“ ‘Các bạn chắc chắn là ngôi mộ trống trơn chứ?’ Turgut đã hỏi câu đó một lần rồi nhưng có vẻ như không thể không hỏi lại một lần nữa.
“ ‘Hoàn toàn chắc chắn.’ Cha liếc nhìn Helen. ‘Điều chúng tôi không thể khẳng định là liệu tiếng động mà chúng tôi nghe được có phải là âm thanh do Dracula gây ra khi thoát đi bằng một cách nào đó, khi chúng tôi vào. Lúc đó chắc hẳn trời bên ngoài đã tối, và hắn đã dễ dàng chuồn đi.’
“ ‘Và dĩ nhiên, có thể hắn đã thay hình đổi dạng, nếu truyền thuyết nói đúng.’ Turgut thở dài. ‘Hắn đúng là thứ ranh ma! Các bạn đã gần bắt được hắn, các bạn ạ, gần hơn so với bất kỳ Đội vệ binh Trăng Lưỡi Liềm nào trong năm thế kỷ qua. Tôi rất mừng vì các bạn không hề hấn gì nhưng cũng vô cùng tiếc là các bạn đã không thể tiêu diệt được hắn.’
“ ‘Ông nghĩ là hắn đi đâu chứ?’ Helen chồm tới, đôi mắt nhung huyền long lên.
“Turgut đưa tay xoa cái cằm bạnh của mình. ‘Chà, chuyện đó thì tôi không thể đoán nổi. Hắn có thể đi rất nhanh và rất xa, nhưng không biết hắn sẽ đi xa đến chừng nào. Đến một địa điểm cũ xưa khác, tôi chắc chắn như vậy, một địa điểm được che giấu và không bị quấy rầy nhiều thế kỷ qua. Chắc hẳn việc phải rời bỏ Sveti Georgi là một đòn đau đối với hắn, nhưng hẳn hắn sẽ hiểu nơi chốn đó từ nay sẽ được canh giữ và còn lâu mới trở lại đó được. Tôi sẵn sàng làm bất cứ gì để biết liệu hắn còn ở đâu đó trong Bungari hay đã cao bay xa chạy khỏi đất nước đó rồi. Biên giới và thể chế chính trị chả có ý nghĩa gì nhiều đối với hắn đâu, tôi chắc chắn như vậy.’ Đôi hàng lông mày cau lại đầy vẻ suy tư trên gương mặt nhân hậu của Turgut.
“ ‘Ông không nghĩ hắn sẽ theo dõi chúng tôi sao?’ Helen hỏi, vẻ thẳng thắn, nhưng có gì đó trong tư thế của đôi vai khiến cha nghĩ mẹ phải cố gắng lắm mới nêu ra được câu hỏi đơn giản đó.
“Turgut lắc đầu. ‘Tôi mong là không, nữ giáo sư ạ. Tôi cho là hiện nay hắn đang khá e ngại hai bạn, bởi trong khi không ai có thể tìm ra hắn thì các bạn lại có thể.’
“Helen im lặng, cha chẳng thích vẻ nghi ngờ trên mặt mẹ chút nào. Selim Aksoy và bà Bora nhìn mẹ với vẻ dịu dàng đặc biệt, cha nghĩ; có lẽ họ đang băn khoăn tự hỏi làm sao cha có thể cho phép mẹ đi vào những nơi chốn nguy hiểm như vậy, cho dù chúng ta đã xoay xở để trở về mà không sứt mẻ gì.
“Turgut quay sang cha. ‘Tôi cũng rất tiếc về ông bạn Rossi của anh. Tôi đã rất mong muốn được gặp ông ấy.’
“ ‘Tôi cũng nghĩ là ông và ông ấy sẽ hợp với nhau lắm,’ cha nói một cách thành thực, nắm lấy tay Helen. Đôi mắt mẹ lại rưng rưng khi nghe nhắc đến cái tên Rossi, Helen ngoảnh mặt đi, tựa như để che giấu nỗi niềm riêng tư của mình.
“ ‘Ước gì tôi có thể gặp giáo sư Rossi.’ Turgut thở dài, đặt tách trà xuống cái bàn bằng đồng trước mặt chúng ta.
“ ‘Như thế hẳn sẽ tuyệt lắm,’ cha thốt lên, mỉm cười tưởng tượng ra hình ảnh hai học giả đang đối chiếu những ghi chép với nhau. ‘Ông và giáo sư Stoichev có thể giảng giải cho nhau nghe về đế chế Ottoman và vùng Balkan thời Trung cổ. Có lẽ, một ngày nào đó các ông sẽ gặp nhau.’
“Turgut lắc đầu. ‘Tôi không nghĩ vậy,’ ông ta nói. ‘Những rào cản ngăn cách giữa chúng tôi quá cao – rất nhạy cảm – như những cách biệt giữa bất kỳ một sa hoàng và một quan tổng trấn Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo nào. Nhưng nếu anh lại có dịp chuyện trò hoặc viết thư cho ông ấy, nhớ cho tôi gửi lời hỏi thăm.’
“Đó quả là một lời hứa dễ thực hiện.
“Selim Aksoy muốn Turgut hỏi chúng ta một câu. Turgut lắng nghe anh ta, vẻ mặt nghiêm trọng. Ông dịch lại cho Helen và cha, ‘Chúng tôi băn khoăn không biết giữa lúc vô cùng nguy hiểm và lộn xộn đó, các bạn có thấy cuốn sách mà giáo sư Rossi mô tả không – cuốn sách viết về cuộc đời của Thánh George ấy? Liệu người Bungari đã mang cuốn sách đó về trường Đại học Sofia chưa?’
“Khi thực sự vui vẻ, tiếng cười của Helen có thể trở nên dễ thương đến đáng ngạc nhiên, và cha phải cố kìm lại để không ôm hôn mẹ say đắm trước mặt mọi người. Helen hầu như không cười từ lúc chúng ta để thầy Rossi lại trong hầm mộ kia. ‘Nó đang trong cặp của tôi,’ cha trả lời. ‘Lúc này là vậy.’
“Turgut nhìn trừng trừng, sửng sốt, phải mất một lát mới nhớ lại nhiệm vụ thông dịch của mình. ‘Làm sao các bạn mang được nó về nhà, ra khỏi chỗ đó?’
“Helen vẫn im lặng, chỉ mỉm cười, vì vậy cha phải giải thích. ‘Tôi chẳng hề nghĩ đến nó cho đến khi trở về khách sạn ở Sofia.’ Không, cha không thể kể với bọn họ toàn bộ sự thật, vì vậy cha đã bịa với họ một câu chuyện cho phải phép.
“Toàn bộ sự thật là khi cuối cùng chỉ còn lại mình cha và mẹ trong căn phòng của mẹ ở khách sạn, cha đã ôm mẹ vào lòng, hôn lên mái tóc đen tuyền, kéo mẹ tựa vào vai, ôm mẹ sát vào người như một phần cơ thể mình mặc cho lớp quần áo đầy bụi đường sau chuyến du hành – nửa phần thân thể thất lạc của Plato(1)_, cha thầm nghĩ – và rồi cha cảm nhận không chỉ nỗi khuây khỏa vì chúng ta đã sống sót để được trong vòng tay nhau ở đấy, vì vẻ đẹp của những chiếc xương dài của mẹ, vì hơi thở nồng ấm của mẹ trên cổ cha mà còn vì một cái gì đó sai lạc không thể giải thích được trong cơ thể mẹ, một cái gì đó cứng cộm lên cứng ngắc. Cha lui người lại để nhìn Helen, sợ hãi, và thấy nụ cười đầy vẻ giễu cợt. Mẹ đưa ngón tay lên môi. Đó chỉ là một dấu hiệu nhắc nhở, cả hai chúng ta đều biết căn phòng có thể đã bị đặt máy nghe trộm.
“Một lúc sau, mẹ cầm tay cha đặt trên hàng cúc chiếc áo sơ mi giờ đã dơ dáy và tả tơi vì cuộc thám hiểm vừa qua. Cha không kịp suy nghĩ, chỉ cởi cúc và kéo chiếc áo ra. Đồ lót của phụ nữ thời đó rất phức tạp với đủ loại dây nhợ, móc và các bộ phận kỳ dị – một thứ áo giáp mặc phía bên trong. Gói trong một chiếc khăn tay, sát với da thịt Helen và hãy còn ấm hơi người là một cuốn sách – không phải là cuốn khổ lớn đẹp đẽ như cha tưởng tượng khi thầy Rossi tiết lộ với chúng ta về sự hiện hữu của nó, mà là một cuốn nhỏ bằng cỡ bàn tay cha. Bìa sách làm bằng gỗ sơn và da, bên ngoài có các hoa văn tinh tế bằng vàng, nạm trên lớp vàng đó là ngọc lục bảo, hồng ngọc, ngọc bích, ngọc trai – một vòm trời nho nhỏ những loại đá quý, tất cả để tôn vinh một khuôn mặt vị thánh ở trung tâm. Nét mặt Byzantine thanh nhã của ông trông như mới được vẽ một vài ngày chứ không phải là đã hàng thế kỷ, và đôi mắt to, buồn bã, khoan dung dường như đang dõi theo ánh mắt cha. Đôi hàng lông mày nhướng lên thành hai vòng cung thanh mảnh trên đôi mắt, cánh mũi dài thẳng, miệng mím lại nghiêm nghị u sầu. Bức chân dung có một vẻ tròn trịa, đầy đủ và giống như thật mà cha chưa bao giờ nhìn thấy ở các bức tranh Byzantine – một gương mặt của tổ tiên người La Mã. Nếu chẳng phải vì cha đã yêu rồi, hẳn cha đã nói đó là một gương mặt đẹp nhất mà cha được nhìn thấy, đầy chất người nhưng cũng rất thần thánh, hoặc vừa thần thánh vừa rất con người. Chạy suốt trên cổ áo khoác là những con chữ tinh tế. ‘Chữ Hy Lạp,’ Helen lên tiếng. Giọng mẹ nghe chưa bằng một tiếng thì thầm, lửng lơ bên tai cha. ‘Thánh George.’
“Bên trong là những trang giấy da còn trong tình trạng hoàn hảo đến độ đáng ngạc nhiên, đầy những dòng chữ viết tay đẹp đẽ, cũng bằng tiếng Hy Lạp. Thỉnh thoảng là những trang hình minh họa cực kỳ tinh tế: Thánh George đâm mũi giáo vào bụng một con rồng đang quằn quại dưới sự chứng kiến của một đám đông các nhà quý tộc; Thánh George đang nhận một vương miện mạ vàng từ tay Chúa Jesus, người đang cúi xuống từ cái ngai vàng lộng lẫy của mình; Thánh George nằm chết trên giường, những thiên thần có đôi cánh màu đỏ đang nhỏ lệ khóc than. Mỗi tấm hình đầy những chi tiết tỉ mỉ, có thể làm người xem sững sờ. Helen gật đầu, cha ghé sát tai vào miệng mẹ, thậm chí nghe được hơi thở của mẹ. ‘Em không phải là chuyên gia lĩnh vực này,’ Helen thì thầm, ‘nhưng em nghĩ có thể cuốn sách này được làm riêng cho hoàng đế Constantinople – chính xác đây là cái người ta gìn giữ lại cho hậu thế. Đây là dấu triện của các vị hoàng đế đời sau.’ Chắc chắn là vậy, mặt trong bìa sách có hình vẽ một con chim đại bàng hai đầu, một đầu nhìn về quá khứ huy hoàng của thành phố thủ đô của đế quốc, một đầu hướng về tương lai vô hạn phía trước; đôi mắt đó đã không đủ sắc bén để thấy được việc đế quốc bị kẻ vô đạo mới nổi lật đổ sau này.
“ ‘Nghĩa là cuốn sách này có niên đại tối thiểu là nửa đầu thế kỷ mười lăm, trước cuộc chinh phục,’ cha thở ra.
“ ‘Ồ, em nghĩ nó phải xưa hơn chứ,’ Helen tiếp tục thì thào, nhẹ nhàng sờ lên dấu triện. ‘Cha em – cha em nói nó rất cổ. Và anh có thể thấy cái phù hiệu ở chỗ này, đây là dấu hiệu của hoàng đế Constantine VII. Ông ta trị vì trong’ – Helen lục tìm một hồ sơ bên trong – ‘khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ thứ mười. Ông ta lên ngôi trước khi Bachkovski manastir – tu viện Bachkovo được xây dựng. Hình chim đại bàng ắt hẳn được bổ sung thêm vào sau này.’
“Cha cũng thì thào, hầu như không thành tiếng. ‘Ý em muốn nói cuốn sách này đã có hơn một ngàn năm?’ Thận trọng cầm cuốn sách bằng cả hai tay, cha ngồi xuống mép giường, sát bên Helen. Không ai trong chúng ta gây ra một tiếng động nào, chúng ta hầu như chỉ trao đổi với nhau bằng mắt. ‘Tình trạng cuốn sách gần như là hoàn hảo. Và em định lén tuồn một kho báu như thế này ra khỏi Bungari sao, Helen?’ cha nói, kèm theo một cái liếc mắt, ‘em mất trí rồi. Còn cái thực tế là nó thuộc về nhân dân Bungari thì sao?’
“Helen hôn cha rồi lấy cuốn sách khỏi tay cha và lật qua trang bìa trước. ‘Nó là quà tặng của cha em,’ mẹ thì thầm. Mặt trong của trang bìa trước có một túi da có nắp, Helen thận trọng luồn tay vào bên trong. ‘Em đã chờ cho đến lúc chúng ta có thể cùng mở ra xem cái này.’ Mẹ lôi ra một tập giấy mỏng đầy những dòng chữ đánh máy sít rịt bên nhau. Rồi chúng ta cùng đọc, trong yên lặng, những dòng nhật ký đau đớn của thầy Rossi. Lúc đọc xong, không ai thốt lên được lời nào, dù cả hai bố mẹ đều giàn giụa nước mắt. Sau cùng, mẹ lại gói cuốn sách trong chiếc khăn tay và thận trọng giấu nó trở lại vào chỗ cũ trong người.
“Turgut mỉm cười khi cha kể xong phiên bản ít chi tiết hơn của câu chuyện này. ‘Nhưng có một điều khác quan trọng hơn mà tôi phải nói với ông,’ cha nói. Cha mô tả cái hình phạt ngục tù kinh khủng của thầy Rossi trong thư viện. Bọn họ lắng nghe với gương mặt bất động, vẻ nghiêm trọng, và khi cha kể đến chi tiết Dracula biết sự tồn tại tiếp nối của một đội vệ binh được Quốc vương Mehmed thành lập để truy sát hắn, Turgut hít một hơi thật sâu. ‘Tôi xin lỗi,’ cha kết thúc.
“Turgut dịch ngay cho Selim, anh chàng này cúi đầu và khẽ nói gì đó. Turgut gật đầu. ‘Anh đã nói lên điều tôi cảm thấy rõ nhất. Tin kinh khủng này chỉ có nghĩa là chúng tôi sẽ phải nỗ lực hơn trong việc truy đuổi Kẻ Xiên Người, cũng như không để hắn ảnh hưởng đến thành phố chúng tôi. Nếu còn sống thì hẳn Người Chinh phục cũng sẽ lãnh đạo chúng tôi đi chính con đường này. Đó là sự thật. Thế khi trở về quê hương, các bạn sẽ làm gì với cuốn sách?’
“ ‘Tôi quen một vài người có quan hệ với một hãng đấu giá,’ cha trả lời. ‘Lẽ tất nhiên là chúng tôi sẽ rất thận trọng, và sẽ chờ đợi một thời gian trước khi thực hiện bất kỳ việc gì. Tôi cho là, trước sau gì cũng sẽ có một viện bảo tàng mua nó.’
“ ‘Còn tiền thì sao?’ Turgut lắc đầu. ‘Các bạn sẽ làm gì với quá nhiều tiền như vậy?’
“ ‘Chúng tôi đang suy nghĩ,’ cha trả lời. ‘Một việc gì đó có ích. Chúng tôi cũng chưa xác định đó là việc gì.’
“Chuyến bay của chúng ta trở về New York khởi hành lúc năm giờ, Turgut bắt đầu nhìn đồng hồ ngay khi chúng ta kết thúc bữa ăn trưa thịnh soạn cuối cùng trên bộ trường kỷ. Đáng buồn là ông ta có một lớp dạy buổi chiều, nhưng Aksoy sẽ tiễn chúng ta ra phi trường, bằng xe taxi. Khi chúng ta đứng dậy để chuẩn bị đi, bà Bora mang ra và quấn vào cổ Helen một khăn quàng lụa thượng hạng màu kem xinh xắn, thêu chỉ bạc. Chiếc khăn che đi phần nào cái cổ áo bẩn và vẻ tuềnh toàng chiếc áo khoác của cô, khiến tất cả chúng ta – ít nhất là cha, nhưng không thể chỉ một mình cha được – đều há hốc miệng vì kinh ngạc. Gương mặt của Helen trên chiếc khăn quàng là hình ảnh của một nữ hoàng. ‘Dành cho ngày cưới của các bạn,’ bà Bora nói rồi nhón chân lên hôn từ biệt Helen.
“Turgut hôn lên tay Helen. ‘Của mẹ tôi đấy,’ ông chỉ nói ngắn gọn, Helen không thốt nên lời. Cha phải lên tiếng đáp lại, thay cho cả hai chúng ta, rồi bắt tay họ. Chúng ta sẽ thư cho họ, sẽ nhớ đến họ. Cuộc đời còn dài, rồi chúng ta sẽ lại gặp nhau.”
Chú thích:
1. Thần thoại Hy Lạp: Plato đánh mất một nửa con người mình và suốt dời lang thang đi tìm một nửa bị đánh mất đó.