Colin trông vẫn chẳng có gì giống với Hoàng Tử Quyến Rũ, nhưng với đôi tất dài sẫm màu ôm sát vào hai bắp chân lực lưỡng và đôi vai rộng của anh được lồng trong một cái áo dài thắt ngang lưng màu gỗ mun có hình một con quạ bạc, anh có thể bị nhận lầm là họ hàng xa của Hoàng Tử Bóng Tối. Thậm chí anh còn cạo hàm râu lôi thôi của anh nữa.
Con dao của gã Sát Thủ Diệt Scot được giắt vào thắt lưng anh như một huy hiệu danh dự. Anh thắt mái tóc thành hai bím, rồi cột chúng ra sau bằng một sợi dây da, dùng hai bím để gò mớ tóc hỗn độn còn lại. Tabitha cảm giác một thôi thúc lố bịch muốn chạy đến và kéo xõa một vài nếp tóc ra. Muốn vò nhàu áo dài và quệt lọn ẹ lên mũi anh.
Trong khi cô ngắm anh đi len lỏi qua những người dân của anh để chào những người bạn cũ và dàn xếp ổn thỏa những trận tranh cãi vặt, lúc thì vỗ lên vai người này lúc thì mỉm một nụ cười khích lệ với người kia, cô uống cạn cốc rượu mật ong mà không hay. Cô đang bắt đầu hiểu tại sao anh lại tỏa ra một sự tự tin nguyên thủy như thế, ngay cả lúc đối mặt với trò gian trá của Brisbane. Trong vương quốc biệt lập của Lâu Đài Raven này, anh vừa là lãnh chúa vừa là luật pháp. Mặc dù phải cần đến cái chết không đúng lúc của cha anh mới đưa anh lên ngôi, nhưng anh ngự ở đó với sự chắc chắn của một người đã có sẵn đặc quyền từ khi mới ra đời. Cô thắc mắc mình có sở hữu được một nửa vẻ tự nhiên như thế không nếu cô bị ép phải đứng vào vị trí của cha cô trong Tập Đoàn Lennox.
Anh ngừng lại để hôn lên bàn tay nhăn nheo của một bà lão đỏ bừng mặt. Khi anh thẳng lưng lại, ánh mắt họ gặp nhau qua mái đầu rối của bà lão. Một cái lúm đồng tiền mờ nhạt chạm lên má anh. Cô cảm thấy ở nơi này anh là mối nguy đối với cô hơn cả, càng nguy hiểm hơn nếu anh quyết định biến câu tuyên bố của anh thành sự thật.
Những lời cô đã nói trở lại ám ảnh cô—Nếu không thì anh làm gì? Đem tôi về lâu đài của anh và cưỡng hiếp tôi chắc? Câu chế nhạo đó giờ nghe không hóm hỉnh như cái lúc cô đã nhận lầm anh là George Ruggles từ Bộ Phận Kế Toán. Hay cái lúc cô còn mặc đồ lót.
Colin đổi hướng đi về phía cô. Nếu anh còn chưa lấy bùa hộ mệnh thì cô đã ước mình vô hình rồi.
“Chào tiểu thư,” anh thì thầm, ngồi vào cái ghế dài phía đối diện.
“Anh Ravenshaw,” cô đáp lại cứng nhắc, không muốn cho anh được hài lòng khi nghe cô gọi anh là “ngài.”
“Cô có thích lễ hội này không?”
Cô không thể nói là tại sao nụ cười của anh lại đẩy cô vào thế phòng thủ. “Tôi không có trộm đồ bạc, nếu đó là điều anh đang hỏi. Nhất là khi chẳng có gì để ăn trộm.”
“Có phải đó là lí do cô ở trong tâm trạng cáu giận như thế không?”
“Tôi không…!” Câu phản đối phẫn nộ của cô ấp úng ngừng lại khi cô nhận ra thật sự cô đang giận dỗi. “Chà, anh cũng sẽ ở trong tậm trạng cáu giận nếu con mèo ngốn hết món gà gô của anh, anh ăn mất cái đĩa của mình, và anh phải mặc bộ váy ngớ ngẩn này.”
Ánh mắt anh rơi xuống vạt áo thêu hoa trong một lúc ngắn ngủi.
“Magwyn đã làm đám cưới trong bộ váy đó. Iselda nói với ta chị ấy đã mạo hiểm cả mạng sống để kéo nó ra từ đám lửa khi người của Brisbane đốt nhà chị ấy.”
Colin nói mà không có chút trách móc nào, nhưng Tabitha thấy sự hổ thẹn cuộn sâu bên trong cô. Cô có cả một tủ đầy những quần áo được thiết kế riêng tại nhà, nhưng chẳng có cái nào được may với sự chăm chút và được tặng với lòng hào phóng đến thế.
Trước khi cô có thể xin lỗi vì đã vô ơn, Arjon và người hâm mộ tóc vàng của anh ta đã loạng choạng đến tham gia cùng họ, sặc mùi rượu bia và nghẹn thở vì cười. Người phụ nữ kia đã cụp móng vuốt của cô ta lại sau khi đánh giá Tabitha chẳng phải là địch thủ đáng gờm tranh giành tình cảm của Arjon. Cô ta ngồi vào lòng Arjon và quấn một cánh tay đầy sở hữu quanh cổ anh ta để đùa nghịch với những lọn tóc sau gáy.
“Cậu đã duyệt binh chưa?” Arjon hỏi, phớt lờ một cái cốc và uống thẳng từ vại rượu mật ong.
Colin lơ đễnh gật đầu. “Có vẻ những cậu trai trẻ vùng Ravenshaw này đã tự tổ chức thành một lực lượng chiến đấu. Nếu tôi không trở lại, họ sẽ đề ra một kế hoạch để đi đến lâu đài của Brisbane và trả thù nhân danh thủ lĩnh của họ.”
Arjon nâng hũ rượu lên. “Uống vì những chàng trai! Tương lai của Ravenshaw!”
Khi một trong những cậu bé có mái tóc dài và đôi mắt dữ dội quăng mình qua một cái bàn để đè lên một cậu bé khác, Colin phát ra một âm thanh nửa như tiếng cười, nửa như rên rỉ. “Tôi thà trang bị cho những người phụ nữ với cây đinh ba và đá còn hơn là dẫn băng lưu manh đó lâm trận. Tôi không còn lựa chọn nào khác là phải đến khẩn khoản MacDuff yêu cầu tăng viện người và vũ khí.”
Hai người đàn ông trao đổi một ánh mắt nặng nề.
“MacDuff là ai thế?” Tabitha hỏi.
Trong khi Colin bận bịu rót cho mình một cốc rượu mật ong chứ không trả lời, Arjon nói, “MacDuff là vị thủ lĩnh đã chăm sóc và nuôi dưỡng Colin khi cậu ấy chỉ là một tiểu đồng quèn. Lãnh địa của ông ta tiếp giáp với vùng Ravenshaw ở phía Bắc.”
“Ông ta sẽ giúp anh chứ?” cô hỏi, hướng thẳng vào Colin.
“Phải,” anh nói ngắn gọn. “Ông ấy như người cha thứ hai của ta vậy.”
Anh không tỏ vẻ sẽ nói thêm và trước khi cô có thể giục anh, một nhóm người dự tiệc dẫn đầu là Magwyn bất ngờ đến tham dự cùng họ. Ngó lơ tiếng hắt hơi trách cứ của Arjon, Tabitha thả tõm Lucy vào lòng cô để cô mèo nhỏ khỏi bị giẫm đạp. Một vòng tròn những đứa trẻ tò mò nhanh chóng vây quanh cô.
“Con mèo con có cắn không ạ?” một cậu bé trông rất nghiêm chỉnh hỏi.
“Nếu cháu thật dịu dàng với nó thì nó không cắn đâu.”
“Nó ăn lũ chuột à?” một cô bé mặt tàn nhang hỏi, đôi mắt xanh lá sáng lên thích thú khi Tabitha để cho cô bé vuốt ve bộ lông mềm của con mèo.
“Cô không biết. Nó chưa bao giờ thấy một con chuột bằng xương bằng thịt bao giờ.”
Khi lũ trẻ tặc lưỡi và thủ thỉ với con mèo đang làm dáng, Tabitha nhận thấy một đứa trẻ khác đang lấp ló trong cảnh tranh sáng tranh tối của ngọn đuốc. Chính là cô bé ăn mặc rách rưới đã chui dưới cái bàn khi nãy. Đôi mắt to của cô bé trông không còn quá trống rỗng nữa khi ánh lên niềm mong mỏi.
Tabitha bế con mèo con trong hai bàn tay và đưa nó ra. “Cháu có muốn nựng nó không, bé cưng?”
Cô bé nhảy dựng lên vẻ như mắc tội, rồi phóng đi nơi khác, biến mất vào bóng tối như một hồn ma.
Khi Tabitha giao phó con mèo cho cậu bé và đám bạn đang phấn khích của cậu, Magwyn lắc đầu buồn bã. “Jenny của tôi đã không nói một lời nào kể từ khi người của Brisbane tấn công nó. Nó không chịu tắm và không để cho tôi chải tóc. Nó trở nên bất kham như một con thú hoang, luôn luôn bỏ chạy trước khi tôi có thể chạm vào nó.” Một nụ cười mỉm nuối tiếc chạm lên môi chị ta, mang lại cho gương mặt hốc hác đó một vẻ đẹp xương xương. “Cô nên thấy nó lúc trước đây—lúc nào cũng rộn ràng trò chuyện, xin tôi kết vài bông hoa lên mái tóc xinh xắn của nó hay may cho nó một cái váy mới.”
Tabitha ngây người nhìn vào bóng tối mà cô bé vừa mới biến mất. Cô bé không hơn tám hay chín tuổi là bao. “Làm sao chị có thể chịu được điều đó?”
Mẹ của Jenny nhún vai, cử chỉ đó trông mệt mỏi hơn là cay đắng. “Phụ nữ từ trước tới nay luôn là chiến lợi phẩm trong các trận chiến.”
“Nhưng Jenny không phải là một phụ nữ. Cô bé là một đứa trẻ.”
Magwyn đứng lên khỏi cái ghế dài, liếc Tabitha cái nhìn thương hại. “Nó không còn là đứa trẻ, không còn nữa.”
Cổ họng Tabitha nghẹn ngào vì cơn giận dữ bị khuấy lên bởi sự bất công khủng khiếp đã xảy đến cho cô bé. Cô chuyển ánh mắt mãnh liệt vào Colin, nhận ra rằng mặc cho dáng vẻ hờ hững của anh, anh đã lắng nghe toàn bộ câu chuyện.
“Có phải đó là điều anh tin không?” cô quát lên, nhẹ nhõm khi đã tìm thấy một mục tiêu cho sự phẫn nộ của mình. “Rằng phụ nữ chẳng là gì ngoài chiến lợi phẩm của chiến tranh? Anh chỉ vừa mới trở về sau sáu năm chinh chiến, chẳng phải sao? Có phải anh xem việc cưỡng hiếp vợ và con gái của kẻ thù như một trách nhiệm đáng tiếc nhưng vẫn sẵn sàng thực hiện không?”
“Không. Nhưng ta có một trách nhiệm đáng tiếc nhưng vẫn sẵn sàng thực hiện là hành quyết bất cứ kẻ nào dám làm điều đó.”
Sự căng thẳng dần biến mất trong cô. Lẽ ra cô phải biết trước Colin sẽ tự gánh lấy trách nhiệm của vị thần báo thù trong cuộc Thập Tự Chinh Thiêng Liêng. Trước khi cô có thể xin lỗi, anh đã quay mặt đi trong vẻ khước từ lạnh nhạt. Cô suýt chút nữa đã tin mình vừa lăng mạ anh.
Một tiếng reo hò rộ lên từ cái bàn đối diện. “Uồng vì Già Nana!”
“Già Nana!” những người khác hét to, nâng cốc của họ lên để tỏ lòng tôn kính.
“Nana,” Colin nhẹ nhàng lặp lại, cũng đưa cốc anh lên.
“Ai là Nana vậy?” Tabitha thì thầm với Arjon.
“Già Nana từng là vú nuôi của Colin và trước đó nữa là của cha cậu ấy.”
Cô gần như cười khúc khích thành tiếng khi nghĩ một chiến binh dũng mãnh như Colin lại có một “Nana”.
“Ngài cũng sẽ rất tự hào về bà, thủ lĩnh,” Iselda nói, chị là người phụ nữ đứng tuổi tròn trĩnh lúc đầu đã tưởng Colin là một hồn ma. “Nana đã chiến đấu như một nữ thần Valkyrie để bảo vệ con gái của mẹ kế ngài sau khi phu nhân kính mến của chúng ta bỏ mạng. Nana biết đứa trẻ đó có ý nghĩa với phu nhân như thế nào, nó đến với cuộc đời bà muộn màng sau nhiều năm cố gắng để sinh cho cha ngài một đứa con. Khi tình thế có vẻ như chúng ta sẽ thua cuộc chiến đó, Nana đã mang đứa trẻ lên nhà nguyện và chắn cửa nhốt những kẻ giết chóc người Anh đó bên ngoài.” Câu nói sốt sắng của chị trở thành tiếng thở dài. “Bà không thể nào biết được cuộc vây hãm sẽ diễn ra đến hơn nửa tháng sau đó. Chẳng có ai thấy bà hay đứa bé ra khỏi đó mà còn sống.”
“Ta tin mọi người đã tổ chức một lễ an táng đàng hoàng cho bà,” Colin nói.
Cuộc chè chén rơi vào sự im lặng không thoải mái, chỉ bị ngắt quãng bởi một tiếng thét của đứa trẻ đang nô đùa ở phía xa. Arjon nhướng một bên lông mày dò hỏi với người phụ nữ tóc vàng đa tình, nhưng cô ta lảng tránh bằng cách vùi mặt vào cổ anh ta.
“Iselda?” Colin giục. “Chị đã đặt thi thể em gái ta vào khu mộ của gia tộc rồi chứ?”
Khuôn mặt rộng của chị ta đỏ lên. Chị ta xoắn vặn cái váy của mình trong hai bàn tay đỏ ửng. “À, thưa thủ lĩnh, không hẳn…”
Magwyn vội đến giải vây cho chị ta. “Chúng tôi đã không trở lại. Khi Brisbane triệu lũ chó của hắn trở về, chúng tôi đã lôi ra hết lương thực dự trữ trong hầm rượu và tất cả những thứ có giá trị mà chúng tôi có thể mang ra từ nhà kho—những cái rương chứa đầy quần áo như những thứ ngài đang mặc, đĩa bạc, muối, gia vị–nhưng không ai trong chúng tôi đặt chân vào lâu đài kể từ lúc đó.”
Colin đứng lên. “Tại sao lại không? Những ngôi nhà tranh của mọi người không thể ở được. Mọi người sợ ta sẽ kết tội mọi người vì vào ẩn nấp trong lâu đài sao?”
“Không phải chúng tôi sợ ngài đâu.” Chị ta làm dấu thánh giá trên ngực khi ánh mắt chị ta ngước lên tòa thành đổ nát u sầu nổi lên trên nền trời đêm. “Là vì thứ lẩn khuất bên trong những bức tường đó.”
“Những linh hồn không ngủ yên, thưa thủ lĩnh,” Iselda bật thốt. “Ánh nến lập lòe trong đêm. Một đứa bé bị giết hại khóc đòi báo thù. Tất cả chúng tôi đều nghe thấy, thật đấy, mọi người đều nghe.”
Lời thú nhận của Iselda được chào đón bởi những lời thì thầm kinh hãi và những cái gật đầu ngượng ngập. Khi Tabitha nhìn theo ánh mắt đầy ám ảnh của Colin đến ngọn tháp trên đỉnh lâu đài, cô rùng mình ngoài ý muốn.
Cô nửa trông đợi người chiến binh can đảm chế nhạo sự hoảng hốt của họ, nhưng anh chỉ gật đầu trang nghiêm. “Dựng lều ngoài trời trong mùa hè cũng khá thoải mái, nhưng đến mùa đông sẽ không phù hợp. Ta sẽ cho mời một linh mục từ MacDuff đến té nước thánh quanh tòa tháp và cầu nguyện cho những linh hồn chưa siêu thoát.”
Những người phụ nữ gật đầu với nhau, trông hài lòng, nếu không muốn nói là hoàn toàn được an ủi bởi lời hứa của anh. Những tiếng thì thầm của họ bị ngắt ngang bởi một ông lão có râu quai nón đi nhanh đến và vụng về cúi chào Colin.
“Cậu chủ…” Ông gãi cái đầu hói của mình, như thể đột nhiên nhớ ra chủ nhân của ông đã thăng chức. “Ừm, thưa thủ lĩnh, nếu ngài và tiểu thư của ngài đã sẵn sàng đi nghỉ, thì lều của ngài đã được chuẩn bị xong.”
“Làm tốt lắm, Ewan. Tiểu thư?” Colin đưa bàn tay ra, đôi mắt anh lấp lánh với sự thách thức không thể nhầm lẫn được.
Tabitha tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô từ chối lời mời của anh. Nhưng rồi cô nhận thấy những cái nhìn bẽn lẽn liếc về phía họ. Arjon nháy mắt với cô trước khi tặng cho người bầu bạn đang bám riết lấy anh ta một nụ hôn ướt át. Đôi má Tabitha nóng lên, nhưng cô khám phá ra cô không thể chịu được nếu làm Colin lúng túng trước người dân của anh.
“Thưa thủ lĩnh,” cô thì thầm, cố ý trêu chọc âm r rung của anh khi cô đặt bàn tay đầy tin tưởng vào tay anh. “Tôi rất vinh hạnh.”
Tabitha đã luôn xem mình là một người to xương như một con bò đực, nhưng bàn tay rộng của Colin nuốt trọn bàn tay cô. Cô định sẽ rút tay lại ngay khi họ ở ngoài tầm nhìn của mọi người, nhưng lúc họ leo lên đồi dốc, anh đan những ngón tay họ vào nhau, biến cô thành tù nhân miễn cưỡng của anh.
“Cô có tin vào những hồn ma không?” anh hỏi cô khi bóng của tòa lâu đài đổ lên lối đi của họ.
Cô nhích đến gần anh hơn. “Không. Còn anh?”
“Ta đã từng tin. Nhưng ta e đó chỉ là mơ tưởng mà thôi. Mẹ kế của ta luôn nói người đã chết khiến ta đau đớn vì thiếu vắng họ, chứ chẳng phải sự hiện diện của họ.”
“Anh yêu bà, đúng không?”
Tình thương mến sưởi ấm giọng nói cộc cằn của anh. “Phải. Mẹ ruột ta chết khi còn rất trẻ. Blythe là người mẹ duy nhất mà ta biết.”
“Và cha anh thì sao?”
“Ông cũng yêu bà.”
Tabitha thắc mắc có phải Colin cố tình hiểu sai câu hỏi của cô, nhưng khi một tia sáng của ánh trăng rọi lên gương mặt khép kín của anh, cô không dám hỏi. Một luồng sáng vẫy gọi nổi lên trong bóng tối. Những bước đi của cô chậm dần.
Colin kéo cô bằng cái siết tay dịu dàng nhưng không suy suyển về phía khu lều hình tròn nằm ở mép rừng. Khi Tabitha cúi đầu bước vào lều, tâm trạng bứt rứt của cô mở bung thành sự e sợ.
Ewan đã nỗ lực hết mình để chăm lo cho thủ lĩnh của ông được thoải mái. Ánh đuốc sáng dịu tắm lên một tổ ấm với những cái gối nhiều màu sắc và một cái bàn nhỏ trên đó đặt một cái bình nước và hai cái cốc bạc. Nhờ có câu khoác lác kia của Colin, người của anh hẳn đã cho rằng họ sẽ cùng chia sẻ cái giường hẹp với những tấm chăn này. Hương trầm của gỗ đàn hương tỏa ra từ một cái đèn nhỏ có đế bằng đồng, khiến Tabitha lo lắng tự hỏi không biết Colin đã tiêm nhiễm thị hiếu mới lạ gì từ Vùng Đất Thánh.
Anh trông thoải mái không chịu được trong không gian hẹp đầy gợi cảm tội lỗi này. Sau khi đã khép cửa lều lại, anh rót cho mình một cốc đầy thứ gì đó màu đỏ tía và ngả người trên những cái gối như một ông vua bảnh chọe. Tabitha đứng cứng ngắc bên cái bàn, cắn môi để không thốt lên điều ước có một dây đai trinh bạch bằng thép. Mà không có chìa khóa.
“Điều gì làm phiền cô à, cô gái? Lucy lấy mất lưỡi cô rồi sao?” Khi câu moi móc đó chẳng thể khiêu khích cô trả lời, anh thở dài. “Cô vẫn còn dỗi vì ta đã lấy đi cái vật trang sức rẻ tiền quý báu của cô sao?” Đặt cái cốc sang một bên, anh đặt hai cánh tay ra sau đầu như một người mẫu playgirl đang tạo dáng cho trang bìa và nhướng một lông mày lên. “Cô chưa bao giờ nghĩ sẽ có một cách để cô có thể lấy lại nó sao?”
Tabitha thở gấp. Anh thật sự đang cố gạ gẫm cô quan hệ.
Không thể chịu được nụ cười toe toét tinh nghịch của anh, cô xoay lưng lại và nắm chặt mép bàn.
“Ngài đang đưa ra một thỏa thuận quá quắt đấy, thưa ngài,” cô nói, giọng cô nhuốm đầy sự chua chát.
“Là lỗi của cô vì đã cám dỗ ta đấy, tiểu thư. Thứ cô đã ban cho ta trong cái hang đó hẳn chỉ là một thử nghiệm cho những tài nghệ của cô.”
Tabitha quay phắt lại đối mặt với anh. Cô không biết thứ nào khiến cô thấy bị xúc phạm hơn—vì anh đổ lỗi cho cô vì đã cám dỗ ham muốn bản năng của anh như đàn ông đã đổi lỗi cho những phụ nữ ngây thơ trong suốt nhiều thế kỷ qua hay vì anh đã làm hỏng kỷ niệm đẹp của cô về nụ hôn âu yếm mà họ đã chia sẻ.
Cô bấu móng vào lòng bàn tay. “Tôi ghét phải làm ngài thất vọng, nhưng ‘tài nghệ’ của tôi không vượt quá những gì ngài đã ‘thử nghiệm’.”
Anh uống một hớp rượu. “Ồ, thôi nào. Cô nhất định đã học được điều gì đó trong khi cô đi cùng đoàn kịch câm chứ. Một mánh khóe khác như cái cô đã chỉ cho ta thấy hay một bài hát cũng được?” Vẻ mặt anh gần giống vẻ mặt của một cậu bé tràn trề hy vọng.
“Một bài hát?”
“Ừ. Một bài hát biểu diễn hay một khúc ballad về tình yêu phong nhã.” (*courtly love*)
“Courtney Love á?” cô lặp lại, thậm chí còn ngơ ngác hơn khi anh đề cập đến ca sĩ hát nhạc rock alternative tai tiếng đã thống trị những trang báo của tờ Global Inquirer vào cuối thế kỷ hai mươi.
“Tình yêu phong nhã. Câu chuyện tình buồn về một chàng kị sĩ cao quý mong mỏi tình yêu không được đền đáp từ cô tiểu thư của chàng ta.”
Tabitha ngồi thụp xuống mép giường. Colin không muốn cô. Anh muốn một bài hát ru. Anh đã bị ấn tượng bởi màn trình diễn phép thuật kém cỏi của cô hơn là nụ hôn của cô. Chà, thật nhẹ nhõm…không phải sao?
Cô ngâm nga một vài nốt dạo đầu của bài hát hiện ra từ trí nhớ.
Colin ngồi thẳng dậy. Sự háo hức của anh thể hiện một cuộc sống thiếu thốn đĩa video và đĩa audio, một thời đại mà ngay cả những cuốn sách còn là một sự xa hoa hiếm hoi và đắt giá. “Đó là điệu nhạc nào thế? Ta chưa từng nghe thấy nó trước đây.”
Cô ngâm nga một nhịp nữa. “Bản ‘Camelot’,” cô nói, gần như giật mình vì nhận thức đó cũng như anh.
Mặc dù Tabitha luôn ghét thứ nhạc kịch sướt mướt, mẹ cô lúc nào cũng bắt cô phải ngồi suốt cả buổi diễn dài như vô tận. Ngược với ý muốn của mình, tâm trí ngăn nắp của cô đã ghi nhớ toàn bộ cả phần nhạc, đễn mỗi câu từ đầy cảm xúc. Với tất cả những cuộc trò chuyện này về những kị sĩ và lâu đài và những cuộc chinh chiến thiêng liêng thì cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi bản nhạc lôi cuốn của Lerner và Loewe là thứ đầu tiên hiện ra trong óc cô.
“Hát thêm nữa đi,” Colin ra lệnh, nằm lại trên những cái gối và vẫy một bàn tay về phía cô.
Thấy vui vì sự cao hứng của anh, Tabitha làm theo, giọng nữ cao của cô uyển chuyển dễ nghe, nếu không muốn nói là rất hay. Mỗi lần cô ngừng lại, Colin lại ra lệnh hoặc phỉnh cô để cô tiếp tục, anh chỉ đủ mủi lòng để ấn một cái cốc vào tay cô để cô có thể dùng rượu vang thấm giọng.
Cô thầm hãnh diện vì sự ân cần của anh. Dù anh từng bị lột sạch áo giáp tại lâu đài của Brisbane, cô vẫn không thể tống khứ cái cảm giác đây mới là lần đầu tiên cô thật sự nhìn thấy người kị sĩ không mặc áo giáp.
Anh gật đầu một cách khôn ngoan với những lời tuyên bố huênh hoang trong bài ‘Chính Ta’ và cười nhẹ với trò chơi chữ tinh nghịch trong bài ‘Tháng Năm Đầy Sức Sống’. Vẻ mặt anh trở nên trầm ngâm kỳ lạ trong suốt khúc nhạc sâu lắng ‘Nếu Em Có Bao Giờ Xa Anh’ và anh căng thẳng khi Guenevere đối mặt với cái chết trên cọc thiêu vì bị trừng phạt cho tội ngoại tình.
Vào lúc Tabitha hát đoạn điệp khúc cuối cùng, giọng cô đã khản đi vì bị kéo căng quá nhiều. Nốt nhạc rung động cuối cùng dường như lơ lửng trong không trung rất lâu sau khi nó chấm dứt. Cô liếc sang và thấy Colin nằm xoãi ra trên những cái gối, hàng lông mi sẫm của anh xếp lại trên hai gò má, hơi thở anh nhẹ và đều. Lucy đã chui vào lều trong khi Tabitha hát và cuộn tròn bên người anh. Một bàn tay anh ôm ấp che chở quanh con mèo con.
“Lúc nào cũng là người bảo vệ các tiểu thư,” Tabitha thì thầm, mất phương hướng vì một cảm xúc âu yếm chảy tràn trong cô.
Cô quỳ bên người anh, định sẽ quẳng một trong những tấm chăn lên người anh. Nhưng thay vào đó bàn tay cô lại hướng về gương mặt anh, giải thoát một vài lọn xoăn ngỗ ngược khỏi cái đuôi sam của nó. Anh không hề cựa quậy khi cô chạm vào.
Nghe lại truyền thuyết cổ đó qua cảm nhận của Colin cứ như nghe thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù cô thương cảm cho Lancelot và Guenevere, bị giằng xé giữa lòng tận tụy đối với vua của họ và niềm đam mê họ dành cho nhau, nhưng chính Arthur mới là người làm lay động tim cô. Arthur với sự trong sáng vĩnh cửu, sự tận tâm không suy suyển khi theo đuổi một giấc mơ không thể thành hiện thực, khả năng hiếm có biết trân trọng những thời khắc ngắn ngủi, dù biết nó chẳng thể tồn tại mãi mãi.
Khi cô luồn những ngón tay vào mái tóc đen mượt màu đêm của Colin, cô không thể không tự hỏi anh đã đánh mất sự trong sáng của mình như thế nào và những giấc mơ nào anh đã bị buộc phải hy sinh cùng với điều đó.
Tiếng khóc cằn nhằn của một đứa bé khiến bàn tay Tabitha đóng băng. Gai ốc nổi lên khắp cánh tay cô. Nín thở, cô nghiêng đầu về phía tòa lâu đài. Nhưng tiếng thét kỳ dị đó đã bị ỉm đi cũng đột ngột như khi nó vang lên. Nó không lặp lại lần nữa.
Sau nhiều phút nhìn chằm chằm vào cái giường hẹp và chờ trong vô vọng cho trái tim cô dịu lại thành nhịp đập thường lệ của nó, Tabitha kéo lê những tấm chăn xuống sàn và cuộn mình bên cạnh Colin, Lucy nép mình giữa họ.