Trong thiền phòng, phương trượng với Ngộ Duyên đang nói chuyện với nhau, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng chân người đi, hơi thở hừng hực tiếp theo đó lại có vật gì rớt xuống đất kêu đánh bộp một tiếng, rồi có tiếng nói run run kêu la cầu cứu:
– Đại sư.
Rồi phương trượng với Ngộ Duyên ngạc nhiên vô cùng, vội chạy ra ngoài phòng thì thấy có một người đang nằm lăn trước hàng hiên.
Ngộ Duyên chạy lại đỡ người đó dậy, định thần nhìn kỹ, kinh ngạc hỏi:
– Y chả là Mục thí chủ là gì, sao đến giờ còn chưa ra khỏi núi La Phù như vậy? Người phương trượng cau mày lại đáp:
– Ngộ Duyên, con hãy đỡ Mục thí chủ vào trong vân phòng trước, hiện giờ y đang kinh hoảng quá độ, chờ y trấn tĩnh đã rồi hỏi cũng chưa muộn.
Ngộ Duyên liền đỡ chàng vào trong phòng và dìu chàng ngồi xuống, thấy mặt chàng nhợt nhạt môi thâm mắt lờ đờ trống ngực đập rất mạnh, mồ hôi lạnh toát ra như mưa nên y vội rót ngay một chén nước nóng cho chàng ta uống.
Quý vị có biết tại sao Lạc Dương lại giả bộ một cách khéo léo đến như thế không? Thì ra Thôi Tiễn vì phòng chàng lộ cơ mưu gian của mình nên đặc biệt cho chàng uống một viên thuốc cường lực sa trứng.
Thuốc viên này dùng để cứu chữa những người bị ban sa và trứng khử mồ hôi không sao toát ra được, uống viên thuốc này là khỏi liền.
Sức của viên thuốc này mạnh vô cùng, nếu không bị bệnh nặng thì không thể uống được.
Hễ uống phải là môi thâm da xám, mồ hôi lạnh toát ra như mưa, trống ngực đập mạnh tai ù người co quắp, nhưng không đến nỗi chết.
Thôi Tiễn sợ Lạc Dương làm giả kinh hoảng không giống nên mới nghĩ ra kế cho chàng uống viên thuốc này.
Lạc Dương chưa bước vào đến cửa chùa, đã thấy hai chân mềm nhũn không sao cầm cự nổi, chỉ đi loạng choạng được vài bước đã ngã lăn ra.
Cử chỉ của chàng trông giống như thực mới tránh khỏi đôi mắt lão luyện và gian giảo của vị phương trượng này.
Lạc Dương uống xong chén nước nóng, thấy mặt không còn nhợt nhạt như trước.
Chàng đưa mắt nhìn phương trượng với Ngộ Duyên một cái rồi đưa tay lên xoa ngực, phương trượng mỉm cười hỏi:
– Có phải Mục thí chủ bị rắn rết hay sài lang ở trong động cắn phải không? Lạc Dương lắc đầu rồi đáp:
– Vì tại hạ mãi ngắm phong cảnh của La Phù, rồi đi lạc lối lúc nào không hay.
Mãi mới tìm đường xuống núi được, nhưng lúc ấy trời đã tối, chỉ mong làm thế nào về được Tăng Thành ngay nên đi qua quý chùa không vào cáo từ đã vội xuống núi.
Trong lúc tối om lỡ chân vướng phải một vật nên bị té ngã, lúc ấy mới phát giác đó là hai cái xác chết dính đầy máu và có một vật gì quái lạ bay thẳng lên trời.
Tại hạ hoảng sợ đến mất hết hồn vía nên mới phải quay lại Bảo Sát như vậy.
Phương trượng với Ngộ Duyên nghe nói vội nhìn nhau rồi nghiêm nghị nói:
– Ngộ Duyên, tính mạng của người ta rất quan trọng.
Không ngờ trên núi La Phù này, lại xảy ra những chuyện giết người cướp của như thế.
Con mau đi xem xét thử, nếu cần, lập tức thông báo cho quan địa phương hay.
Đó là lão hòa thượng muốn che mắt Lạc Dương, nhưng ngờ đâu Lạc Dương đã biết rõ hết.
Ngộ Duyên vội vàng đi ra ngoài.
Phương trượng bỗng mỉm cười nói tiếp:
– Mục thí chủ hãy nằm trên giường của lão tăng nghỉ ngơi, đợi chờ tinh thần hồi phục hãy nói chuyện sau.
Lạc Dương không từ chối, liền uể oải leo lên trên giường.
Phương trượng an ủi chàng mấy câu rồi liền cáo từ đi ra bên ngoài.
Hãy nói Ngộ Duyên đi ra khỏi phòng, liền thẳng tới đồi chè, và đến trước một căn nhà khá lịch sự.
Ngộ Duyên vén mành lên đã thấy bên trong có ánh sáng đèn và bóng người, vội bước vào ngay.
Giây lát sau, trong kinh xá đó, bỗng có mười mấy cái bóng người nhanh như chớp chạy ra, vượt qua cạnh tường của chùa, tiến thẳng lên con đường nhỏ rồi chạy tới chỗ có hai cái xác chết.
Quả nhiên chúng thấy có hai cái xác nằm ở đó thực.
Bảy tám người trong bọn liền chạy đến gần thì đột nhiên từ bên dưới cái xác có một con chim nhỏ lao vút lên trên không.
Một người trong bọn nhanh mắt, thấy thế vội ném luôn ba mũi ám khí.
Bỗng thấy có một luồng gió lạ đánh phủ vào mặt và ba mũi ám khí đó đều bắn trở lại.
Y vội ngồi thụp xuống khiến ba mũi ám khí có ánh sáng xanh đó đều cắm cả vào trong búi tóc.
Nếu y không tránh né nhanh nhẹn thì đôi mắt đã mù ngay rồi, khiến y hoảng sợ đến toát mồ hôi lạnh.
Y ngẩng đầu lên nhìn, con chim ưng lúc nãy đã bay đi mất.
Một người khác châm bó đuốc lên và dưới ánh lửa, mọi người đều thất thanh kêu la vì thấy hai xác chết đã bị móc hết mắt, mình mẩy đầm đìa máu me trông rất kinh khủng.
Lúc này, một người trầm giọng hỏi:
– Trong võ lâm này có ai là người nuôi chim ưng như thế? Một người khác ho một tiếng đáp:
– Chúng ta không nên thảo luận vào lúc này, hãy mau mau chôn họ trước rồi về chùa tính toán sau.
Bọn người nọ liền đem chôn hai cái xác vào một chỗ không người lui tới rồi quay trở về chùa Hoa Thủ.
Khi vào đến trong kinh xá, đã thấy một đại hán áo đen đang ngồi trong phòng.
Ai nấy đều kinh hoảng vô cùng.
Đại hán áo đen đó vội đứng dậy, tay cầm chuỗi hạt châu trầm hương và nói:
– Tại hạ thừa lệnh Hoành Nhất đại sư tới đây phiền quý vị chia làm ba nhóm, canh tư đêm nay đi giết con cái của Hạ Hầu Hàm, để trừ diệt hậu hoạn.
Làm xong công việc mau rút lui tới trấn Hải Lâu ở núi Việt Tú.
Nơi giam giữ con cái của Hạ Hầu Hàm thì hỏi Ngộ Duyên đại sư là biết liền.
Hoành Nhất đại sư còn nói, sợ các vị hoài nghi tại hạ, nên mới trao cho tại hạ chuỗi hạt châu này để làm tín vật.
Nói xong, y chỉ chắp tay vái chào và nói tiếp:
– Tại hạ phải đi trả lời cho đại sư hay ngay, không dám trì hoãn.
Chúng ta sẽ tái kiến.
Nói xong, chỉ thấy y nhún vai một cái, người đã nhảy ra ngoài phòng, phi thân trên không đi mất.
Chưa đầy canh tư, bốn cái bóng đen ở trong kinh xá đã lần lượt nhảy qua bờ tường của chùa và thoáng cái đã mất dạng.
Chỉ có một mình Ngộ Duyên đi sau, cúi đầu nhắm mắt, lẳng lặng suy nghĩ về cái chết của hai người.
Y cảm thấy có nhiều điều không hiểu và trong lòng tựa như có triệu chứng không hên, chỉ sợ chùa Hoa Thủ đẩy đưa vào.
Chùa Hoa Thủ xưa nay không phải là nơi thanh tĩnh, thường cấu kết với những nhân vật hắc đạo làm bậy, tránh sao khỏi nhân vật của chính phái điều tra biết.
Y càng nghĩ như thế càng kinh hoảng…
Đột nhiên y nghe thấy phía đằng trước có tiếng cười nhạt rất trái tai vọng tới.
Ngộ Duyên rùng mình kinh hãi, ngẩng đầu nhìn lên thấy có một ông già vừa gầy vừa cao đứng ở phía trước ngăn cản lối đi, hai mắt có hai luồng ánh sáng lạnh lùng tỏa ra, vội quát lớn:
– Ngươi là ai? Nói xong y giơ tay phải ra tấn công luôn.
Ông già cười nhạt một tiếng, giở chưởng lên chống đỡ.
Hai luồng sức va đụng nhau, Ngộ Duyên bị chưởng lực của đối phương đẩy cho loạng choạng, lui về phía sau một bước và cảm thấy ngực cùng hai bên hông đau nhức, khí huyết rạo rực, hiển nhiên là nội tạng bị thương không nhẹ.
Y vội nhảy chéo sang bên tránh né, muốn đào tẩu ngay, nhưng định thực hành thì gáy của y đã bị tay của đối phương chộp lấy, móng tay của địch sắc bén vô cùng.
Y thấy cổ đau nhức như bị phóng hỏa, liền há hốc mồm ra kêu rú.
Ông già lạnh lùng nói:
– Ngươi tưởng kêu rú như thế là có người đến cứu viện phải không? Ngươi đừng có mơ ước hão huyền nữa.
Tất cả người trong chùa từ trên chí dưới đều bị lão phu chế ngự hết.
Ngươi khôn hồn thì ngoan ngoãn ở lại đây lão phu hỏi một câu, phải trả lời một câu.
Ngộ Duyên ngẩn người ra rồi đáp:
– Bần tăng không biết gì đâu.
Ông già lại trầm giọng quát hỏi tiếp:
– Hạ Hầu Hàm với hai người con gái hiện bị giam giữ ở đâu nói mau? Ngộ Duyên liền phấn khởi tinh thần từ từ đáp:
– Họ chia làm ba nơi giam cầm, dù bần tăng có nói rõ ba nơi đó cho lão thí chủ hay, thì một mình lão thí chủ cũng không sao cứu nổi họ ra đâu.
Huống hồ bên trong còn có nhiều hiểm trở…
– Việc này lão phu đã biết rồi, người đừng có hòng lừa để khiến lão phu đi vào đường hầm.
Nếu ngươi nói thực, lão phu sẽ tha cho ngươi khỏi chết.
Ngộ Duyên đảo đôi ngươi một vòng rồi đáp:
– Tại sao thí chủ lại biết được bần tăng nói thực hay nói dối? Bần tăng muốn yêu cầu thí chủ đảm bảo cho bần tăng khỏi bị dây dưa vào việc đó thì bần tăng mới chịu nói rõ cho thí chủ thế nhưng…
Ông già dùng giọng mũi kêu hừ một tiếng, rồi cũng dùng giọng mũi nói tiếp:
– Ngươi đừng có hòng lão phu mặc cả giá, ngươi nói thực thì tính mạng của ngươi sẽ còn.
Lão phu trước hết hãy điểm chín nơi âm huyệt của ngươi trước, để cho ngươi nếm mùi đau khổ đã rồi như lão phu cứu được ba người kia ra xong, mới giải huyệt cho ngươi.
Ngộ Duyên bỗng cảm thấy mạch môn huyệt ở phía sau lưng trúng ngay một chỉ, y kinh hoảng đến mất hết hồn vía.
Y định lập mưu kế trước hết làm cho ông già không tin lời nói của mình, rồi bắt buộc ông phải nhờ y đưa đường, rồi giữa đường y sẽ lập mưu dẫn ông già vào đường chết.
Nhưng có ngờ đâu, ông già đã biết rõ mưu kế của y cho nên mới giở thủ đoạn ác độc đối phó với y trước.
Kết quả là y lại bị đau đớn như thế, nên hối hận vô cùng, không nói cũng không được nữa…
Chờ Ngộ Duyên nói xong, ông già nọ nhanh tay điểm một chỉ nữa, thế là tên hòa thượng đó liền ngã lăn ra đất.
Ông già lạnh lùng nói:
– Nếu lời nói của ngươi mà sai sự thực thì ngươi sẽ chịu đựng những sự đau khổ không thể tưởng tượng được, không ai có thể cứu mi thoát nạn đâu.
Đột nhiên có một cái bóng đen nhanh như gió lướt tới.
Ông già nhanh miệng hỏi:
– Có phải Linh đại hiệp đó không? Người vừa nhảy xuống đó chính là Táng Môn Kiếm Khách Linh Phi.
Vừa xuống tới mặt đất, Linh Phi đã nói:
– Thôi lão sư, lời nói của Ngộ Duyên có đúng như của Bạch Cốt Cửu Hung nói không? Thôi Tiễn đáp:
– Giống nhau như hệt.
Biết vậy chúng ta hà tất phải như thế này làm chi.
Chúng ta không nên chậm trễ, mau mau chia người đi cứu ngay mới được.
Thôi mỗ đoán chắc Bạch Cốt Cửu Hung thế nào cũng bị Gia Hằng chặn đường đón bắt được.
Chúng ta phải theo đường vòng mà đi, vượt qua chúng mà tới chỗ giam giữ trước.
Chẳng hay Lạc Dương đã thông báo cho đại hiệp biết chưa? Linh Phi gật đầu đáp:
– Lạc Dương đã đi trước rồi, chúng ta đi thôi.
Y vừa nói xong, đã cùng Thôi Tiễn tung mình nhảy lên trên cao và đi mất dạng ngay.
-oOo-
Hãy nói Lạc Dương đang bàn luận Phật pháp với phương trượng ở trong thiền phòng, bỗng nghe thấy một tiếng kêu la hét lớn giọng đến nỗi khiến phương trượng mặt hơi biến sắc và nói:
– Đây là tiếng kêu của Ngộ Duyên, lão xin lỗi ra xem y muốn gọi gì? Nói xong, lão hòa thượng liền đứng dậy đi ra bên ngoài.
Y vừa bước qua ngưỡng cửa đã thấy một ông già cao lớn, lưng đeo trường kiếm đứng sừng sững ở ngoài cửa, hai mắt lóng lánh như hai ngọn đèn.
Lão phương trượng thấy vậy, giật mình kinh hãi, vội giơ song chưởng lên tấn công vào người ông già nọ.
Ông già cười nhạt một tiếng, giơ tay lên vừa chống đỡ, vừa gạt song chưởng đó sang bên.
Chỉ nghe thấy ùm một tiếng, thân hình của hai người đều chéo sang bên một bước.
Ông già nọ biến thế nhanh kỳ lạ, lại tấn công luôn năm chưởng, chưởng nào cũng mạnh khôn tả.
Lão phương trượng cũng không phải là tay hèn kém, nhưng vì ra tay chậm hơn một chút đã bị ông già chiếm ngay lợi thế.
Chưởng thế của ông già vừa nhanh, vừa mạnh, dồn cho lão hòa thượng không sao trả đũa lại được, nên y chỉ tránh né và chống đỡ thôi.
Đột nhiên, lão phương trượng mạo hiểm xông lên giở chiêu Ngũ Lôi Oanh Đỉnh tà tà tấn công vào cánh tay phải của ông già, mồm thì quát lớn:
– Thí chủ bỗng dưng đến đây gây thù, gây hấn, bắt buộc lão tăng phải sát giới, xin đừng có trách.
Ông già thấy đối phương đã định tâm thí mạng, mới tiến lên mạo hiểm như thế nên nhảy lùi về phía sau năm thước.
Lão hòa thượng thấy dịp may như vậy khi nào chịu bỏ lỡ, liền nhanh như chớp tiến lên năm bước giở hết bình sinh tấn công đẩy mạnh ra, mồm thì quát lớn:
– Lão tăng phải dùng đến Bạch Cốt Âm Phong chưởng lực đây.
Y chưa nói dứt, đã cảm thấy mệnh môn huyệt ở phía sau lưng tê tái, mắt hoa tai ù, mặt mũi tối tăm ngã người ra liền.
Đằng sau phương trượng đã có Lạc Dương xuất hiện, chàng vừa thấy Linh Phi đã lên tiếng gọi:
– Linh sư bá! Linh Phi vội lấy một cái mặt nạ da người ra đưa cho Lạc Dương và vội nói:
– Mặt nạ này là của lệnh sư năm xưa tặng cho lão, hiền điệt đeo lên đề phòng Gia Hằng nhận ra.
Hiền điệt đi ngay tới Hương Nhật Chiêu Phong ở đông nam cứu Hạ Hầu Uyển Chân ra khỏi nơi đó rồi tới ngay Thôi Kinh Các ở cửa đông kinh thành mà hội họp.
Lão hiệp vừa nói xong, người đã đi xa sáu bảy trượng liền.
Lạc Dương đỡ lấy cái mặt nạ da người, trong lòng hớn hở mừng thầm.
Năm xưa chàng theo sư phụ Tạ Vân Nhạc đi Mục Trường ở Sát Bắc đã trông thấy sư phụ dùng qua cái mặt nạ này.
Tuy chàng chỉ mới cầm lấy cái mặt nạ của Vân Nhạc để lại mà đã cảm thấy không khác gì trông thấy sư phụ của mình rồi, trong lòng hớn hở, vuốt khẽ cái mặt nạ một hồi rồi quay người giở khinh công chạy ra khỏi chùa liền.
Lạc Dương chạy thẳng về phía đông nam, vượt qua mấy ngọn núi đã lên tới trên đỉnh núi nọ.
Trên đó, cây cối mọc um tùm và cây nào cũng cao chọc trời.
Chàng đang đi đột nhiên thấy phía trước có gió mạnh thổi tới, biết ngay có người tấn công mình, liền ngồi sụp xuống và nhảy lùi về phía sau hơn năm trượng.
Khi đứng dậy, tay đã cầm cái quạt giở ngay thế Liêm Khuyển Tây Phong (mành mành cuốn gió tây) phản công lại, sau đó chàng định thần nhìn kỹ, mới hay phía trước mặt mình hơn trượng có hai cái bóng đang nhìn chàng cười khì khì.
Một người trong bọn liền quát hỏi:
– Ngài định đi đâu thế? Giọng nói rất lạnh lùng, tựa như tiếng ma khóc vậy, khiến ai nghe thấy cũng phải rùng rợn.
Lạc Dương liền cười nhạt đáp:
– Lạ thực, núi La Phù này có tất cả bốn trăm ba mươi hai ngọn, tha hồ cho người ta lên thưởng thức.
Hai vị đã leo lên được trên này, chẳng lẽ tôi không có quyền lên hay sao? Người nọ bỗng thốt ra tiếng cười rất đinh tai và một hồi lâu người đó mới quát lớn:
– Ngươi muốn chết thì nạp mạng ngay đi.
Nói xong, y giơ hữu chưởng lên tà tà nhằm vai phải của Lạc Dương chém xuống.
Thế công của y kỳ ảo khôn lường.
Lạc Dương cảm thấy một tiềm lực rất ôn nhu lấn át tới, chàng liền quát lớn một tiếng người chạy chéo sang bên múa cái quạt lên tấn công luôn tám thế một lúc.
Nan quạt có những luồng gió mạnh tia ra như vũ như bão nhằm các nơi yếu huyệt của người nọ tấn công tới, lúc ấy còn có một người đứng trong bóng tối chẳng nói chẳng rằng.
Y trông thấy Lạc Dương giở thế quạt đó ra liền tỏ vẻ kinh ngạc, đoán người đồng bọn của y tuy công lực rất cao, nhưng nhất thời chưa chắc đã thắng nổi đối phương.
Y thấy thế quạt của Lạc Dương tinh diệu khôn lường, bỗng nghĩ ngay ra một người.
Y vội quát gọi người kia rằng:
– Nhị đệ quay trở lại đây, ngu huynh có chuyện này muốn nói cho nhị đệ hay.
Người nọ nghe nói vội nhảy ra ngoài hai trượng và nói với Lạc Dương rằng:
– Ngài hãy ngưng tay đã.
Nói xong, người nọ quay người lại, đi về phía người núp trong bóng tối và hỏi:
– Đại ca gọi tiểu đệ có việc gì dặn bảo thế?
– Nhị đệ không thấy rõ hay sao? Thế quạt của đối phương giống hệt độc môn thủ pháp của Sơn chủ cô nương, hiền đệ dám trêu ngươi vào thì thật táo gan lắm.
– Đại ca nhận xét có đúng không?
– Có bao giờ ngu huynh lừa dối nhị đệ đâu.
– Biết làm sao bây giờ đây?
– Không phân thắng bại, công lực ngang nhau, rút lui lúc này là thích hợp nhất.
Ngu huynh với hiền đệ nên đi ngay thì hơn.
Người nọ trù trừ giây lát, liền quay người lại đi tới trước mặt Lạc Dương vái chào và đáp:
– Đêm khuya, trời tối, ngộ nhận ngài là người khác, cho nên mới dám xúc phạm như vậy, mong ngài lượng thứ cho.
Y vừa nói dứt lời, đã quay người cùng người nọ chạy thẳng vào trong rừng sâu tức thì.
Lạc Dương thấy hai người đó tới rất ly kỳ và đi cũng rất đột ngột, đủ thấy trong võ lâm thực là gian trá, huyền ảo.
Chàng không kịp nghĩ ngợi gì nhiều hơn nữa, cũng rảo bước đi ngay.
Lạc Dương chạy vào trong rừng trúc, giở khinh công tuyệt mức ra, chạy thẳng lên trên núi cao chót vót.
Đột nhiên trong rừng có tiếng nói ỏn ẻn vọng lên:
– Không biết Gia Hằng đã sửa soạn xong chưa, vừa rồi có tin bảo bọn Bạch Cốt Cửu Hung hoàn toàn bị tiêu diệt.
Đêm khuya canh dài, ở đây chờ lâu như thế, quả thực buồn bực khôn tả.
Lạc Dương nghe tiếng đó liền rùng mình một cái và nghĩ thầm: “Tiếng nói ỏn ẻn này chả là tiếng nói của Mai Nhi là gì.
Tại sao nàng lại tới đây? Không cần nói rõ ta cũng biết Tố Lan cô nương cũng tới núi La Phù này rồi.
Không biết nàng thấy mặt mình, mình nên đối đáp với nàng ra sao? Chắc Gia Hằng mời thầy trò nàng đến trợ giúp cũng nên.” Nghĩ tới đó, chàng lo âu cho bên mình, vì biết võ công của Tố Lan rất cao siêu.
Có lẽ người bên mình không ai địch nổi nàng, vì vậy chàng đứng lại lắng tai nghe.
Mai Nhi nói xong, lại một thiếu nữ khác lên tiếng nói tiếp:
– Chị Mai ơi! Chi bằng chúng ta đi đến chỗ bị giam giữ, đưa Hạ Hầu Uyển Chân đi tổng đàn trước có lẽ hơn.
Tiếp theo đó Mai Nhi trả lời:
– Cô em không biết đấy thôi.
Gia Hằng làm sao biết được tổng đàn ở đâu, ngay đến thủ hạ của bổn sơn, nếu không phải là người có chức cũng không biết nốt.
Cô em đã nói như vậy, chúng ta đem Hạ Hầu Uyển Chân hội họp với Gia Hằng cũng được.
Tiếng nói của hai người liền im lặng, Lạc Dương lại nghĩ tiếp: “Nguy tai, Hạ Hầu Uyển Chân đã bị hai nàng đem đi, sẽ lại tốn rất nhiều thời giờ và hơi sức mới có thể tìm thấy được.” Nghĩ đoạn, chàng lo âu vô cùng, liền chạy ngay ra.
Đột nhiên phía đằng trước có tiếng kinh hãi kêu la:
– Chị Mai, Hạ Hầu Uyển Chân đã bị người cứu đi rồi.
Mai Nhi hình như kinh ngạc vô cùng liền hỏi lại:
– Sao, mất tích rồi ư? Lạc Dương liền tiến thẳng về phía trước đưa mắt nhìn, xa xa trông thấy trên đường dốc trong khóm trúc có một căn nhà thấp nhỏ.
Trước căn nhà nhỏ đó có hai cái bóng đen mảnh khảnh, chỉ thoáng cái đã biến mất.
Chàng biết hai nàng đó đã tìm được manh mối mà theo tung tích đuổi theo rồi.
Chàng vội chạy vào ngay căn nhà nhỏ bé ấy, thấy bên trong chỉ có trơ bốn vách và một cái sập thôi, chứ không có vật gì khác.
Chàng lại chạy ra ngoài nhà và theo lối đi của hai thiếu nữ mà đuổi theo.
Nhưng vì trời tối, cây cối um tùm, chàng không sao tìm thấy tung tích của hai người.
Chàng vượt qua liền ba ngọn núi, gió núi thổi phủ mặt, chàng không những không thấy mát mẻ trái lại còn thấy mặt mũi tối tăm đầu nhức vô cùng.
Chàng đứng ngẩn người ra ở trên đỉnh núi hồi lâu, đưa mắt quét nhìn một vòng cũng không thấy hình bóng của hai thiếu nữ kia, chàng liền ngấm ngầm tự trách: “Lần đầu tiên ta gánh trọng trách mà bị thất thố như vậy.
Đầu tiên lẽ ra phải thay đổi ngay kế hoạch ngừng việc đi vào sào huyệt của Gia Hằng, bắt ngay Ngộ Duyên dùng cực hình ép y phải thổ lộ chỗ giam giữ Hạ Hầu Hàm với hai con ở đâu, và ta đi cứu ba người đó trước, thì làm gì có sự thất thế?” Lạc Dương đang hối hận thì bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng nước chảy như tiếng sấm động vọng tới.
Chàng nhìn theo về phía đó thấy một ngọn núi cao chót vót đang có mười mấy người đuổi nhau nhanh như điện chớp.
Chàng kêu hừ một tiếng rồi giở khinh công tuyệt mức ra tiến thẳng về phía núi đó.
Chàng càng chạy tới gần, tiếng nước kêu đó càng như trời long đất lở vậy, những bóng người vừa rồi đã biến mất, không còn một người nào ở lại.
Chàng ngạc nhiên vô cùng, nhưng không trì hoãn chút nào, liền chạy thẳng lên trên ngọn núi.
Chàng định thần nhìn kỹ, tâm thần phấn chấn vô cùng, thì ra trước mắt có một cái hồ thiên tạo rộng chừng mấy trăm trượng, nước hồ xanh biếc, bốn bên có bốn vách núi bao vây, hồ sâu không thấy đáy.
Vách núi bên đối diện có một cái thác rất lớn, nước ở đó đổ xuống hồ tựa như một con Ngọc Long uống nước vậy.
Bỗng chàng phát giác một sự bí mật, là thấy nước hồ lên dần, cứ nửa tiếng đồng hồ nước đã lên cao ba phân.
Chàng suy nghĩ một hồi đoán chắc bên trong thế nào cũng có sự gì khả nghi.
Trước hết hồ cứ dần lên như vậy, không đầy một ngày, nước sẽ đầy tràn và đổ xuống chân núi, bên dưới sẽ lụt liền.
Hơn nữa, mười mấy bóng người kia lại chạy đi đâu như vậy, thể nào cũng có liên quan đến cái hồ này.
Bây giờ, chàng quyết phải tìm ra cho được nghi vấn đó, chàng liền đi vòng quanh hồ.
Vì Linh Phi chỉ cho chàng biết chỗ giam giữ Hạ Hầu Uyển Chân thôi, còn hai nơi kia thì không biết, nên chàng muốn ở lại đây tìm cho ra manh mối.
Chàng đi được mấy chục trượng, đột nhiên phát hiện một người bị thương nặng nằm ở trên sườn núi.
Chàng ngạc nhiên vô cùng, vội chạy lại người bị thương đó, thấy người ấy tuổi trạc ngũ tuần, trước ngực bị kẻ địch dùng nội lực chấn gãy xương, xương gãy đâm thủng cả áo bên ngoài, máu dính be bét, vai bên trái cũng bị khí giới chém một vết thương rất sâu, sắc mặt nhợt nhạt, hai mắt lờ đờ, mồm rên rỉ rất khẽ.
Lạc Dương thấy vậy thở dài một tiếng, ngồi xổm xuống hỏi người bị thương:
– Làm sao lại ra nông nỗi này? Bây giờ bạn thấy sao? Có cần tôi đỡ bạn đi cứu chữa không? Người nọ từ từ mở mắt ra nhìn, khẽ cười nhạt một tiếng rồi đáp:
– Đời sống võ lâm, sống được buổi sáng, không sống được buổi chiều.
Người mạnh còn, kẻ yếu chết.
Đó là định luật tự ngàn năm, ngài hà tất phải hỏi như thế làm chi…
Lạc Dương nghĩ thầm: “Người này cũng cứng cỏi thực đấy.” Chàng lại nghe thấy người đó nói tiếp:
– Tạng phủ của lão đã rời khỏi nguyên vị và máu cũng đã chảy quá nhiều.
Dù có tiên đơn cũng không cứu lão thoát chết được.
Đây là lão tự làm tự chịu, lão đáng bị báo ứng như thế lắm.
Nếu ngài có nhân đức, xin ban cho lão một chưởng thì lão không bao giờ quên ơn ngài hết.
– Không bao giờ tôi thấy chết lại không cứu, nhưng xin hỏi, bạn đã bị ai đả thương, có cần tôi đem thư để trả thù này không? Người nọ đáp:
– Có ai trả thù được cho lão, lão là Viên Công Kiếm, lão bị Gia Hằng đả thương đó.
Lạc Dương ngẩn người ra, vội hỏi lại:
– Gia Hằng lại ác độc thế ư?
– Không có ác độc gì cả, chỉ trách lão thèm muốn bảo kiếm của y mới lấy được đây, nên lúc y rời khỏi sào huyệt, lão liền lấy luôn thanh kiếm đó.
Kiếm tuy đã lấy được nhưng bị y phát hiện.
Chỉ hận lão công lực không bằng, nên rút cục bị lấy lại thanh bảo kiếm và còn bị y đánh trúng một chưởng.
Cũng may Gia Hằng phải rời khỏi La Phù nên lão không còn bị đánh tiếp, nhưng lão cũng không sao tránh khỏi cái chết.
Nói xong bấy nhiêu lời, người nọ đã thở hồng hộc tỏ ra đau đớn vô cùng.
Lạc Dương cả kinh hỏi:
– Gia Hằng rút lui khỏi La Phù, vậy y rút lui đi đâu à? Khi nào y lại chịu bỏ rơi nơi bí hiểm như thế? Người nọ thở dài một hồi mới trả lời:
– Thế ra ngài cũng biết rõ sào huyệt của y ở đâu, nếu ai ai cũng biết cả thì sào huyệt của y không phải bí ẩn gì nữa.
Nhưng có một việc không thể tưởng tượng được là ngài ở trên đỉnh núi xuống đây chắc thế nào cũng thấy một cái hồ, cái hồ này là sào huyệt của Gia Hằng.
Còn y rút lui đi đâu thì xin lỗi lão không biết rõ.
Thốt nhiên, Lạc Dương không thể ngờ có chỗ bí ẩn như thế, liền tỏ vẻ kinh ngạc nhưng cũng không tiện hỏi, vội giơ ngón tay lên điểm luôn vào tử huyệt người nọ, rồi chàng tung mình nhảy lên, đi tới lưng chừng ngọn núi, ngắm nhìn hồ nước và nghĩ thầm: “Chiều hôm qua, ta vào trong tổng đàn của Gia Hằng nghe văng vẳng có tiếng nước, chắc là nơi tiếng nước này đây.
Ngoài ra, thế nào cũng có một lối khác để rút lui ra nữa, và sau khi rút lui, Gia Hằng đã bịt luôn lối đó, nên mới đổ dồn xuống hồ này như vậy.
Nhưng trong mấy tiếng đồng hộ ngắn ngủi như thế sao mà nước đã lên lớn như vậy?” Lạc Dương biết công việc làm của mình ở La Phù đây đã hư hỏng, chán nản vô cùng liền rút lui luôn.
Chàng đặc biệt đi vòng tới chỗ vách đá mà hôm qua chàng đã đi vào tổng đàn của Gia Hằng.
Chàng thấy cây cối vẫn mọc um tùm như thường, nhưng dưới cây thông chỗ khe đá có nước thác đổ xuống dài hàng ngàn trượng.
Tiếng nước chảy kêu như sấm động, chàng đứng ngắm một hồi rồi đi xuống núi La Phù trở về Tăng Thành.
Cơm nước xong, chàng lại đi Tỉnh Thành ngay.
Mặt trời nóng như thiêu, người nào cũng mồ hôi ra nhễ nhại, Lạc Dương chạy nhanh như thế mà người không thấy ướt chút nào.
Chàng vừa đi vừa nghĩ đến lời nói của hai thiếu nữ, chàng lại thấy Mai Nhi với Gia Hằng có liên can gì với nhau, mà nàng ta lại đi xa đến trời Nam này.
Chàng lại nghĩ đến Tố Lan, nhận thấy nàng ta quả thực là nữ trung hào kiệt nên chàng đoán chắc Gia Hằng cũng là đồ đệ của nàng.
Chàng đang đi, bỗng nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa và hình như có mấy người đi tới.
Chàng quay đầu lại nhìn thấy cát bụi bay mù mịt và có chừng mười mấy người đang phi ngựa nhanh như điện chớp tới.
Những người cưỡi ngựa đó già có, trẻ có, lưng lại đeo khí giới, thoáng cái đoàn người đó đã tới.
Người đi đầu thấy Lạc Dương quay đầu lại nhìn có vẻ đối địch nên giận dữ kêu hừ một tiếng, liền múa roi ngựa nhằm mặt chàng quật luôn.
Lạc Dương thấy người đó bỗng tự dưng gây hấn với mình nên cũng không sao nén được lửa giận, chờ đầu roi sắp tới trước mặt mới lẹ lạng tránh sang bên phải, năm ngón tay trái chộp luôn vào đầu roi đó.
Thủ pháp của chàng nhanh kỳ lạ, chộp một cái đã bắt được đầu roi đó lại.
Chàng giở sức ra giật một cái, người cưỡi ngựa kia mới kêu được một câu ái thì người đã bị rơi xuống đất.
Những người khác thấy vậy cả giận vội nhảy cả xuống đất múa khí giới xông lại tấn công chàng.
Từ khi rời khỏi La Phù tới giờ trong lòng chàng phẫn uất, hậm hực khôn tả, bây giờ chàng trông thấy bọn người này, biết không phải là bọn hiền lành, nên vội rút cái quạt ra, thân hình như xuyên hoa hồ điệp, xông lại tấn công luôn.
Thế công nào của chàng cũng ác độc khôn tả, hình như chàng định giết chết bọn người này cho hả giận vậy.
Thế quạt của chàng tinh ảo và ác độc khôn lường, chỉ thoáng cái đã có hai người bị đánh té.
Người bị chàng giật rơi xuống đất cũng xông lại vây đánh, trận đấu diễn ra rất kịch liệt.
Đôi bên tựa như là kẻ thù, kẻ hằn, đấu thí mạng với nhau, nhưng đôi bên không hiểu tại sao mà ác hiểm như thế.
Đột nhiên có tiếng quát tháo lanh lảnh và có hai cái bóng trắng ở trên không đáp xuống.
Mọi người nhìn kỹ mới hay đó là hai thiếu nữ áo trắng xinh đẹp.
Lạc Dương nghe tiếng quát tháo rùng mình, vội nhảy xa bốn năm trượng.
Chàng đã thấy rõ hai người đó là Mai Nhi và một thiếu nữ.
Mai Nhi không nói năng gì với mọi người cả, chỉ trợn tròn đôi mắt lại để nhìn Lạc Dương hình như đợi chàng giải đáp một vấn đề nan giải gì vậy.
Lạc Dương vẫn còn đeo cái mặt nạ da người chết, bộ mặt lầm lì không nói nửa lời.
Tuy không lo Mai Nhi nhận ra nhưng chàng vẫn hoảng sợ nên trống ngực đập rất mạnh.
Mai Nhi thấy Lạc Dương có vẻ quen lắm nhưng vì cái mặt nạ da người làm cho nàng nghĩ mãi vẫn không sao ra.
Nàng ngắm Lạc Dương một hồi, rồi quay lại nhìn bốn người kia và nói:
– Các ngươi, tại sao ở đây đánh nhau, ai gây chuyện trước? Lai lịch của người này là ai? Nói thực, không được nói dối, các ngươi đã biết ta hành sự như thế nào, nếu nói sai một lời đừng có trách ta trừng phạt ác độc.
Mười mấy người kia mặt đỏ bừng im thin thít, không dám nói nửa lời.
Lạc Dương thấy vậy nghĩ thầm: “Xem chúng sợ hãi như vậy, chắc Mai nhi thể nào cũng có quyền lớn lắm, có thể tự do chém giết những bộ hạ”.
Chàng định tự nhận mình là Lạc Dương để hỏi Mai Nhi xem tại sao lại tới trời Nam này làm chi, nhưng lại thôi, sợ Mai Nhi bắt mình trở về nhà Tố Lan.
Lúc này, Mai Nhi mặt lạnh lùng cười nhạt và nói tiếp:
– Hiển nhiên, các người sinh sự trước.
Hừ, ở giữa đường ta không muốn trừng trị, để về nhà ta sẽ thưa cô nương trừng trị các người sau.
Nàng nói tới đó, đưa mắt nhìn hai người bị thương, liền cau mày lại nói:
– Các người bị vật gì đả thương vậy? Hai người đó vừa hổ thẹn, chưa kịp trả lời thì một đại hán tuổi trung niên mặt đỏ đã lên tiếng:
– Thưa cô nương, chúng bị cái quạt nan đen đả thương.
Hiện giờ, không biết ai phải, ai trái, chỉ biết lai lịch của tên kia khả nghi lắm.
Bằng không, chúng tôi cũng không sinh sự với y làm chi.
Mai Nhi nghe thấy người nọ nói đến cái quạt nan đen, liền trợn mắt lên nhìn vào mặt Lạc Dương một hồi rồi nói:
– Là…
Lạc Dương vừa thấy nàng ta nói đến tên đã quay mình chạy luôn.
Mai Nhi bảo mấy người nọ lên ngựa đi luôn, còn nàng với thiếu nữ nọ liền đuổi theo Lạc Dương.
Nhờ có cái rừng rậm, Lạc Dương chạy vào ẩn núp rồi nhìn ra ngoài thấy Mai Nhi với một thiếu nữ nữa đang đuổi tới.
Hai người đuổi theo vào tới đây không thấy tung tích của Lạc Dương, Mai Nhi liền giậm chân xuống đất mấy cái rồi nói:
– Sao chàng ta lại hiểu lầm và cứ tránh không chịu gặp mặt chúng ta? Thiếu nữ nọ kinh ngạc liền hỏi:
– Chị Mai, y là ai? Có phải chị quen biết với y không? Mai Nhi thở dài một tiếng rồi đáp:
– Không những quen biết mà còn ngày đêm gần gũi nhau nữa, cũng vì y đi khỏi mà tính nết của Hách cô nương thay đổi hẳn, hơi tức là giết người ngay.
Không ngờ cách biệt có mấy ngày mà chàng ta đã coi tôi như người dưng, kẻ lạ vậy.
Thiếu nữ nọ nghe nói ngạc nhiên vô cùng, vì nàng không biết Tố Lan với Lạc Dương thân yêu nhau nên nàng mới không tin, bèn lên tiếng hỏi:
– Người đó xấu xí như vậy tại sao lại được cô nương chúng ta để ý tới?
– Cô không biết đâu, chính tôi đây suýt nữa cũng bị chàng ta đánh lừa mà không hay.
Chàng là người đẹp trai và nho nhã lắm, chàng cải hình, đổi dạng nên bộ mặt mới xấu xí như thế thôi, nếu như bọn chúng không nói đến cái quạt nan đen, thì ta cũng không đoán ra được là chàng.
– Người phụ bạc như thế mà chị còn bảo là nhân phẩm tốt với chẳng tốt.
Sau này, nếu em bắt gặp thể nào cũng giết chết chàng ta cho rảnh, xưa nay em vốn ghét những con người bạc tình như thế.
– Điều này không thể trách chàng ta được, chỉ tại cô nương ta bận công việc ràng buộc đấy thôi.
Huống hồ, chàng đang vội tìm kiếm kẻ thù, thì tất nhiên không thể đợi chờ cô nương với chị, nên mới phải đi trước như thế.
Nói xong, nàng ngừng lại giây lát, đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh rồi lại nói tiếp:
– Chúng ta thấy còn có việc khẩn cấp phải đi làm ngay, không thể nào ở lại đây tìm kiếm chàng ta nữa.
Thôi được, phải về thưa lại với cô nương để cô nương quyết định.
Nói xong, hai người lại đưa mắt nhìn chung quanh một vòng rồi mới xăm xăm đi luôn.
Một lát sau, Lạc Dương mới hiện thân ra, đứng ngây ra như người mất hồn mất vía, hình bóng đẹp tuyệt vời của Tố Lan lại hiện lên trong tâm trí của chàng, nhưng vì còn nhiều việc khẩn cấp cần giải quyết không cho phép chàng nghĩ nhiều về chuyện tình ấy được.
Chàng đành thở dài một tiếng rồi quay người đi luôn.
-oOo-
Trên núi Việt Tú ở phía bắc thành Quảng Đông có một cao lâu cao năm tầng gọi là Trấn Hải lầu, kiến trúc từ năm Hồng Võ thập tam niên, triều đình Minh do Chu Lượng Tố xây nên, đời nào cũng bị tiêu hủy nhưng lại được tu sửa hay kiến trúc ngay.
Lầu này là một trong những thắng cảnh của Lĩnh Nam, cứ đến ngày xuân và thu là có người lên đó du ngoạn đông như kiến.
Lên trên lầu nhìn xuống có thể thấy hết cảnh đẹp của thành phố.
Và đến đêm, trên sông Châu Giang đèn lửa huy hoàng trông lại càng đẹp mắt thêm.
Phong tục của Lĩnh Nam là thích uống trà, bất cứ sĩ, phu, công, thương người nào cũng đều uống trà hết.
Hễ nhàn rỗi là đến trà lầu để uống trà ngay, vì vậy ở Lĩnh Nam đi đến đâu cũng thấy có trà lâu.
Người Trung Hoa có câu tục ngữ rằng: “Sống ở Tân Châu, Mặc ở Hàng Châu, Chết ở Liễu Châu, Ăn ở Quảng Châu.” Cho nên người Quảng Đông không những hay ăn mà lại còn chế biến những món ăn rất ngon lành.
Những trà lâu, tuy gọi là trà lâu nhưng lại có đủ các thức ăn uống, chứ không như ở trên miền bắc trà lâu là chỉ có uống nước mà thôi, còn tửu lâu thì mới có ăn.
Góc lầu bên phải trên tầng thứ năm Trấn Hải lâu có phòng ăn nho nhỏ dùng bình phong ngăn cách nên người ta gọi là nhà tọa chứ không gọi là phòng.
Trong nhà tọa đó, đang có sáu bảy người ngồi ăn, người nào người nấy đều ủ rũ rầu rĩ.
Trong bọn người đó, có Từ Đông Bình với Linh Phi, còn năm sáu người kia đều lạ mặt không biết tên.
Lúc ấy, trời đã sâm sẩm tối, các nhà đều thắp đèn đóm lên.
Khách lên xuống đông đúc, cứ phải chen vai thích cánh, tiếng nói chuyện cũng ồn ào như chợ.
Linh Phi bỗng trông thấy Lạc Dương đang chen chúc trong đám đông, vội đứng dậy vẫy tay gọi, Lạc Dương vội tới gần, cúi mình vái chào và nói:
– Tiểu điệt bất tài nên không làm xong được việc của Linh bá bá trao cho, vì khi tiểu điệt tới nơi, thì không thấy Hạ Hầu Uyển Chân đâu hết.
Thôi Tiễn xua tay, xen lời nói:
– Hiền điệt, khỏi ân hận, lão tới nơi cũng hụt nốt.
Không những thế mà còn suýt bị chết đuối vì nước lũ đổ xuống nữa.
Lạc Dương hơi ngẩn người ra giây lát rồi ngạc nhiên hỏi lại:
– Thôi sư bá, sào huyệt của Gia Hằng đã bị nước thác đổ xuống biến thành cái hồ rồi, có phải sư bá cùng mấy vị sư bá đây suýt chết đuối ở cái hồ đó không? Thôi Tiễn gật đầu, vẻ mặt u uất nói:
– Gia Hằng không phải là một tay tầm thường.
Không ngờ năm năm sau y tái xuất giang hồ mưu kế còn tài ba hơn trước nhiều, võ công cũng tinh thâm khôn lường.
Nói xong, y đưa mắt liếc nhìn Đông Bình một cái rồi lại nhìn thẳng vào mặt Lạc Dương và nói tiếp:
– Từ sư bá của hiền điệt có tiếng là người đứng đầu Giang Nam Tứ Kiếm, kiếm thuật tinh ảo đã nổi danh trong võ lâm, thế mà đấu với Gia Hằng còn bị y dùng thế Phi Hoa Dương Tỷ (hoa bay rối tung lên) đâm cho bốn chỗ bị thương nhẹ và còn bị một chỉ vào Thùy Phong huyệt nữa.
Độc môn thủ pháp này không sao giải được.
Lạc Dương nghe nói đưa mắt nhìn Đông Bình, thấy Đông Bình mặt nhợt nhạt, cả kinh và hỏi:
– Chẳng lẽ ngoài Gia Hằng ra trên thiên hạ không có ai có thể giải được huyệt ấy hay sao? Linh Phi lắc đầu, gượng cười đáp:
– Điều này khó nói lắm, lão chỉ biết có một người giải được độc môn thủ pháp này thôi.
Lạc Dương hỏi lại:
– Người đó là ai? Nếu có một võ lâm kỳ tài như vậy tại sao không đến tận nơi nhờ người đó chữa cho? Đông Bình bỗng lên tiếng gượng cười nói:
– Hiền điệt, người đó là lệnh sư Tạ Vân Nhạc, bây giờ cũng không biết ông ta sống chết ra sao, đi đâu mà tìm kiếm cho được.
Lạc Dương liền rầu rĩ nói tiếp:
– Chẳng lẽ sư bá lại thúc thủ chờ chết hay sao.
Tiểu điệt không tin trên thiên hạ này lại không có người khác giải được thủ pháp độc môn điểm huyệt của Gia Hằng.
Đông Bình trợn ngược đôi lông mày lên một cái, rồi cười và nói tiếp:
– Tuy chưa giải được yếu huyệt đó, lão đợi ba năm cũng chưa đến nỗi chết.
Lão tin số mạng lắm, chưa chắc Gia Hằng đã toại nguyện, hiền điệt tới đây chắc thế nào cũng có duyên cớ gì.
Hiền điệt, thử nói rõ tình hình cho chúng ta nghe xem có tìm ra được manh mối gì không.
Lạc Dương suy nghĩ giây lát rồi cho biết tình cảnh mà mình đã trải qua nhưng lại giấu chuyện Mai nhi, vì không muốn lôi kéo Tố Lan vào trong cuộc.
Thôi Tiễn nghe xong, kinh ngạc và hoài nghi vô cùng:
– Hạ Hầu Uyển Chân mất tích hiển nhiên không phải bọn Gia Hằng giết hại hay di chuyển đi nơi khác, ngay cả cha con Hạ Hầu cũng vậy.
Chắc thế nào cũng có một tay cao thủ cứu họ, bằng không thực là một chuyện kỳ lạ không sao tưởng tượng được.
Lạc Dương lại tiếp:
– Có lẽ đó là Hoành Nhất tên giặc sói đầu, ra tay cũng nên.
Linh Phi nhìn Lạc Dương lắc đầu đáp:
– Không đúng, vì tên giặc sói đầu Hoành Nhất đã bị Gia Hằng khoét hai mắt, chặt chân tay đi rồi thì làm gì nổi.
Quần hùng nghe nói lại càng thắc mắc thêm.
Lúc ấy bỗng có một người tuổi trạc tứ tuần, ăn mặc như nhà buôn, từ từ đi tới khẽ hỏi:
– Không biết vị nào là họ Linh thế? Linh Phi ngạc nhiên vô cùng, liền đứng dậy, hỏi lại:
– Không dám, đệ họ Linh, không biết các hạ kiếm đệ có việc gì chỉ giáo? Người nọ tỏ vẻ cung kính đáp:
– Tôi là họ Châu, biệt hiệu Hải Minh, có người nhờ vả tại hạ đem lá thư tới đây, trao cho các hạ.
Linh Phi càng ngạc nhiên thêm, vội hỏi lại:
– Cảm phiền các hạ, nhưng không biết người nhờ các hạ là ai thế? Hải Minh móc túi lấy một lá thư đưa ra cho Linh Phi rồi vừa cười vừa nói tiếp:
– Ngài đọc lá thơ này xong thì sẽ biết người đó là ai.
Tại hạ còn chút việc bận vậy xin cáo từ.
Nói xong, y chắp tay vái chào, rồi quay mình định đi luôn.
Linh Phi vừa trông thấy bút tích trên lá thơ, đã giật mình thất kinh, liền lớn tiếng kêu gọi:
– Mời các hạ hãy ngưng bước đã, đệ có việc này muốn thưa cùng.
Đông Bình và Lạc Dương các người thấy Linh Phi thần sắc khác thường, chắc thế nào cũng có việc gì xảy ra, vội đứng cả dậy.
Hải Minh từ từ quay người lại đáp:
– Người viết lá thơ ấy đã sớm rời khỏi tỉnh thành rồi.
Chính tại hạ cũng không biết tên họ của ông ta là chi cả.
Tại hạ chỉ biết thừa lệnh đem thư tới đây thôi.
Các hạ có giữ tại hạ lại đây cũng vô ích thôi.
Linh Phi nghiêm nét mặt lại nói tiếp:
– Mời các hạ hãy ngồi xuống chơi giây lát, để đệ đọc xong lá thư này, rồi cho đệ hay những cái gì mà các hạ đã biết, có thế thôi.
Và các hạ cũng phải cho phép đệ được mời một chén rượu nhạt chứ? Hải Minh tỏ vẻ khó xử, miễn cưỡng gật đầu đáp:
– Thịnh tình của các hạ như vậy, tại hạ còn biết từ chối sao được.
Nhưng chỉ e tại hạ không giúp được gì cho các hạ thôi.
Nói xong, y liền ngồi xuống ngay.
Linh Phi đưa mắt nhìn mọi người một cái, rồi gượng cười nói:
– Linh mỗ đã sớm biết y chưa chết.
Quả thật Linh mỗ đoán không sai.
Mọi người đều kinh ngạc hỏi:
– Ai thế? Linh Phi nhìn Lạc Dương và đáp:
– Lệnh sư Tạ Vân Nhạc chứ còn ai nữa..