Sầm Ni quay lại từ dòng suy nghĩ của mình và gật đầu, “Ừ, là anh ấy.”
“Anh ấy không phải người ở đây đúng không? Anh ấy cao ráo, đẹp trai, trông như người châu Âu điển hình.” Đường Trì Duệ nhớ lại hai lần gặp gỡ duy nhất. Anh ấy và Sầm Ni có một sự hòa hợp và gắn kết mạnh mẽ, dường như trong mắt họ chỉ có đối phương, không ai khác có thể xen vào.
“Anh ấy là người Đức.” Sầm Ni trả lời.
“Vậy sau này anh ấy sẽ quay về Đức chứ?” Đường Trì Duệ theo dòng câu chuyện, vô thức hỏi.
Anh ấy sẽ quay về Đức sao?
Có không?
Sầm Ni theo câu hỏi đó, suy nghĩ một lúc, mới nhận ra cô cũng không biết.
“Có lẽ.” Cô mỉm cười nhẹ nhàng.
Đường Trì Duệ nhận ra giọng cô có chút thay đổi. Cậu nhìn sang khuôn mặt nghiêng của cô, rồi qua gương chiếu hậu để nhìn vào mắt cô.
Ánh mắt cô trong trẻo, sáng ngời, như thể cô hiểu rõ mọi thứ, nhưng lại có vẻ không bận tâm đến điều gì cả.
Đường Trì Duệ dù không biết Moger ở tầng lớp và địa vị như thế nào, nhưng thông qua chiếc xe mà Sầm Ni đang lái, cậu cũng đoán được Moger không phải người bình thường. Tuy nhiên, cậu không nói gì thêm, chỉ cho rằng Sầm Ni đã hiểu rõ về tương lai và sẵn lòng bắt đầu một mối tình xa cách về địa lý.
Là một người ngoài cuộc, cậu khéo léo chuyển chủ đề.
Sau khoảng hai mươi phút, xe cuối cùng cũng đến được điểm cực Bắc của quốc lộ 4, Rosh HaNikra Grottoes.
Đường Trì Duệ xuống xe để lấy mẫu đá, còn Sầm Ni ngồi trong xe chờ cậu.
Vì nằm gần biển, sau khi chờ một lúc, cô quyết định mở cửa và xuống xe, vừa nghe gió biển vừa đợi.
Nơi này nằm trên một vách đá, sát bên là biển Địa Trung Hải xanh ngắt không có điểm dừng. Sầm Ni tựa vào lan can bên bờ biển, cúi đầu xuống một chút đã có thể thấy bóng dáng của Đường Trì Duệ.
Cậu ấy ngồi cáp treo đi xuống, thẳng tới đáy của cửa hang.
Sầm Ni rời mắt khỏi cậu, chụp một bức ảnh về vùng biển xanh này, sau đó gửi cho Moger qua WeChat.
“Mỗi lần đến gần Địa Trung Hải, em đều nhớ đến anh.”
Cô gửi kèm theo bức ảnh cùng với câu này. Thực ra, câu này ngụ ý rằng, mới chia xa một ngày thôi, cô đã bắt đầu nhớ anh.
Nhưng cô không nói thẳng ra.
Vừa gửi đi chưa được bao lâu, cô chưa kịp nhận hồi âm từ Moger thì Đường Trì Duệ đã trở lại.
Sầm Ni tò mò liếc nhìn chiếc hộp mà cậu đang cầm. Sau khi lên xe, cậu thực sự mở nó ra để cho cô xem.
“Chị, chị xem, mẫu đá này là do giáo sư của em bảo mang về để phân tích,” Đường Trì Duệ nói về chuyên ngành của mình với sự hứng thú ngày càng tăng. “Các hố dưới khu tham quan này là kết quả của hàng trăm nghìn năm địa chất. Chúng bắt đầu từ một loạt các tác động ngầm dưới lòng đất, khiến cho đá bị nứt. Nước mưa thấm qua các vết nứt, làm tan chảy và tạo thành các hang động dưới lòng đất. Do sóng biển đẩy vào với bọt, vết nứt ngày càng mở rộng, mài mòn đá và từ từ khắc lên những hình dạng đặc biệt.”
Đường Trì Duệ giải thích rất chuyên nghiệp, nhưng Sầm Ni không thực sự hiểu hết. Cô chỉ gật đầu đồng ý rồi khởi động xe.
Trở về Haifa, Sầm Ni chỉ cảm thấy sau chuyến đi này, cơ thể mình càng mệt mỏi hơn.
Cô đưa Đường Trì Duệ đến tòa nhà thí nghiệm của trường rồi tự mình quay về căn hộ.
Vì ngày mai cô còn phải cùng với Anna đến Jerusalem để làm cuộc khảo sát thực địa cuối cùng, nên khi vào nhà, cô chỉ tắm rửa đơn giản, sau đó xuống bếp nấu một bát mì. Sau khi ăn xong, cô pha một gói thuốc cảm rồi leo lên giường ngủ.
Chưa đến chín giờ tối cô đã đi ngủ sớm, nên không kịp thấy cuộc gọi của Moger sau đó.
Sáng hôm sau khi thức dậy, Sầm Ni mới nhìn thấy thông báo cuộc gọi nhỡ của anh.
Nhưng không biết liệu anh có đang bận không nên cô không gọi lại mà chỉ nhắn tin cho anh.
Sau khi ăn sáng, Sầm Ni rời căn hộ đi đến văn phòng gặp Anna.
Anna vừa nhìn thấy cô đã nhận ra sắc mặt cô không tốt, liền hỏi cô có chỗ nào không khỏe. Sầm Ni hít thở khó khăn qua chiếc mũi nghẹt và giải thích mình bị cảm lạnh.
Anna nhìn thấy tình trạng của cô như vậy thì có chút thương xót, đề nghị cô hôm nay đừng đi nữa, hãy ở lại Haifa nghỉ ngơi cho khỏe.
Nhưng Sầm Ni nghĩ đến việc Anna sẽ bay đến Pháp vào ngày hôm sau, lịch trình của họ không thể thay đổi, nếu không sẽ không kịp buổi điều tra thực địa cuối cùng, vậy nên cô đành gượng ép nói rằng mình ổn.
Thật ra nếu cố gắng thì có lẽ cũng chịu đựng được.
Nhưng trên đường đến Jerusalem, cơn cảm lạnh của cô trở nên nghiêm trọng hơn, dường như còn bị sốt nhẹ, đầu óc cô choáng váng, khó chịu vô cùng, gần như ngủ thiếp đi trên xe.
Cho đến khi điện thoại rung lên giữa chừng, Anna kéo áo cô, cô mới khó nhọc mở mắt, lấy điện thoại ra từ túi.
Là Moger.
Dường như anh đang hút thuốc, khi điện thoại được kết nối, cô nghe thấy âm thanh bật lửa bật lên rồi vụt tắt qua loa nghe.
Một lúc sau, anh cười hỏi cô đã xuất phát chưa.
Sầm Ni liếm đôi môi khô khốc, nghe thấy giọng nói của anh, nỗi ấm ức và khó chịu do cơn cảm lạnh gây ra ngay lập tức tan biến.
Không hiểu sao anh lại có sức mạnh như vậy, dù qua điện thoại, cô vẫn có thể tưởng tượng ra nụ cười lười biếng của anh, đôi môi mỏng cong lên một đường cong đẹp.
“Em xuất phát rồi, đang trên xe.” Cô nắm chặt điện thoại và trả lời.
Giọng nói của cô mang đậm âm mũi, không giống như thường ngày. Nghe ra điều khác lạ, giọng nói chậm rãi của Moger trở nên nghiêm trọng hơn, anh hỏi cô có phải bị cảm lạnh không.
“Ừm.” Sầm Ni tựa đầu vào cửa sổ, đáp lại một cách ủ rũ, “Sao anh rảnh rỗi vậy, còn có thời gian gọi điện cho em?”
“Anh có gì bận đâu, công việc không quan trọng bằng em.” Giọng nói của anh vẫn vô tư và lơ đãng.
Nhưng ngay khi anh vừa nói xong, Sầm Ni đã nghe thấy tiếng người khác ở bên anh, ban đầu nói tiếng Anh, sau đó chuyển sang tiếng Đức.
Moger đáp lại bằng giọng trầm và có chút bực bội, nhưng nhanh chóng hạ giọng lại: “Chloe. Gửi địa chỉ khách sạn cho anh, anh sẽ gọi lại sau.”
Khi anh cúp máy, Fischer vừa đến tìm anh.
“Trốn ở đây? Thật là nhàn hạ.” Fischer mặc một bộ đồ đen toàn bộ, từ từ tiến lại gần anh.
Moger kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay, ngửa đầu nhả một làn khói mà không thèm nhìn thẳng ông ta.
Sầm Ni vừa gửi địa chỉ qua, anh dập tắt điếu thuốc rồi gọi cho Laird.
Điện thoại chưa reo được hai giây đã có người nhấc máy, Moger phớt lờ sự hiện diện của Fischer, quay lưng lại với ông ta, dùng tiếng Đức ra lệnh nhẹ nhàng, bảo Laird đi đến Jerusalem.
Sau khi dặn dò xong, anh gửi địa chỉ cho Laird.
Vừa cất điện thoại, Fischer đã cười khẩy, giọng điệu như một con cáo già: “Ngài Fred đã tìm cậu suốt cả buổi rồi.”
Moger liếc mắt nhìn ông ta, có chút khó chịu, không thèm đáp lại mà quay người bước vào tòa nhà.
Hai người họ xưa nay không hợp nhau, Fischer nhìn bóng lưng khinh thường của anh, nghiến răng giận dữ, sau hai giây im lặng mới đi theo sau anh vào trong.
Văn phòng rộng lớn được sắp xếp gọn gàng, Fred đang cúi đầu ký vào vài tập hồ sơ màu cam có chữ “tuyệt mật”, hai bên ông ta cắm vài lá cờ có màu sắc nổi bật.
Nghe thấy tiếng mở cửa, ông ta và trợ lý bên cạnh đều ngước nhìn Moger và Fischer bước vào, rồi lại tập trung vào các tài liệu trên bàn.
Mãi đến khi ký xong tài liệu cuối cùng, Fred mới giơ tay ra hiệu cho trợ lý lui ra ngoài.
Trợ lý ôm tài liệu, đi ngang qua Moger và Fischer, gật đầu chào họ rồi mới đẩy cửa bước ra.
Cánh cửa chống đạn cách âm khép lại, văn phòng trở nên yên tĩnh. Moger lười biếng ngồi trên ghế sofa da dành cho khách, còn Fischer tự giác đứng bên cạnh Fred chờ đợi.
Qua một lúc lâu, có vẻ như Fred đã xong việc, ông ta gõ gõ lên bàn rồi lạnh lùng gọi Moger: “Lại đây.”
Moger không quan tâm lắm, đứng dậy đi đến bàn làm việc của ông ta, kéo ghế ngồi xuống, chân duỗi dài ra, tay vẫn xoay chiếc bật lửa bằng bạc đính sapphire.
Thái độ thờ ơ này khiến Fred tức giận.
“Thời gian qua con bận gì vậy?” Fred nhíu mày, khuôn mặt căng thẳng.
Moger cười khẽ, không trả lời mà hỏi lại: “Ông đày tôi đi rồi, tôi còn bận gì được nữa.”
Fred im lặng, kéo ngăn kéo dưới bàn ra, lấy một xấp ảnh ném lên trước mặt Moger.
Những bức ảnh rơi tứ tung trên bàn, trông có chút lộn xộn.
Fred dùng ngón tay trỏ gõ mạnh lên bàn, chất vấn anh: “Giải thích xem, đây là gì?”
Moger vẫn dựa lưng vào ghế, không nhặt mấy bức ảnh lên xem, nhưng qua ánh mắt, anh vẫn chú ý thấy nội dung của những bức ảnh đó, chủ yếu là hình ảnh anh ôm hôn Sầm Ni tại nhiều nơi khác nhau.
Nhưng còn có vài bức anh chưa từng thấy, đó là hình Sầm Ni lái xe chở theo Đường Trì Duệ – người mà anh chẳng ưa chút nào. Anh liếc qua ngày tháng dưới mấy bức ảnh đó, thời gian chụp chính là ngày hôm qua.
Anh thu lại ánh mắt một cách điềm nhiên, “Giải thích gì đây?”
“Chỉ là một xấp ảnh.” Anh mỉm cười khinh miệt.
Fred cố gắng kìm nén cảm xúc, đứng thẳng dậy và nói, “Hôm nay ta gọi con đến đây là để nhắc nhở con đừng quên thân phận của mình, chuyện gì nên làm và chuyện gì không nên làm, con phải hiểu rõ. Ta đã thỏa thuận với ngài Richard bên Bộ Nội vụ rồi, con gái ông ta hiện đang học thương mại ở Washington, năm sau mới tốt nghiệp, con đừng—”
“Đừng nói những lời đẹp đẽ.” Moger cười lạnh, thẳng thừng cắt ngang lời ông ta, “Khi ông bàn bạc, đã hỏi ý kiến tôi chưa?”
“Đừng nói những lời ra lệnh nhảm nhí trước mặt tôi. Tôi không phải Fischer, không phải con chó biết nghe lời của ông.”
Lời anh nói rất khó nghe, khuôn mặt Fischer vốn luôn bình tĩnh lúc này cũng hiếm khi lộ ra vẻ không vui.
“Con là con trai của ta!” Fred đột nhiên quát lớn, cảnh báo ẩn chứa trong đó là điều không cần phải nói.
“Con trai?” Moger cười nhạt, “Sao ông không nói tôi là món hàng có giá trị trong cuộc giao dịch của ông?”
Fischer lúc này nhảy vào, nhắc nhở: “Thưa ngài, cuộc họp tiếp theo của ngài với Hội đồng sẽ bắt đầu sau năm phút nữa.”
Moger liếc nhìn ông ta.
Fred nhận ra điều đó, liền bảo Fischer đưa tài liệu đã chuẩn bị sẵn trên bàn cho Moger, “Mảng Trung Đông không cần cậu lo nữa.”
Fischer mở tập tài liệu rồi đưa nó đến trước mặt Moger.
“Điều đi một lần vẫn chưa đủ sao?” Moger không nhận tài liệu, lạnh lùng nhìn vào nó, “Lần này là đâu?”
“Đây là sách trắng quý tới của văn phòng chúng ta ở Trung Mỹ.” Fischer nói xong, đặt tài liệu gần những bức ảnh, không quên thêm một câu: “Văn phòng của chúng ta đặt tại thủ đô El Salvador.”
Moger giữ vẻ mặt lạnh lùng, không phản ứng.
“Đem về đọc kỹ.” Fred tiếp lời, “Bên đó ta đã chuẩn bị sẵn nhân viên và địa điểm cho con, ngày mai Fischer sẽ sắp xếp máy bay riêng để đưa con qua đó.”