“Kate!” cả hai phải kiềm chế lắm mới không hét toáng lên. “Có chuyện gì thế? Cậu không sao đấy chứ?”
“T-t-t-ốt,” Kate lắp bắp.
Reynie quăng vội cái chăn đắp lên người cô bạn. Đến khi đã cảm thấy ấm hơn, Kate kể lại mọi việc cho hai cậu bạn của mình, (tuy nhiên có bỏ đi đoạn về con cá mập tưởng tượng, vì cũng không cần thiết phải miêu tả lại mọi chi tiết.)
“May mà tớ buộc chặt cái giỏ đấy,” cô bé nói, “không thì chắc nó đã tuột mất rồi. Nhưng tớ cũng bị rơi mất vài thứ, và cái bút đèn thì bị ngấm nước. Các ngón tay của tớ tê cứng đến mức chẳng cầm nổi vật gì nữa. Tớ không leo lên được trên trần nhà, nên đã phải lẻn đi qua hành lang. Đến giờ vẫn chẳng thể tin là tớ không đụng phải Jillson hoặc bất kỳ một ai khác đấy.”
“Không tin được là cậu đã xoay sở để có thể nghe lén được qua cái đường ống dẫn nước đấy,” Sticky nói. “Sao cậu có thể nghĩ ra cách đó nhỉ?”
“May mắn thôi,” Kate nói. “Lần trước Reynie có nhắc đến cái rãnh nước trong văn phòng của ngài Curtain mà. Rồi tối qua Milligan lại chỉ cho bọn mình cái cống nước nữa. Cống và rãnh, tớ ghép chúng lại với nhau rồi mò ra thôi.”
Reynie lục được một cái khăn còn khô, đưa cho Kate. “Vậy có nghĩa là không còn cách nào để đột nhập được vào trong cái phòng máy tính đó sao?”
Kate miễn cưỡng lắc đầu. Cô bé chẳng muốn phải thừa nhận việc này.
“Được rồi,” Reynie nói. “Tốt đấy, Kate.”
“Tốt? Nhưng có kết quả gì hay ho đâu.”
“Cậu đang đùa đấy à? Chẳng phải là giờ bọn mình đã biết không thể tiếp cận được phòng máy tính đó sao? Nên sẽ không phí thời gian để tìm kiếm nữa. Và thật sự thì cũng chẳng có thời gian để mà phung phí đâu – chỉ ngày kia thôi, sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa. Và thật may là giờ bọn mình đã biết được điều đó, nhờ có cậu đấy. Tất cả đều là những thông tin cực kỳ quan trọng.”
Kate nhún vai, nhưng thực tế thì cô bé hài lòng lắm. Lúc này, cảm giác dường như đã trở lại trên những ngón tay cô bé.
Reynie còn mải suy nghĩ. Không có thông điệp nào đang được gửi đi ở thời điểm hiện tại. “Ông ta đã nói gì hả Kate? Liên quan đến việc Máy Thì thầm là một cái máy nhạy cảm ấy?”
“Nhạy cảm, cân bằng tuyệt đối,” Sticky nói. “Và cần phải có định hướng tinh thần nghiêm ngặt để hoạt động chính xác.”
“Tớ đoán là ông ta đã nói thế đấy,” Kate thừa nhận. “Tớ đã rất cố gắng để nhớ được chính xác ông ta nói gì, nhưng khả năng ghi nhớ của tớ chẳng bằng của cậu.”
“Được rồi, bọn mình nên báo lại việc này với ngài Benedict ngay,” Sticky vừa nói vừa leo lên trên cái tivi. Ngay lập tức cậu bé rên rỉ. “Jackson đang ở ngoài quảng trường với S.Q. đấy – không biết anh ta đang la mắng S.Q. về một việc gì kìa!”
“Sticky và tớ sẽ đợi,” Reynie nói. “Còn Kate, cậu nên thay bộ quần áo ướt sũng này và đi ngủ đi. Không cần phải cả ba đứa ở lại đây đâu!” Vừa lúc một thông điệp lại được phát ra, cả ba nhăn nhó. Reynie lại cảm thấy cơn bão ào ạt trong đầu mình.
“Trời ạ, mong là tớ sẽ không phải thức cả đêm,” Kate thở đài. “Tớ sẽ để bộ quần áo này ở lò sưởi, cố gắng ngủ. Bọn mình chỉ có khoảng một ngày để cứu cả thế giới. Cần phải làm tất cả những việc chưa làm được.”
Kate thực sự đã ngủ: Cô bé quá mệt mỏi sau những cố gắng suốt buổi tối hôm đó, và đã bỏ qua chuông báo thức đến nỗi bị muộn giờ ăn sáng. Constance cũng chẳng giúp được gì. Đêm qua, lúc về phòng, Kate đã phải đánh thức Constance dậy để mở cửa, và sau đó Constance còn ngủ say hơn cả bình thường. Cả hai vẫn còn ngủ say sưa lúc Jillson đấm mạnh lên cánh cửa. Kate mơ màng thấy mình đã quay trở về với gánh xiếc và đang biểu diễn tiết mục với súng đại bác.
“Dậy ngay!” Jillson hét lớn, giận dữ đập mạnh lên cửa khiến cho cánh cửa sổ phòng hai cô bé kêu cót két. “Mười lăm phút nữa là hết thời gian cho bữa sáng rồi đấy, mấy cô nương!”
Kate choàng dậy, nhảy ra khỏi giường, mặc vội quần ảo, chộp lấy đôi giày đang để trên lò sưởi. Thật không may là chúng chưa được khô cho lắm. Rồi lay Constance dậy. “Nhanh lên, cô bé Connie!”
Constance ngồi máy môi máy mắt mất một lúc rồi nói, “Đừng gọi tớ là Con…”
“Được rồi, được rồi. Tớ xin lỗi!”
Phải mất kha khá thời gian để nịnh nọt, gạ gẫm, Kate mới lôi được Constance dậy, rồi cõng cô bạn nhỏ bé trên lưng, vội vàng đi đến khu nhà ăn và lạch bạch đi đến chỗ hai cậu bạn tại cái bàn quen thuộc. Vì lý do nào đó, mắt Reynie cứ mở to khi thấy Kate đang đi đến. Và khi cô bạn chỉ vừa ngồi xuống, Reynie đã cố tình nói thật to, “Cậu đây rồi! Để tớ rót cho cậu ít nước hoa quả nhé!” Rồi, với một sự vụng về bất thường, cậu chộp lấy ca nước nhưng bị hụt, khiến cho nguyên một lít nước chảy xuống chân Kate. Một nhóm Liên lạc viên ở cái bàn gần đó phá lên cười.
“Hay đấy, Reynie!” Kate nói. “Tớ có thể tự rót được, chẳng phải sao?”
Hạ thấp giọng xuống, Reynie nói nhanh, “Nghe này Kate. Tin đồn đã kịp lan đi khắp nơi rồi. Mọi người đều biết có kẻ nào đó ở trong cống và nhảy xuống biển để trốn thoát – và đôi giày ướt sũng của cậu là một bằng chứng chết người đấy. Ai cũng nhìn thấy tớ làm đổ nước hoa quả, và giờ thì cậu có lý do để giải thích cho đôi giày ướt rồi đấy.”
“Kỳ chưa,” Kate nói. “Cảm ơn anh bạn! Và bỏ cái điệu cười nhăn nhở đó đi, Constance. Cậu không cần phải lúc nào cũng thích thú với mấy thứ này như thế đâu.”
Trong lúc hai cô gái ngấu nghiến bữa sáng, Reynie và Sticky kể lại những gì đã diễn ra tối qua: Sau khi Kate về phòng, Sticky đã có cơ hội để gửi thông báo về cho ngài Benedict, nhưng sau đó lại cực kỳ thất vọng vì không nhận được sự hồi đáp nào. Jackson và S.Q. đã quay lại quảng trường. Và lần này còn có cả ngài Curtain nữa, ông ta, cũng giống như Jackson, rõ ràng là đang rất tức giận với S.Q. vì một việc gì đó nên không ngừng chỉ thẳng ngón tay vào mặt S.Q.
“Bọn tớ cứ phân vân mãi, không hiểu sao S.Q. lại gặp nhiều rắc rối đến thế,” Sticky nói, “và sáng nay thì đã rõ nguyên nhân. Ai cũng biết về việc: tay Jackson và S.Q. đã thất bại, không bắt được kẻ nghe lén, nhưng họ đã tìm thấy những dấu chân trên bãi cát cạnh cái cống, những dấu chân dẫn xuống biển.”
“Cái gì?” Kate nói, cứng đơ người với một dĩa đầy trứng đưa gần tới miệng. “Ồ, không thể! Tớ đã định xóa mấy dấu chân đó đi, nhưng chẳng còn thời gian nữa.” Gương mặt cô bé ửng đỏ, ngượng ngùng, bỏ chiếc dĩa xuống bàn. “Tớ xin lỗi. Họ sẽ khớp đôi giày của tớ với những dấu chân đó, các cậu cũng biết họ sẽ làm thế mà. Và rồi… Nhưng tại sao cả hai cậu lại lắc đầu thế?”
“Vì cậu chẳng phải lo lắng về điều đó đâu,” Reynie nói.
Sticky nhăn nhở cười. “S.Q. đã lo việc đó hộ bọn mình rồi, khi tìm thấy những dấu chân đó, anh ta lần theo xuống tận bờ biển. Những bước chân to oành của anh ta đã khéo léo chồng lên từng dấu chân của cậu, xóa hoàn toàn chúng. Hoàn toàn luôn đấy! Và đó là lý do vì sao ngài Curtain lại tức giận đến như thế.”
“Ha!” Kate thở phào. “Cái này là dành cho S.Q. tốt bụng!”
“Tình thế vẫn khá cam go đấy,” Reynie nói. “Ngài Curtain sẽ theo dõi tất cả mọi người… và, này, các cậu không thấy mấy cái bánh này tuyệt vời à? Ăn rất hợp với sữa lạnh nhé, đặc biệt là mấy cái bánh phúc bồn tử.”
Sticky chẳng hề ngạc nhiên với việc chủ đề đột ngột bị thay đổi như thế. Chính cậu cũng nhìn thấy Jackson và Martina đang đi lại. Cho nên, đã nghiêm túc đáp lại là mình thích mấy cái bánh quế hơn. Vừa lúc đó, Jackson đi đến và nở một nụ cười khinh bỉ, “George, xin lỗi vì chen ngang đoạn hội thoại thú vị của bọn mày, nhưng mà Martina và tao đang có nhiệm vụ đi điều tra. Chắc bọn mày cũng nghe hết về tên gián điệp rồi đấy.”
“Đúng thế,” Reynie nói, “thật khó tin. Không biết tên gián điệp lẻn vào Học viện làm gì nữa?”
Jackson gõ vào đầu Reynie một cái đau điếng. “Nếu mày biết động não một chút, Muldoon, thì đã có thể hiểu được ít nhiều rồi. Tên gián điệp rõ là muốn ăn cắp một ít công nghệ bí mật của ngài Curtain, sau đó bán lại, hoặc sử dụng cho những mục đích đồi bại, xấu xa nào đó.”
“Thật kinh khủng;” Kate nói.
Reynie gãi gãi đầu. “À, đúng thế, bọn em đã nghe về tên gián điệp.”
“Nhưng vẫn có một điều mà chắc bọn mày chưa nghe được đâu.” Jackson thò tay vào túi và lôi ra một viên bi. Viên bi của Kate.
“Tên gián điệp là một viên bi?” Reynie hỏi.
“Ha ha, chàng trai trẻ. Ha ha, không, viên bi này vô tình được tìm thấy tối qua, ở một nơi, nói thế nào nhỉ, nơi mà nó không nên xuất hiện.”
“Cách giải thích phù hợp đấy,” Reynie nói.
Martina cúi xuống, nhìn chằm chặp vào cái giỏ của Kate. “Và giờ Jackson và tao đang đi tìm chủ nhân của viên bi đó. Tao không muốn nói thẳng toẹt ra,” Martina ngọt xớt, “nhưng có vẻ như cái giỏ kia là một nơi lý tưởng để đựng bi đấy nhỉ.”
Reynie và Sticky cố gắng để tỏ ra không quan tâm, nhưng tâm trí thì đang rối loạn ghê lắm. Kate có nói đến việc rơi mất vài thứ tối qua, nhưng không nhắc gì đến những viên bi và cái súng chun cả.
“Không phiền nếu bọn tao xem qua nó chứ?” Martina hỏi nhưng đã bước gần về phía cái giỏ rồi.
“Cứ tự nhiên,” Kate trả lời. Trước khi Martina kịp chạm tới cái giỏ, cô bé đã dốc mọi thứ trong giỏ lên mặt bàn: một cục nam châm, một con dao Thụy Sĩ, một cuộn dây câu, một cái kính vạn hoa, và một sợi dây thừng (sợi dây vẫn còn ướt, nhưng nếu không chạm vào thì sẽ không nhận ra). Không có viên bi nào. Cũng chẳng còn cái súng chun.
“Ồ.” Martina nói, gương mặt thể hiện rõ sự thất vọng.
“Được rồi,” Jackson nói. “Kiểm tra chút thôi mà. Bọn tao còn phải kiểm tra rất nhiều người khác, nên không làm phiền cuộc trao đổi thú vị của bọn mày nữa. Đi nào, Martina.” Phải mất một lúc anh ta mới kéo được Martina miễn cưỡng đi theo.
Kate nháy mắt. “Có thể tớ không biết Thời đại Tân Sinh là…”
Sticky kinh ngạc. “Kate, bọn mình đang sống ở chính Thời đại Tân Sinh đấy, bắt đầu từ sáu mươi lăm triệu năm trước đây, nhưng…”
“Điều tớ đang định nói,” Kate bướng bỉnh, “là có thể tớ không biết cái thời đại đấy bắt đầu từ khi nào, nhưng không có nghĩa là tớ vừa mới được sinh ra ngày hôm qua đâu nhé.”
“Các cậu đang nói về cái quái gì thế?” Constance hỏi.
“Ý Kate là cậu ấy không hề ngu ngốc,” Reynie nói. “Vậy là cậu đã cố tình vứt hết mấy viên bi và cái súng chun đi, phải không Kate?”
“Tất nhiên rồi. Tớ đoán anh ta sẽ tìm thấy viên bi nên phải bỏ hết những viên còn lại đi. Tớ chẳng hề muốn làm thế đâu. Tớ kiếm được chúng sau một trò chơi với người huấn luyện sư tử đấy.”
“Tội nghiệp Kate,” Constance nói, “mấy viên bi bị mất hết rồi.”
Cả lũ, trừ Kate, đều đang khúc khích cười khi Martina và Jackson, như vừa đột ngột thay đổi quyết định, quay lại chỗ bọn trẻ. Cái nhìn hăm dọa nhưng hài lòng của Martina khiến tiếng cười im bặt, bọn trẻ hồi hộp chờ đợi.
“Jackson đã quên mất một việc,” Martina nói. “Tối qua anh ta cũng đã nhả một miếng bã kẹo cao su ở chỗ viên bi. Nhưng khi anh ta quay lại để tìm nó, nó đã biến mất.”
Reynie cảm nhận được, bên cạnh mình, Kate đã đơ cả người. Rắc rối rồi đây.
“Điều hay ho của kẹo cao su,” Jackson nói, “là nó sẽ dính ở đế giày của mày mà mày chẳng hề hay biết.”
“Em hiểu, em hiểu,” Kate có vẻ nhấp nhổm. “Giờ muốn xem đế giày của em chứ gì.”
“Nếu mày tốt bụng,” Martina nhếch miệng cười. Cô ta đã thấy Kate nhấp nhổm nãy giờ và rất hào hứng với suy nghĩ cô bé làm thế là vì lo sợ.
“Xin lỗi vì mấy giọt nước, nhưng mà Reynie vừa đánh đổ nước hoa quả vào giày của em,” Kate nói.
“À, ừ, bọn tao có nhìn thấy việc đấy,” Jackson nói và cười một tràng dài. Cười mà nghe như tiếng kêu đau đớn của một chú cừu bị thương.
Trong khi Jackson đang kêu be be như một chú cừu, Kate ấn một thứ gì đó dính dính, lạo xạo và lành lạnh vào tay Reynie lúc đó đang để dưới gầm bàn. Vậy là không phải cô bé nhấp nhổm vì căng thẳng – mà là đang cố co chân lên để lấy cái bã kẹo cao su dính ở đế giày. Trong khi Kate đang giơ đôi giầy ướt sũng của mình lên để Jackson và Martina kiểm tra, Reynie vươn tay về phía bên kia rồi ấn miếng kẹo cao su vào tay Sticky. Cậu nghĩ càng xa Kate càng tốt. Sticky cũng có chung suy nghĩ đó với Reynie, nên ngay lập tức dúi miếng bã kẹo sang cho Constance.
Thật không may mắn là Constance đã chẳng hiểu nó là cái gì.
Sợ hãi, hai cậu bé bất lực ngồi nhìn Constance từ từ giơ miếng kẹo nhớp nhúa, bẩn thỉu lên trên mặt bàn để xem nó là cái gì. Reynie vội liếc nhìn hai Điều hành viên. Cả hai đều thất vọng với đôi giầy của Kate, giờ đang yêu cầu cô bé giơ hai bàn tay sạch sẽ lên trước khi cúi xuống gầm bàn mong tìm được một thứ gì đó dinh dính. Cậu quay lại nhìn Constance, đúng lúc Constance hiểu ra vấn đề. Sau đó, vừa vặn một giây trước khi Martina ngước mắt lên, Constance ném vội miếng bã kẹo vào miệng, nuốt chửng.
“Đó là thứ kinh tởm nhất mà tớ từng nhìn thấy,” Sticky nói khi sóng gió đã qua và hai Điều hành viên đang bận bịu kiểm tra những đứa trẻ khác. Đôi má Constance bình thường lúc nào cũng ửng đỏ, giờ đã chuyển sang một màu xám ngoét.
“Kinh tởm, đúng thế, nhưng anh hùng,” Reynie nói.
“Bọn mình đều đã cống hiến,” Constance lí nhí một cách khổ sở.
“Giờ, cái chúng ta cần là một quyết định,” Kate nói. “Cần một kế hoạch, và phải nhanh lên. Có ai có ý tưởng gì không? Tớ cạn kiệt rồi.”
Constance chẳng nói gì, chỉ rên rỉ và lấy hai tay ôm đầu.
“Tớ có điều muốn nói,” Reynie nói, rồi ngập ngừng. Cậu vốn định thú nhận rằng mình chẳng có đủ can đảm để đối diện với Máy Thì Thầm thêm một lần nữa – rằng chỉ cần nghĩ đến cái máy đó thôi là đầu óc cậu đã cứng đơ mất rồi, vậy thì sẽ tồi tệ đến thế nào nếu cậu thực sự phải trải nghiệm cái máy đó một lần nữa? Có chắc là cậu sẽ đầu hàng nó không? Đó là điều Reynie định nói. Nhưng giờ cậu thấy mình không thể thốt ra được những lời ấy. Những lời quá xấu hổ.
Constance lại rên rỉ và chẳng buồn nhìn lên. “Reynie, cậu là chúa hay nói mình muốn nói điều gì đó, rồi sau đó lại chẳng nói gì cả. Cậu có nhận thấy điều đó không?”
“Xin lỗi,” Reynie nói. “Tớ… tớ quên mất.”
Reynie không phải là thành viên duy nhất của Hội Benedict Thần Bí đang có những suy nghĩ rối rắm. Sticky đang có cùng một cảm giác với Reynie, còn Kate vẫn đang ao ước giá mình có thể phá hủy được mấy cái máy tính đó thì đã tự mình giải quyết được vấn đề rồi. Trong lúc đó, Constance đang cố gắng để không suy nghĩ đến việc mình sẽ thế nào khi ngài Curtain gửi các thông điệp đi với tốc độ nhanh nhất. Có nghĩa là cả bốn đều cố để không nghĩ thay vì đáng ra phải cố gắng để nghĩ về một việc nào đó. Và cố gắng không làm gì thì thường ít có tác dụng hơn là cố gắng làm gì.
Tuy nhiên, quanh đi quẩn lại với suy nghĩ sẽ không đối mặt với Máy Thì Thầm nữa, Reynie bỗng đụng phải một thứ có vẻ rất giống một kế hoạch. Cậu tự nhủ cả trăm lần là “mình không thể ngồi dưới Máy Thì Thầm một lần nữa.” Nhưng lần này, chẳng hiểu vì lý do nào đó mà Reynie lại thêm cả từ “một mình”, để rồi lóe lên trong đầu một kế hoạch.
“Được rồi, các cậu. Tớ vừa nghĩ ra một kế hoạch. Chẳng phải ngài Benedict đã dặn là bọn mình phải hỗ trợ nhau trong mọi tình huống sao. Và đứa nào cũng là một phần quan trọng của cả đội. Đến lúc cần phải dùng đến rồi.”
“Kế hoạch của cậu đấy à?” Constance nói. “Là ôm những người còn lại trong nhóm thật chặt à?”
Nhưng Reynie chẳng thèm để ý đến cô bạn của mình. “Tớ đang nghĩ đến tình huống bọn mình cùng nhau đối diện với ngài Curtain, với Máy Thì Thầm. Biết đâu lại nghĩ ra được thứ gì đó thì sao.”
“Ý cậu là cả bốn đứa sẽ cùng vào Phòng Thì Thầm, còn có cả ngài Curtain ở đó nữa?” Constance tỏ vẻ nghi ngờ. “Thế thì bọn mình có thể làm được gì?”
“Tớ cũng chưa biết,” Reynie thú thật. “Nhưng còn có Milligan nữa mà. Nếu liên lạc với chú ấy, chắc chắn chú ấy sẽ giúp.”
“Tớ đồng ý, đáng để thử đấy,” Kate nói. “Không còn nhiều thời gian nữa mà. Nhưng sẽ làm thế nào nhỉ? Constance và tớ có nên lẻn vào lúc hai cậu đang ở chỗ cái máy đó không?”
Reynie nghĩ ngợi. “Cửa vào được điều khiển bằng một cái nút trên xe lăn của ngài Curtain, điều đó có nghĩa là các cậu chẳng thể lẻn vào được đâu. Nhưng Sticky và tớ thì có thể ấn cái nút đó để cửa mở đấy.”
“Nhưng vẫn còn một vấn đề nữa,” Sticky nói. “Trong ít nhất vài ngày tới, chưa đến lượt bọn mình được làm việc với Máy Thì Thầm đâu, cậu nhớ chứ? Sau đó thì mọi việc đã quá muộn mất rồi!”
Kate cố nghĩ. “Sẽ rất tốt nếu… Sẽ rất tốt nếu ngài Curtain đoạt giải Nobel Hòa Bình.”
Sticky không nhịn được, phun cả sô cô la sữa ra. “Cậu đã… ơ, S.Q.! Sao anh lại ở đây?”
S.Q. Pedalian nhìn bọn trẻ vẻ chán nản. “Mấy nhóc, chắc các em cũng nghe được chuyện anh làm hỏng vụ truy lùng tên gián điệp rồi. Xóa sạch mấy dấu chân trên cát.”
“Anh không cần phải buồn bã thế đâu ạ,” Reynie nói. “Em đoán chẳng ai có thể làm tốt hơn thế đâu mà.”
“Em thật tốt,” S.Q. thở dài. Rồi não nuột hít một hơi thật sâu. “Nhưng thấy tội nghiệp cho anh như thế là đủ rồi đấy. Anh đến để hỏi thăm em, Constance ạ. Trông em có vẻ xanh xao.”
“Em e là bọn em làm bạn ấy bị lây rồi, virut dạ dày ấy ạ,” Reynie xen vào. “Sticky và em vừa mới khỏi xong.”
S.Q. nhìn Constance vẻ thông cảm. “À ừ, các Liên lạc viên khác cũng kể với anh rồi. Phiền phức quá nhỉ. Em cảm thấy thế nào, Constance?”
“Hình như em vừa ăn phải một cái gì đó thật kinh tởm, anh ạ,” Constance nói. “Em đoán đấy là hậu quả của việc em cứ suốt ngày quẩn quanh bên Sticky và Reynie.”
“Chẳng có gì tốt hơn việc các em tham gia cùng với các Liên lạc viên đâu,” S.Q. nói. “Được ảnh hưởng tốt. Ý anh là trừ virut dạ dày ra nhé. Mong là sẽ không có quá nhiều người nữa bị lây nữa. Nếu phải cho các lớp nghỉ thì thật là xấu hổ, vì có quá nhiều thứ hay ho cho các em học mà.”
Cả bốn đứa đều hào hứng đồng ý với S.Q, cảm ơn anh ta vì đã hỏi han, gật đầu lia lịa khi anh ta say sưa kể về tên gián điệp đã chạy thoát, về rất nhiều những thứ tốt đẹp, cho đến khi cằm anh ta mỏi nhừ, trong đầu hết sạch thứ để kể, và anh ta đi khỏi.
“Cái chúng ta cần bây giờ,” Kate tiếp tục, cứ như câu chuyện của bọn chúng chưa hề bị chen ngang, “là làm thế nào để đến lượt Sticky và Reynie thật nhanh. Có tí cơ hội nào là các cậu sẽ được gọi vào ngày mai không?”
“Tớ e là không đâu,” Reynie nói. “À, trừ khi tất cả các Liên lạc viên khác bỗng nhiên lăn ra ốm.”
“Quá tệ, bọn mình không thể làm họ bị đau bụng được,” Constance nói.
Sticky vểnh tai.
“Ai bảo là không thể?” cậu bé nói.