Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc

Chương 21: Xương rồng lai bạch tuộc


Cuối cùng buổi học cũng kết thúc, nhường chỗ cho một buổi chiều mùa thu hoàn hảo. Bầu trời trong xanh, không khí mát mẻ, và những cơn gió dịu dàng nhất. Mặt trời vừa chạm đỉnh ngọn đồi phía xa, trông giống như một quả cam khổng lồ trên một chiếc bàn cũng khổng lồ.

Trên quảng trường, ngài Curtain lại đang ngồi ở vị trí yêu thích, lặng lẽ ngắm nhìn cây cầu, đọc một tờ báo với vẻ mặt hài lòng, thỉnh thoảng ghi chú gì đó vào cuốn nhật ký. Một vài nhóm học sinh hoặc là tụ tập trên tường bao của quảng trường; hoặc là túm tụm lại ở khu vườn đá để được có chút thời gian thảnh thơi trước bữa tối. Như thường lệ, chúng để cho ngài Curtain rất nhiều không gian riêng. Chẳng đứa nào dám lại gần khi ông ta đang làm việc. Điều này lý giải tại sao lại có nhiều cái miệng đang há hốc vì kinh ngạc đến thế khi Reynard Muldoon tiến về phía ngài Curtain. Bọn học sinh mới không biết cái gì hay ho hơn sao? Hay là thằng nhóc đang khao khát được một lần đến Phòng Chờ? Trước đó, chưa một học sinh nào dám đến gần ngài Curtain lúc ông ta đang ngồi ở quảng trường thế này.

Reynie đoán vậy, cho nên hơi thở của cậu mới đang gấp gáp thế này. Giữ thẳng vai, một tay giấu phía sau lưng, Reynie đang làm một việc mà chưa một học sinh nào dám làm. Cậu đến trước mặt ngài Curtain, biết rằng mình chỉ có một cơ hội thôi, và kế hoạch sẽ đổ bể nếu ngài Curtain quay xe mà chẳng nhìn lên.

“Ngài Curtain?”

Ngài Curtain ngẩng lên. Dưới ánh nắng chiều, hai mắt kính của ông ta ánh lên như được mạ crôm.

“Cháu xin lỗi vì làm phiền ngài,” Reynie vội vàng nói. “Nhưng cháu cứ phải để ý mãi vì cuốn nhật ký của ngài có rất nhiều trang bị quăn mép. Phải thừa nhận rằng cháu rất bất ngờ ạ.”

Ngài Curtain có vẻ bối rối, không biết có nên nổi giận không. “Cháu ngạc nhiên vì có nhiều trang ta hay giở đến?”

“Ồ, không, không phải thế ạ. Cháu ngạc nhiên vì chưa ai tặng ngài một món quà phù hợp cả.” Rồi Reynie chìa ra trước mặt thứ mà cậu vẫn giấu sau lưng nãy giờ – một nắm ruy băng mảnh màu xanh. “Để đánh dấu trang ạ! Cháu nghĩ chúng cần phải đặc biệt, nên đã xin một Người giúp việc ở phòng giặt là một ít vải làm thắt lưng – cháu chắc là ngài nhận ra ngay màu xanh này – rồi nhờ cô ấy cắt thành những dải ruy băng và khéo léo khâu mép nữa.” Reynie chìa nắm ruy băng ra trước mặt, đúng là chúng được may rất khéo. “Cháu hy vọng ngài sẽ thích chúng.”

Ngài Curtain thực sự ngạc nhiên. Ông ta có vẻ khoái trá, và gương mặt thì đang thể hiện rõ ràng sự đồng tình với Reynie, rằng đáng lẽ đã nên có ai đó tặng ông ta một món quà tương tự thế này. Đây chính là sự quan tâm mà ông vẫn đang thiếu.

“Cảm ơn cháu, Reynard,” ngài Curtain gật đầu và nói. “Một món quà rất phù hợp đấy, do một học sinh trẻ tuổi tặng cho người thầy của mình. Ta nhất định sẽ dùng chúng.” Rồi ngài Curtain quay lại với tờ báo của mình.

“Thưa ngài,” Reynie nói. “Ngài không định gắn chúng vào sổ luôn ạ?”

Ngài Curtain nổi cáu, gương mặt bắt đầu tối sầm lại. Thằng bé này đúng quả thật là phiền toái mà. Nhưng cái thằng bé phiền toái này lại làm ông ta hài lòng, và những dải ruy băng của nó sẽ có ích lắm đấy. Vì thế gương mặt ông ta giãn ra được một chút. Cuối cùng, ông ta thở dài, đặt tờ báo sang một bên. Mở trang đầu tiên bị quăn mép ra, ngài Curtain đính một dải ruy băng ở đấy. Ông ta sắp giở đến trang tiếp theo thì Reynie lại nói, “Chính xác đây là sổ gì ạ?”

Ngài Curtain dừng lại. “Một cuốn nhật ký, Reynard ạ. Mỗi nhà tư tưởng vĩ đại đều có một cuốn nhật ký như thế này.” Nói xong, ông ta quay lại với công việc đánh dấu trang.

“Phải công nhận cuốn nhật ký này lớn khủng khiếp.”

“Có chỗ nào tốt hơn nó để chứa những ý tưởng ‘lớn khủng khiếp’ đây?” ngài Curtain nói chính xác những gì Reynie đã đoán từ trước. “Nào, Reynard, không làm phiền ta nữa. Ta có nhiều việc phải làm lắm.” Ngài Curtain giở đến trang bị quăn mép tiếp theo.

“Thưa ngài, một câu hỏi nữa thôi, được không ạ?”

“Cuối cùng đấy nhé, Reynard,” ngài Curtain ngẩng lên. “Nói đi.”

“Tại sao ngài cứ nhìn về phía cây cầu mãi thế ạ?”

“À, ta cũng nghĩ trông giống như ta đang nhìn cây cầu lắm,” ngài Curtain mỉm cười và nói. “Thực ra thì ta đang thích thú với một trong những thành tựu lớn nhất của mình, đó là những cái tuốc-bin thủy triều đấy. Ta chắc là cháu biết về những tuốc-bin đó chứ nhỉ?” Reynie gật đầu. “Ta cũng nghĩ thế mà, vì chúng khá nổi tiếng. Một phát minh vĩ đại, cháu biết đấy, và cũng là một phần của truyền thống.”

“Truyền thống?”

“Cháu không nhớ ta đã từng nhắc đến truyền thống đáng ngưỡng mộ của quê hương ta sao? Ta đang muốn nói đến sự chinh phục vĩ đại – đó là chinh phục biển cả. Cháu biết đấy, Hà Lan có được rất nhiều đất đai của mình từ biển. Những con đê, những vùng đất lấn biển! Không có thứ gì trên thế giới khó kiểm soát hơn biển cả, nhưng người Hà Lan lại tìm ra cách để khống chế nó. Và bây giờ, bằng cách của riêng mình, ta cũng đang làm được một việc tương tự như thế. Những tuốc-bin của ta bắt được nguồn năng lượng vô tận của biển cả, rồi ta sử dụng năng lượng ấy cho mục đích của riêng mình. Chẳng đáng nể sao?”

“Đó là việc làm đáng ngưỡng mộ nhất mà cháu từng được biết,” Reynie nói, và cậu cũng ấn tượng chả kém với khả năng tự huyễn hoặc mình của ngài Curtain.

“Không nghi ngờ gì,” ngài Curtain nói, và còn vỗ tay nữa. “Nhưng đủ rồi đấy Reynard. Có những điều vĩ đại hơn nữa, Reynard ạ, vĩ đại hơn thế này rất nhiều, đang còn ở phía trước, và chúng ta không được lãng phí thời gian thêm nữa.” Rồi ông ta gắn ruy băng cho phần còn lại của cuốn nhật ký.

Ngài Curtain giở từng trang với một tốc độ khó chịu, nhưng Reynie chẳng dám nói thêm điều gì nữa. Thay vào đó, cậu tự cho mình được rời ánh mắt khỏi ngài Curtain, nhìn về phía lối đi nhỏ trên ngọn đồi ở phía xa ký túc xá. Bắt đầu từ vị trí cao hơn chân đồi một chút, con đường uốn lượn quanh những chậu xương rồng rất lớn. Không có gì khác lạ cả – vì có rất nhiều loại xương rồng được đặt dọc các lối đi ở Học viện – ngoại trừ việc loại xương rồng đó có vẻ có khá nhiều cánh tay. Xương rồng lai bạch tuộc, Reynie nghĩ và thầm cười trong bụng.

“Xong rồi,” ngài Curtain nói, giơ cuốn nhật ký đã được gắn ruy băng lên. “Hài lòng chứ?”

“Ồ, vâng, thưa ngài,” Reynie nói, dù thâm tâm đang thấy thất vọng. Có thể thấy còn khá nhiều trang bị quăn mép không được gắn ruy băng. (Reynie muốn mang thêm nhiều ruy băng, nhưng Người giúp việc nhút nhát đó đã đưa cho cậu bé tất cả những mảnh vải cô ta có thể lấy được rồi. Cô ấy sợ làm Reynie thất vọng, nhưng cũng sợ không dám đưa cho cậu nhiều hơn.)

“Không có gì,” ngài Curtain trả lời. Cứ như Reynie mới là người được nhận quà, chứ không phải bản thân ông ta. “Giờ cháu có thể đi được rồi.”

Lần này chẳng cần ngài Curtain phải giục. Reynie vội vã rời khỏi quảng trường, băng qua khu vườn đá, nơi có rất nhiều học sinh đang dán chặt mắt vào cậu, ngạc nhiên khi thấy cậu không chỉ vẫn còn sống, mà thậm chí còn tỏ ra hạnh phúc nữa. Rồi Reynie đi về phía con đường nhỏ, vội vã leo lên đồi nơi có những cây xương rồng lai bạch tuộc.

Constance đang đứng tít trên đỉnh đồi, làm nhiệm vụ cảnh giới – thật ra là làm theo yêu cầu của các bạn khác với lời hứa hẹn là việc đó sẽ rất thú vị. Phía sau chậu xương rồng, Kate đang bò trên mặt đất, và Sticky đang chới với đứng trên lưng cô bạn của mình. Cậu đang quan sát bằng cái kính viễn vọng được đặt chắc chắn trên một cành xương rồng.

“Cậu ấy có nhìn thấy gì không?” Reynie thì thầm với Kate để không làm ảnh hưởng đến sự tập trung của Sticky.

“Không cần phải thầm thì thế đâu,” Sticky nói. “Tớ có nhìn thấy một ít đấy, chắc là sẽ được nhiều hơn khi ông ấy viết. Ông ta vừa mới giở sang một trang mới rồi, nhưng lại nữa, lại đang nhìn ngắm gì đó nữa rồi.”

“Chỉ có một ít thôi sao?” Reynie nói.

“Vì ông ta chuyển từ trang nọ sang trang kia nhanh quá…”

“Tớ xin lỗi, tớ đã cố hết sức để cản trở ông ta rồi.”

“Và tớ chỉ đọc được một phần nhỏ của mỗi trang thôi,” Sticky nói, rồi cúi xuống nhìn Reynie mỉm cười ranh mãnh. “Nhưng tớ nhớ tất cả những gì tớ nhìn thấy.”

“Liệu chúng có giúp gì được không?” Reynie hỏi.

“Chơi khó tớ đấy à. Tớ còn chưa có thời gian để nghĩ về chúng kia. Giữa nhớ và nghĩ có sự khác nhau đấy nhé, ít nhất là với tớ.” Rồi Sticky lại quay trở lại với cái kính viễn vọng. “Lúc nãy cậu có nhìn thấy bọn tớ không?”

“Thấy cái cẳng tay của Kate và cái khuỷu tay của cậu, nhưng các cậu nấp khéo lắm,” Reynie nói. “Tóm lại là từ phía dưới thì không nhìn thấy được các cậu đang làm gì đâu.”

“Từ phía trên thì sao?” Sticky hỏi. “Chúng ta vẫn bình an từ hướng ấy chứ?”

Reynie đi lên phía trên để kiểm tra công việc của Constance. Và thật may là Reynie đã làm thế. Constance đang hớt hải chạy về phía bọn chúng. Với Constance, “hớt hải” có nghĩa là chạy được vài bước lại vấp ngã, thêm được vài bước nữa lại loạng choạng…

Và phía sau cô bé khoảng một mét là Jackson.

“Jackson đang đến đấy!” Reynie thều thào.

Reynie bỗng bị đẩy ngã sóng soài xuống đất. Sticky, do quá sợ hãi, đã rơi khỏi lưng Kate và ngã trúng người Reynie. Cái kính viễn vọng trượt khỏi tay Sticky văng xuống lối đi rải sỏi… và trước khi hai cậu bé kịp đứng dậy thì Jackson đã chạy vụt qua Constance – thô bạo đẩy cô bé ngã khuỵu xuống đất – lao về phía chúng. “Cái quái gì ở đây thế này?”

“Bọn em… bọn em đang thử dựng kim tự tháp bằng người,” Reynie nói.

“Kim tự tháp bằng người? Với ba đứa trẻ ranh?” Jackson nói và nhếch mép cười. “Nghe đáng thương quá. Cái gì đây?” Hắn đã nhìn thấy cái kính viễn vọng, và đang cúi gập người để nhặt nó lên.

Kate lao thẳng đến và giật lấy. “Nó là của em, đấy, câu trả lời đấy.”

Jackson nhìn Kate trừng trừng, ngạc nhiên khi có một học sinh nói với mình bằng cái giọng đó. Rồi từ ngạc nhiên chuyển thành tức giận. “Mày phải đưa nó cho tao, ngay tại đây,” anh ta nói với cái giọng đầy đe doạ, “hoặc là ở Phòng Chờ. Mày có quyền lựa chọn, Wetherall.”

Kate nhìn lại, thách thức. Những đứa còn lại dường như nín thở.

“Tốt thôi,” Jackson nói, mỉm cười đắc thắng. “Để tao kể cho mày nghe nhé. Tao sẽ túm lấy tay mày – và tao định là sẽ vặn nó thật mạnh để mày phải thấy đau đớn thì thôi – và lôi mày về Phòng Chờ. Nếu mày cố chạy trốn, hoặc là đánh tao, tao sẽ đích thân đá mày ra khỏi Học viện… sau khi mày từ Phòng Chờ ra đấy. Mày thấy thế nào?”

Kate chẳng còn lựa chọn nào khác. Miễn cưỡng đưa cái kính viễn vọng cho Jackson. Jackson chộp ngay lấy, còn Sticky vội vàng quay đi, giấu mặt vào tay. Cậu bé chẳng dám nhìn cảnh tượng ấy.

Jackson cười sảng khoái. “Một cái kính vạn hoa? Mày thách thức cả việc đến Phòng Chờ vì một cái kính vạn hoa?” Rồi hắn ta thử nhìn qua ống kính.

“Đúng thế, đó là kính vạn hoa của tôi,” Kate nói.

“Ồ, mày có thể giữ nó,” Jackson chán nản nói. Anh ta trả lại cho Kate cái kính viễn vọng. “Đây là cái kính vạn hoa đáng thương nhất mà tao từng thấy đấy.”

Reynie nhăn nhó suốt cả buổi học tối hôm đó, cố gắng lờ đi những thông điệp cứ liên tục được phát trong suốt hai giờ đồng hồ. Cuối cùng, việc đó cũng kết thúc, Reynie thấy Sticky vẫn đang vò đầu bứt tai. Sticky đã dành cả buổi tối để ghi lại những gì đã nhìn thấy trong cuốn nhật ký của ngài Curtain, đến tận lúc này cậu bé vẫn chưa rời khỏi bàn. “Có vấn đề gì sao?” Reynie hỏi. “Cậu quên mất điều gì à?”

Sticky rên rỉ. “Nhớ hay quên không phải là vấn đề. Vẽ vời mới là vấn đề.” Cậu bé quăng cái bút đang cầm trên tay xuống đất. “Có một biểu đồ trong cuốn nhật ký đó nhưng tớ chẳng vẽ nổi. Câu chữ và con số thì không sao. Chứ tranh ảnh thì tớ bó tay luôn đấy.”

“Cậu có thể thử lại mà,” Reynie nói, liếc qua vai Sticky để nhìn bản vẽ. Có vẻ như Sticky đang cố vẽ một ụ mỳ ống với những viên thịt được đánh số thứ tự. “Chúng ta chỉ còn một phút nữa trước khi phải tắt đèn đấy. Vẽ dưới ánh đèn thế này thì dễ hơn là bật đèn pin để vẽ mà.”

“Đèn pin hay đèn pha, chẳng thành vấn đề. Kể cả trong bóng tối cũng không sao. Nhưng đây là lần thứ tư rồi đấy. Đáng lẽ nó phải giống mô hình não của ngài Curtain, với những khu vực được đánh số kia.”

Reynie chăm chăm nhìn vào bản vẽ, vẻ nghi ngờ. “Cậu chắc đấy là hình vẽ não ngài Curtain chứ?”

“Có chữ NÃO CỦA TA ở đầu trang giấy mà.”

“À, hiểu rồi. Có chú thích cho các con số đó chứ? Hoặc lý giải cho cái biểu đồ đó thì sao?”

Sticky lắc đầu. “Không phải ở trang này.”

Reynie vỗ vào lưng người bạn của mình. “Thế thì càng không phải lo lắng về điều này. Cậu không vẽ ra thì bọn mình cũng biết được một bộ não trông như thế nào mà.”

Gương mặt Sticky nhẹ nhõm hẳn. “Thật chứ? Ồ, tớ đã mong là cậu sẽ nói thế.” Rồi cậu bé xé trang giấy ra thành những mảnh vụn bé xíu. Reynie cũng giúp bạn mình xé vụn ba bản vẽ trước đó nữa, bản vẽ nào cũng giống những cuộn chỉ méo mó với những sợi chỉ được đánh số thứ tự. Hai đứa làm xong việc này vừa kịp lúc những cô bé xuất hiện từ trên trần nhà.

Đứa nào cũng háo hức mong đến lúc cuộc họp bắt đầu. Chẳng mấy chốc tất cả các bóng đèn đã tắt ngấm, và cả lũ đã ngồi quây quần thành một vòng tròn trên sàn nhà.

“Nào, tớ đã viết ra những trang nhật ký tớ nhìn thấy ngày hôm nay rồi đây,” Sticky nói, bày ra một chồng mỏng giấy tờ. “Chúng được viết trong một khoảng thời gian khá dài đấy – trang đầu tiên được viết cách đây phải vài năm rồi, và trang mới nhất là của ngày hôm nay. Tớ đọc to lên nhé?”

Những đứa khác đồng ý, và thế là cả lũ bắt đầu với trang đầu tiên:

Có vẻ như chẳng ai nhận ra con người bị ảnh hưởng bởi NỖI SỢ HÃI nhiều đến thế nào, nó là thành phần cơ bản trong tính cách của loài người. Những thứ khác – từ tham vọng cho đến tình yêu và nỗi tuyệt vọng – đều được tạo nên theo một cách nào đó chỉ từ cảm xúc quyền lực này mà thôi. Phải tìm ra cách tốt nhất để tận dụng điều này.

“Ồ, có vẻ hân hoan nhỉ,” Kate nói.

“Tớ cá ngài Curtain thật ra cũng chỉ là một gã nhát gan thôi,” Constance nói. “Và ông ta cứ nghĩ ai cũng giống mình.”

Sticky, vốn cứ tự nhận mình là một người nhát gan đặc biệt, bỏ qua câu nói của Constance. Lần viết nhật ký tiếp theo, cậu bé nói, là một năm sau đó:

Thật thất vọng biết mấy, cuối cùng cũng phải kết luận rằng ở trên đời chẳng có sự kiểm soát nào hoàn hảo cả. Tuy nhiên, nhờ đó mà ta cũng hiểu ra rằng, cái ảo tưởng về một sự kiểm soát hoàn hảo rốt cuộc cũng chỉ là vô nghĩa.

“Tất cả những gì ông ấy nghĩ đều là ảo tưởng cả,” Reynie nhận xét. “Một Học viện ‘không cần luật lệ’ là một ảo tưởng, chưa kể đến cái danh tiếng tuyệt vời của nó nữa. Và cả việc Khẩn cấp nữa chứ – những thông điệp bí ẩn khiến cho mọi thứ như vô vọng hơn, ngoài tầm kiểm soát hơn. Nhưng, cái ảo tưởng về kiểm soát là ở đâu mới được chứ?”

“Tớ chẳng thấy gì ở đây cả,” Sticky nói, liếc qua những tờ giấy mình đã viết. “Một vài trang tiếp theo là viết về việc sử dụng trẻ em như một bộ lọc để lưu giữ những thông điệp bí ẩn. Chẳng có gì chúng ta chưa biết cả. Tớ bỏ qua mấy trang đấy nhé. À, mà tớ e là phần tiếp theo hơi có tính kỹ thuật một chút đấy. Sẵn sàng chưa?”

Những đứa còn lại trong nhóm trả lời là có (mặc dù Constance nhắm nghiền mắt lại, như là cô bé lo sợ thông tin tiếp theo sẽ làm mình đau), và Sticky tiếp tục:

Tẩy não là một thành công! Quá trình lây lan mạnh mẽ, diễn ra hoàn hảo thông qua tiếp xúc, giống như một thủ tục cưỡng chế. Việc đào tạo lại có thể cũng sẽ thành công: Những thông điệp ‘hài lòng’ sẽ:

1) giúp đối phó với xu hướng chung của những người bị tẩy não là hỏi và hỏi.

2) giúp giảm bớt cảm giác buồn rầu vốn đã ăn sâu.

Dự đoán tác dụng phụ của quá trình đào tạo lại: rụt rè, hồi hộp, tự ti.

Kết luận: hài lòng

Constance vỗ vỗ đầu. “Umm… “

“Tẩy não chắc hẳn là từ ngài Curtain dùng để gọi việc phá huỷ trí nhớ của mọi người,” Reynie nói. “Nếu họ nằm trong phạm vi cỗ máy của ông ta – tớ muốn nói đến cái được gọi là ‘sự lây lan qua tiếp xúc’ ấy – thì ông ta có thể tẩy não họ dù họ không hề muốn, chắc đây là cái ông ta dùng từ ‘cưỡng chế’ đấy nhỉ. Chắc hẳn đây là những gì đã xảy ra với chú Milligan, ngoại trừ việc chú ấy đã chạy trốn trước khi bị ‘đào tạo lại’.”

“Nhưng những chuyên viên khác đã không được may mắn như thế,” Sticky nói. “Ngài Curtain đã đào tạo lại họ thông qua những thông điệp ‘hài lòng’, những thông điệp này yêu cầu họ đừng có hỏi gì cả.”

“Và ít buồn phiền hơn,” Kate nói. “Nhưng phần này hình như chưa thành công lắm thì phải, cho nên họ vẫn chịu ảnh hưởng của ‘cảm giác buồn rầu vốn đã ăn sâu’ khó chịu đó.”

“Có thêm một ít thông tin nữa ở trang sau này,” Sticky nói.

Hậu quả lâu dài của việc tẩy não và đào tạo lại là: Những Người giúp việc dễ quản lý nhưng tinh thần vẫn chán nản. Tồi tệ hơn, những lần trở lại quá thường xuyên của ký ức thường là liên quan đến đối tượng tác động. Điển hình, bắt đầu với những thứ quan trọng cuối cùng còn lại: tên của người thân, những nhiệm vụ chưa hoàn thành,… Cực kỳ khó chịu. Chú ý: Hai trong số bốn giai đoạn cuối cùng xảy ra khi đứng gần gương. Hình ảnh phản chiếu chắc hẳn đã thúc đẩy ý thức về bản thân. Giải pháp: Gỡ bỏ tất cả gương.

Kate xoa xoa tay. “Tớ bắt đầu thực sự cảm nhận mình đúng là một đặc vụ bí mật rồi đấy. Phân tích, rồi suy luận. Tiếp theo là gì, Sticky?”

Sticky xem qua mấy tờ giấy. “Gần hết rồi đấy. Trang nhật ký tiếp theo giải thích lý do vì sao những trường hợp tuyển dụng đặc biệt không quá buồn khổ. Chính là cái mà bọn mình đã từng nghĩ đến đấy.”

“Cậu tóm tắt qua được không?” Constance hỏi, “Làm ơn?”

Những đứa khác lặng người nhìn nhau, không nói một lời. Đây có lẽ là lần đầu tiên Constance dùng từ đó. Dù gần như cô bé nói thế một cách hoàn toàn tình cờ, nhưng cũng chẳng ai muốn phá hỏng khoảnh khắc ấy. Vì nếu nhắc đến, Constance có thể sẽ chối bay chối biến. Nên Sticky chỉ gật đầu và bắt đầu tóm tắt thông tin của trang nhật ký tiếp theo.

“Còn nhớ lần bọn mình nói về chứng quên cục bộ, là chỉ quên những sự kiện cụ thể, không? Rõ ràng là ngài Curtain có thể sử dụng cái máy của ông ấy để xoá đi vài ký ức cụ thể mà không cần phải lấy đi mọi thứ. Cách làm này sẽ chỉ khiến những người ấy trông có vẻ mụ mị đi một lúc thôi, sau đó họ sẽ khá hơn, và những ký ức đó rất hiếm khi quay trở lại.”

“Vậy có nghĩa là nếu bọn mình bị những Tuyển dụng viên đó bắt cóc, ngài Curtain sẽ phải đảm bảo rằng bọn mình sẽ không nhớ gì về việc đó cả. Điều này giải thích tại sao những trường hợp tuyển dụng đặc biệt chẳng hề cảm thấy sợ hãi.”

“Nhưng vì những người này không bị tẩy não hoàn toàn,” Reynie nói, “nên họ cũng không buồn bã. Điều này khiến họ phù hợp hơn cho vị trí Điều hành viên. Tớ cá là hầu hết các Điều hành viên đều là những trường hợp tuyển dụng đặc biệt. Có thể thậm chí là tất cả bọn họ nữa. Cuối cùng thì họ đều chẳng có gia đình nào chờ đón từ phía bên đất liền cả.”

“Tớ thì nghĩ rằng điều này sẽ làm tớ khó mà ghét họ được,” Kate bùi ngùi. “Họ đều là những đứa trẻ mồ côi bị bắt cóc đến đây.”

Cả lũ mất một lúc để nghĩ về câu nói này của Kate. Rồi chúng nhìn nhau lắc đầu. Không thể thế được. Dù sao thì chúng vẫn không thể có thiện cảm với các Điều hành viên.

“Nhưng cũng không có nghĩa là bọn mình sẽ không cố gắng để giúp họ,” Reynie chỉ ra. “Nếu ngài Benedict có thể tìm ra cách để mang ký ức trở về với họ, có thể họ sẽ bắt đầu lại đấy – có thể là học cách để không xấu xa như hiện tại.”

“Tớ đang không nín thở đâu nhé,” Kate nói.

Sticky giở đến trang tiếp theo. “Thử đoán xem? Ngài Curtain viết nó vào ngày bọn mình đến đây đấy.”

Cuối cùng – mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất! Những người phù hợp ở những vị trí phù hợp. Tâm lý chung đang ở mức phù hợp. Cải tiến đang đến rất gần rồi. Mọi thứ đã sẵn sàng, ngoại trừ một vài chỉnh sửa, một vài vụ vận chuyển cuối cùng thôi. Khi mình đang viết những dòng này thì người ta đang chất một trong số những chuyến hàng đó rồi. Tạm biệt! Mình vừa mới hy sinh một Người giúp việc để điều chỉnh công suất của tuốc-bin – có lẽ sẽ cần nhiều hơn những người như thế trong mấy ngày sắp tới.

“Bọn mình có thấy điều đó!” Kate nói. “Thấy họ làm việc trên mấy cái tuốc-bin! Và cũng thấy những Người giúp việc chất đồ lên một chiếc xe tải nữa!”

“Mấy cái thùng gỗ đó,” Reynie nói và đập đập tay lên trán. “Tớ khờ quá! Đáng lẽ phải nghĩ ra rồi chứ…” Rồi cậu nhìn sang những người bạn của mình, cảm thấy mình thật sự rất ngớ ngẩn. “Tớ chắc là các cậu cũng hiểu tớ đang nói gì mà.”

Những đứa kia nhìn Reynie không chớp, và chẳng hiểu bạn mình đang nói gì.

“Tớ thích những lúc cậu ngờ nghệch thế này, Reynie ạ,” Constance nói.

“Những Tuyển dụng viên đó đang lái một chiếc xe tải, nhớ chứ?” Reynie nói. “Chắc là nó chở một thứ gì đó quý giá – một thứ mà ngài Curtain muốn bảo vệ. Nếu không thì ông ấy cần gì phải quan tâm đến vấn đề an ninh như thế chứ?”

“Ồ, tớ cũng sắp nghĩ về việc ấy đấy,” Kate cười và nói. “Cậu quá khắc nghiệt với chính mình rồi đấy, Reynie.”

“Nhưng nếu tớ nghĩ ra sớm hơn,” Reynie cãi, “thì ngài Benedict đã có cơ hội để điều tra thêm rồi! Đến giờ, những chuyến hàng đó có lẽ đã được chuyển đi hết mất rồi. Bọn mình có thể sẽ chẳng bao giờ biết được mấy cái thùng đó đựng cái gì.”

“Có thể là không,” Kate nói, “nhưng bọn mình có thể báo cho ngài Benedict biết là có một việc như thế, đồng thời vẫn tiếp tục để ý mà, đúng không?”

“Đúng thế,” Reynie thừa nhận. Cậu vẫn chưa thôi nghĩ mình là một gã khờ, nhưng cũng không muốn đay đi đay lại cảm giác đó. “Sticky này, còn mấy trang nhật ký nữa?”

“Hai,” Sticky nói. Trang nhật ký tiếp theo như sau:

Thành công! Sáng nay, những thông điệp đã được trực tiếp truyền đi. Thực sự là rất thoả mãn, Máy Thì Thầm giờ đã có thể

“Hết rồi à?” Kate hỏi.

“Tớ xin lỗi, tay ông ta che mất phần còn lại.”

“Máy Thì Thầm,” Constance nói. “Vậy đó là cách ông ấy gọi cái máy câm của mình.”

Reynie không nói gì. Cậu đang thắc mắc khả năng mới của Máy Thì Thầm là gì. Cậu chỉ biết chắc được một điều: Nếu ngài Curtain vui như thế, vậy thì đó là một thứ không tốt đẹp gì rồi.

Sticky sắp sửa đọc đến trang nhật ký cuối cùng. “Có vẻ như ông ấy hoàn toàn điên rồi. Chẳng biết đầu cua tai nheo thế nào nữa.”

Curtain là dành cho các người! Hãy tin Ledroptha Curtain.

Curtain làm mọi thứ tốt hơn. Hãy thấy yên tâm về Curtain.

Không, hãy thấy yên tâm cùng với Curtain. Curtain

Đã có được sự Kiểm soát đó.

“Quái dị thật!” Kate nói.

“Ông ấy đang nói với chính mình à?” Constance hỏi.

“Giống như ông ấy đang cố để thuyết phục ai đó về một việc gì đó,” Reynie nói. “Nhưng đó là ai chứ?”

“Nó chỉ làm tớ càng tin ông ta là kẻ lập dị thôi,” Kate nhún vai. “Nhưng lập dị hay không, thì ông ta vẫn cực kỳ thận trọng trong việc giữ kín những bí mật của mình – cho nên cái việc này nó mới mang đến cảm giác thoả mãn tuyệt vời, kỳ diệu, hoành tráng như thế!”

Và chẳng thể ngồi yên được nữa, Kate nhảy dựng lên, vung tay loạn xạ, và cố gắng kiềm chế để không hét toáng lên, “Các cậu tin được không, vậy mà bọn mình lại nhòm được vào cuốn nhật ký của ông ta, rồi rút êm? Là Người Gửi đấy! Phải chúc mừng, chúc mừng, chúc mừng bọn mình! Và chúc mừng, chúc mừng, chúc mừng Hội Benedict Thần Bí!”

Reynie và Sticky thì thầm hùa theo Kate, nhưng Constance từ chối và nói rằng cái trò đấy chỉ dành cho bọn trẻ con thôi.

“Tớ có thể thấy cậu đang từ chối là chính mình đấy,” Kate cười khúc khích. “Nhưng tớ sẽ không thấy phiền đâu.” Constance quắc mắt và đang định đốp lại nhưng Kate đã kịp nói trước. “Mọi việc đang tiến triển. Các cậu này, bọn mình thực sự đã tiến được những bước nhất định rồi đấy. Giờ nên báo cáo với ngài B nhỉ. Ngày mai bọn mình sẽ quan sát khu vực chất đồ với cái kính viễn vọng của tớ. Phải cố để biết được bên trong mấy cái thùng đó là gì.”

Mấy đứa còn lại trong nhóm đồng ý. Rồi chúng gửi báo cáo, và hai tiếng sau Reynie đang chuẩn bị đi ngủ sau khi đã hoàn thành lá thư trong tâm tưởng viết cho cô Perumal, lần đầu tiên cậu lại cảm nhận được sự hy vọng sau một khoảng thời gian khá dài. Có thể, ngài Benedict sẽ làm được điều gì đó để ngăn ngài Curtain lại. Và sau đó có thể giúp chú Bloomburg, Milligan và tất cả những người khác lấy lại ký ức. Có thể mà, phải không?

Reynie hít một hơi thật sâu rồi thả lỏng người, để giấc ngủ từ từ đến với mình. Dù mọi việc dường như vẫn tối tăm mù mịt lắm, nhưng chí ít thì bọn trẻ đã không còn tuyệt vọng nữa. Cuối cùng chúng đã có được vài bước tiến triển. Và ai mà biết được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai?

Dĩ nhiên, Reynie không biết, và đó là vận mệnh. Vì, nếu biết trước, cậu sẽ không để mình ngủ dễ dàng như thế này đâu.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.

 Bình luận