Ngài Benedict kiên nhẫn đợi đến tận khi bọn trẻ đã bình tĩnh lại. Ông giải thích về nhiệm vụ mới: làm thế nào để chúng được nhận vào Học viện trong ngày hôm sau, làm thế nào mà ông thảo được hết các loại giấy tờ cần thiết, và làm thế nào để (điều khiến Kate cảm thấy hơi thất vọng một chút) bọn trẻ sẽ không phải dùng mật danh.
“Cụ thể chúng cháu phải làm gì?” Sticky hỏi.
“Chính xác những điều mà chúng muốn các cháu làm, ngài Benedict nói. “Là học tập. Các cháu phải trở thành những học sinh xuất sắc. Một trong số ít những điều chúng ta biết về Học viện là nhiều đặc quyền nhất định chỉ dành cho các học sinh đứng đầu. Không nghi ngờ gì đó là những đứa trẻ mà Người Gửi dùng để gửi các thông điệp ẩn của hắn.”
“Cho nên ngài hy vọng chúng cháu sẽ có được thông tin bí mật nào đó,” Reynie nói.
“Đúng vậy. Làm thế nào mà các thông điệp của Người Gửi lại có thể có những ảnh hưởng sâu sắc đến vậy, kế hoạch cụ thể của hắn là gì – bất kỳ điều gì các cháu khám phá được đều có thể giúp chúng ta tìm ra cách tiêu diệt hắn.”
“Chỉ có vậy thôi à?” Sticky hỏi. “Ngài chỉ muốn chúng cháu làm học sinh?”
“Hơn thế chứ,” ngài Benedict nói, “các cháu không chỉ phải học những gì chúng dạy, mà còn phải cố gắng học những gì chúng không dạy. Từng chi tiết kỳ lạ, từng yếu tố đáng ngờ của Học viện – bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, các cháu phải báo lại cho ta biết. Các cháu không bao giờ ngờ được một lấn tò mò tốt có thể giúp chúng ta nắm được chìa khóa dẫn đến toàn bộ kế hoạch của Người Gửi. Mọi thứ các cháu phát hiện đều có thể sử dụng.”
Kate xoa xoa hai tay vào nhau. “Vậy ngài muốn chúng cháu lén lút giám sát, có thể đột nhập vào vài phòng làm việc, và…”
Ngài Benedict lắc đầu, “Hoàn toàn không.”
Kate ngừng xoa tay, “Không?”
“Các cháu phải tìm ra tất cả những gì có thể tìm,” ngài Benedict nói một cách nghiêm túc, “và các cháu phải báo lại cho ta, nhưng không được vướng vào các rủi ro không cần thiết. Nhiệm vụ của các cháu hiện nay đã đủ nguy hiểm rồi.”
Kate có vẻ cụt hứng, trong khi những đứa trẻ khác thì thở phào nhẹ nhõm.
“Từ nay về sau,” ngài Benedict tiếp tục, “chúng ta phải liên lạc thường xuyên – và bí mật. Do đó chúng ta sẽ dùng mật mã Morse.”
“Mật mã Morse!” Reynie ngạc nhiên hét lên.
“Không ai còn dùng mật mã Morse nữa,” Kate nói.
“Chính vì vậy nó mới hữu ích với chúng ta,” ngài Benedict nói. “Các cháu biết đấy, Học viện nằm trên đảo Nomansan, cách bến cảng Thành phố Đá nửa dặm. Từ một vị trí bí mật tại bờ biển trên đất liền, chúng ta sẽ liên tục theo dõi hòn đảo. Mỗi ngày và mỗi đêm, mỗi khoảnh khắc, các dấu diệu của các cháu sẽ được theo dõi. Các cháu có thể tùy ý chọn lựa thời điểm an toàn nhất. Chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng.”
“Nhưng ngày mai chúng cháu phải đi trong khi thậm chí còn chưa biết mật mã Morse!” Constance phàn nàn.
“Thực ra là tớ biết,” Sticky nổi. “Tớ có thể dạy cậu, nếu cậu muốn.”
Constance lè lưỡi về phía Sticky.
“Các cháu đều học rất nhanh,” ngài Benedict nói. “Ta không lo về vấn đề đó. Và Constance này,” ông vừa nói vừa nhướn lông mày, “ta khuyên cháu nên trân trọng Sticky cùng với lời đề nghị của bạn ấy. Vì đây là điểm quan trọng mà ta muốn nhấn mạnh: Các cháu bây giờ là một đội. Các cháu có đồng ý hay không cũng không quan trọng, nhưng các cháu phải chăm sóc lẫn nhau, phải nương tựa vào nhau trong mọi tình huống. Ta không phóng đại khi nói rằng từng người trong các cháu đều quan trọng với thành công của đội, và thực tế, là với số phận của tất cả chúng ta. Các cháu phải ghi nhớ điều đó.”
Constance đảo đảo mắt. “Vâng, tốt thôi, George Washington, cậu có thể dạy tớ cái thứ mật mã Morse bốc mùi đó.”
“Gọi tớ là Sticky thôi. Sticky là được rồi. Cậu cũng có dùng họ của mình đâu.”
“Khi nào chúng ta bắt đầu, hả George Washington?”
Sticky cau có. “Đừng có gọi tớ như thế!”
Kate dựa vào Reynie thì thầm, “Tớ nghĩ chúng ra có thể gặp nhiều khó khăn hơn ngài Benedict nghĩ đấy.”
Bọn trẻ được yêu cầu học mật mã Morse ở phòng ăn, nhưng thời tiết buổi chiều quá đẹp, và cái sân nhỏ rợp bóng mát lại quá hấp dẫn, nên chúng xin được mang theo bữa ăn trưa và học ở bên ngoài. Ngài Benedict đồng ý với điều kiện không ai được liều lĩnh đi ra cổng, và Milligan phải luôn ở bên cạnh. Sticky và Constance ngồi trên chiếc ghế đá phía dưới bóng cây du, trong khi Kate và Reynie nằm dài trên mặt đất phủ đầy cây tường vi gần đó. Milligan, cải trang thành người làm vườn với mớ tóc màu xám lấp ló bên dưới một chiếc mũ rơm, với dáng vẻ tất bật và mệt mỏi, đang chăm sóc mấy bụi hoa hồng.
“Đó là loại mật mã đơn giản thôi,” Sticky giải thích. “Nó sử dụng các dấu chấm và dấu gạch ngang – các dấu ngắn và dài – để tượng trưng cho các chữ cái và chữ số.Ví dụ, chữ cái A được tạo bởi một đấu ngắn và một dấu dài, hay một dấu chấm và một dấu gạch ngang. Đây, để mình cho cậu xem.” Mượn đèn pin của Kate (Kate luôn mang theo cái đồ của mình đến mọi nơi), Sticky bật và tắt đèn pin rất nhanh. “Đó là tín hiệu ngắn – dấu chấm,” cậu bé nói. Sau đó cậu bé bật đèn pin trong đúng một giây. “Và đó là ký hiệu dài – dấu gạch ngang. Để cạnh nhau chúng tạo thành chữ A, và các chữ cái khác cũng gần giống như vậy. Chữ cái B là một gạch ngang và ba chấm, c là gạch, chấm, gạch, chấm và tương tự như thế với các chữ cái khác. Tất cả được viết ở đây,” Sticky nói ,chỉ vào cái bảng biểu mà ngài Benedict đưa cho chúng.
“Mình cùng tập nhé,” Sticky nói. “Constance, cậu dùng đèn pin và bảng này để đánh vần ra một thông điệp, và bọn tớ sẽ đoán xem cậu đang nói gì.”
Bàn tay của Constance nhỏ đến mức cô bé phải dùng cả hai tay để giữ đèn pin, nên Sticky phải cầm cái bảng hộ cô bạn bé nhỏ. Nheo mắt tập trung nhìn vào tờ giấy, Constance nháy nhanh đèn một lần, sau đó là hai lần dài hơn, rồi dừng lại.
“Chấm, gạch, gạch,” Sticky nói.
Kate nhìn vào tấm bảng và nói, “đó là chữ W, đúng không?”
Constance gật đầu và tiếp tục nháy đèn: bốn tín hiệu nhanh.
“Bốn chấm,” Reynie nói, “chữ H.”
Constance một lần nữa gật đầu, và theo cách này, bọn trẻ tiếp tục xử lý phần thông điệp còn lại. Quả đúng như ngài Benedict đã nhận xét, bọn trẻ đều học nhanh. Dù thế, ngoại trừ Sticky, cả lũ vẫn phải mất vài phút cho việc kiểm tra trên tấm bảng. Cuối cùng, Constance cũng nhấp nháy mật mã cho chữ cái cuối cùng của cô bé (gạch ngang, chấm – một chữ N), sau đó nhìn Sticky đầy hy vọng, cậu bé ngay lập tức bắt đầu phản ứng. Thông điệp là: Tại sao cậu lại bỏ chạy?
“Này, câu hỏi hay đấy,” Kate nói, “Sao cậu lại bỏ nhà đi, Sticky?”
“Dùng mật mã để trả lời thì mất thời gian lắm,” Sticky nói. “Hay tập luyện với thông điệp khác đi, cái nào ngắn thôi.”