mù – “Và chúng ta còn cả một cuộc đời dài phía trước. Còn thời gian để làm mọi thứ mà chúng ta thích. Trở thành bất cứ người nào chúng ta muốn.”
Thời gian. Đó chính là mấu chốt của vấn dề. Đó chính là điều anh Nash muốn nói. Đó chính là điều bố tôi muốn nói.
Cuối cùng tôi đã hiểu. Cuộc đời của tôi không phải là của riêng tôi. Mẹ tôi đã phải chết để nhường lại cuộc đời ấy cho tôi.
Và cho dù sắp tới có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, tôi cũng sẽ quyết không phụ sự hi sinh của mẹ.